- XIIV - Phụ lục -Cụ bà Trần Cao Vân-Người đàn bà Việt Nam gương mẫu
Đọc qua tiểu sử cụ Trần Cao Vân, bạn đọc thấy bùi ngùi cảm mến đời chí sĩ, thì bạn đọc càng nên biết đến tiểu sử của một người gái Việt là một nội tướng đắc lực, một đồng chí chân thành giúp đỡ họ Trần hoàn thành cái sứ mệnh của người trai nước Nam.
Người gái Việt ấy chính là cụ bà Cao Vân, mà soạn giả mạn phép gọi là người đàn bà Việt Nam gương mẫu.
Cụ bà Cao Vân tức Võ thị Quyền (cô Ba Bàn), đã chép ở trước. Cụ bà sinh năm Mậu Thìn (1868), trong một gia đình hào phú, lại mỗi mình cụ là gái nên thân mẫu cụ quý lắm, không mấy khi cho ra khỏi nhà, vì thế nên cụ bà không được học tập.
Năm cụ bà được hai mươi ba tuổi, tuổi tuy đã lớn, nhưng mỗi lần có người bàn đến việc hôn nhân thì đều bị thân mẫu cụ bà cự tuyệt. Huống nữa, việc hôn nhân ấy với cụ Cao Vân, một thư sinh chán thi bỏ học, thân mẫu cụ bà càng không đẹp lòng. Tuy thế, nhờ có ông Thừa Tô ngày đêm nằn nì ép uổng, kết cuộc thân mẫu cụ bà phải bằng lòng cho cụ bà kết hôn cùng cụ Cao Vân để rồi cụ bà được làm một người đàn bà gian lao trong lịch sử gái Việt!
Hai lăm tuổi đầu, cụ bà Cao Vân cũng như tất cả những người gái quê thuần phác, nào có biết việc nước việc non là gì! Mà chính cụ Cao Vân cũng không mấy khi bàn đến việc ấy. Đến lúc cụ Cao Vân quyết định vào Bình Định thì cụ bà cũng vui vẻ ra đi, không vì những nỗi xa nhà xa quê mà sụt sùi bận bịu để làm trở ngại ý định của chồng.
Mang trắp theo chõng, người gái quê với một tâm hồn hạo nhiên cho đó là chức vụ của mình, của người đàn bà, của bà nội tướng, của bà mẹ tương lai phải gánh vác gia đình giúp chồng dạy con.
Vào Bình Định được mấy năm, công việc sinh hoạt cụ bà trông thấy cụ Cao Vân không lưu tâm mấy, trái lại, công việc giao du đi lại cụ Cao Vân lại chuyên cần hơn; từ đấy cụ bà bắt đầu để ý và dò theo từ mỗi hành động, chừng tìm hiểu được ý chí của chồng, cụ bà lại giả vờ không hay biết chi cả để chồng mình được tự do.
Đến lúc vào Phú Yên, vụ bạo động Võ Trứ thất bại, cụ bà phải theo phò tá cụ Cao Vân lên trốn ở động Bà Thiên, từ đấy cụ bà chẳng những là bà nội tướng đảm đang, mà lại trở nên một đồng chí chân thành theo dõi bên cạnh giúp đỡ cụ Cao Vân trải bao gian lao khốn khổ! Mỗi lần cụ Cao Vân bị bắt, cụ bà cũng bị bắt, cụ Cao Vân bị tra tấn, cụ bà bị đánh khảo, cụ Cao Vân bị tù đày, cụ bà cũng bị giam cầm; lần nào cụ bà được may mắn ở ngoài nhà lao thì cụ bà lo buôn tần bán tảo để săn sóc cụ Cao Vân và nuôi nấng các con. Đến lần cuối cùng, người chí sĩ Trần Cao Vân đến trước pháp trường để vĩnh biệt non sông, cụ bà tuy không án tiết, cũng bị bắt bớ, gia sản bị tịch thu!
Trước cảnh ly tán đoạn trường, chồng tử tiết, nhà cửa tiêu tan, một đoàn con dại chít chiêu, bà con họ hàng không dám nhìn nhận, biết nương tựa vào đâu! Phần thì hai cậu con trai một cậu vừa nên tám, một cậu tuổi mới mười hai, nay phải đem giấu nơi này, mai gửi trốn nơi khác, bao nhiêu nỗi đau thương khủng khiếp đồng thời đưa đến để thử thách can trường người gái Việt, thì cụ bà Cao Vân vẫn vững chí bền gan chống cự với phong ba, mãi cho đến một thời gian công cuộc bắt bớ tầm nã nguội lạnh lần, mới lần hồi vào Bình Định là nơi cụ bà quen thuộc nhiều, lại môn đồ cụ Cao Vân cũng đông, để nương tựa vào những người thân ấy tìm kế sinh nhai nuôi nấng các con.
Chuyến này đi không phải như chuyến đi hồi hai lăm tuổi, nó chỉ có mục đích tối thiểu mong làm sao được yên ổn để dìu dắt các con đến tuổi trưởng thành; để đáp tạ tình thiết tha âu yếm của ai kia chốn cửu tuyền vì tổ quốc dân tộc phải đoạn tuyệt cả tình thân, để làm tròn nghĩa vụ của bà mẹ tương lai đối với các con cũng như đối với bổn phận.
Ở Bình Định được ba năm, công cuộc sinh sống của cụ bà cùng các con mới vừa tạm yên thì, đột nhiên vào khoảng tháng Hai năm 1920, lại xảy ra vụ treo cờ giữa quãng đường huyện Phù Mỹ, Phù Cát (Bình Định), trên lá cờ ấy lại có ký tên Trần Cao Phong, thế là nhà cầm quyền địa phương gán ngay cái tên Trần Cao Phong ấy là con trai cụ Trần Cao Vân, tức thì ra lệnh đến bắt cả gia quyến cụ bà tống giam.
Khốn nạn thay, cho đời chí sĩ đã chết mất rồi còn lại nắm xương tàn cũng chưa chắc đã được yên, vợ con thân thuộc về sau mãi còn phải lao đao lận đận! Sự thật thì vụ treo cờ đến những vụ gì nữa, cụ bà chẳng những không hiểu biết chi cả, trái lại, cũng không bao giờ dám nghĩ đến, bởi tình cảnh cụ bà ngày nay khác nào chim đỗ quyên lạc bạn, dắt đàn con thui thủi trong những đêm trường, chỉ mong sao được yên thân!
Vụ bắt bớ này ở Bình Định, cụ bà cùng người con gái thứ ba bị bắt, người trai cả trốn thoát được về Quảng Nam, bị người làng tố giác cũng bị bắt nốt!
Cụ bà bị giam ở nhà lao Bình Định một năm trời, không án tiết gì, lúc được thả ra đồng thời có lệnh cấm không cho cụ bà ở Bình Định, phải giao về Quảng Nam, bắt thân nhân xuống nhận lãnh. Từ đây cụ bà mới trở về quê hương chồng (làng Tư Phủ), cất một túp nhà tranh nhỏ, mẹ con nương thân.
Đến năm Nhâm Tuất (1922), cụ bà đã năm mươi lăm tuổi; các con cũng đã lớn khôn, ba người gái đều có gia thất, đời sống gia đình với cụ bà đến đây đã được bình yên nhiều, nhưng cụ bà vẫn không làm sao khuây khỏa được nỗi đau buồn thăm thẳm mỗi phút nghĩ đến cụ Cao Vân! Và từ ngày cụ Cao Vân bị đưa ra trảm quyết ở làng An Hòa, thi thể cụ cùng ba đồng chí vùi lấp bên cồn hoang đến nay thời gian đã bảy năm, trải bao gió đùa mưa tạt, nếu không được vun đắp thì cũng không khỏi nấm lạc mồ xiêu! Cụ bà rất lấy làm lo ngại, mới xếp đặt cho người trai cả đưa đơn đến phủ Thừa (tỉnh Thừa Thiên), xin phép đem hài cốt cụ Cao Vân về Quảng Nam để gần gũi quê nhà, những ngày thanh minh tiết lễ đi lại viếng thăm cho tiện.
Cậu Cả Trần Nguyên đệ đơn đến phủ Thừa, phủ quan từ khước, lấy lẽ không đủ thẩm quyền phê chuẩn cho việc cải táng ấy, và bảo sang Đô sát viện; Đô sát viện lại bảo sang tòa khâm, kết cuộc không nơi nào cho cả, cậu cả Trần Nguyên đành phải nuốt nước mắt trở về Quảng!
Xin phép cải táng không được, cụ bà cùng các môn đồ thân tín của cụ Cao Vân mới nghĩ đến cách lấy cốt trộm, thì cuối năm ấy các môn đồ ở Huế tổ chức lấy trộm hài cốt hai cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên [1] cho vào hai cai quách sành, đem về chôn chung một nấm mồ trong một cụm rừng bên chùa Thụ Đức, cũng thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Sở dĩ phải chôn chung như thế, vì sau thời gian bảy năm, các thẻ tre cắm bên nấm mồ đã xiêu lạc từ bao giờ, không còn tìm biết được nấm mồ nào là cụ Cao Vân, nấm mồ nào là cụ Thái Phiên, nên đành phải chôn chung!
Việc thiên táng di cốt cụ Cao Vân xong rồi, các con trẻ cũng đã trưởng thành rồi, cụ bà mới thấy giảm bớt được nỗi ân hận trước nghĩa vụ của người vợ đối với chồng, người mẹ đối với con! Từ đây, cụ bà hướng về cửa Phật, nhờ chuỗi bồ đề lần đếm ngày mai vô lượng vô số để lãng quên bao nỗi đắng cay ấm lạnh của tình đời, nhờ nước tịnh, cành dương tưới tắt bao nỗi phiền não bất bình của trần gian để an ủi cuộc đời tàn cho đến ngày chung cuộc...
Kết luận đời hành động của cụ bà Cao Vân, của người đàn bà Việt Nam đầy gian lao đau khổ, từ năm hai mươi lăm tuổi mang trắp theo chồng ra đi, cho đến năm bốn mươi chín tuổi, ròng rã hai mươi lăm năm trời trên đường đời gió bụi, đương đầu với bao tấn kịch thảm khốc, thê lương, phụng sự chồng trong vòng ly tiết, dạy dỗ con trong cảnh lao tù, cho đến sau ngày cụ Cao Vân nhắm mắt rồi cũng còn vào nhà lao Bình Định một năm nữa, bao nỗi thống khổ ấy tưởng không lời để kể, không văn để tả! Thế mà cụ bà Cao Vân vẫn một lòng đanh thép thủy chung theo phò tá bên cạnh chồng, giúp chồng làm nên người chí sĩ! Mặc dù cụ bà không tuốt gươm lên ngựa đánh đuổi quân nhà Hán như hai bà Trưng, mặc dù cụ bà không thốt ra: “Tổ quốc trầm luân, nhân hữu trách, thiên nhai phiêu bạc ngã vô gia” [2] như nàng Thu Cận [3], nhưng với can trường ấy, tiết hạnh ấy, sự hy sinh ấy, tưởng cũng xứng đáng người đàn bà Việt Nam gương mẫu!
Chú thích:
[1] Lúc bấy giờ hài cốt hai ông Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu, thân nhân hai ông đã dời chôn nơi khác từ lâu.
[2] Cụ Sào Nam dịch:
“Nước tổ bập bềnh người thảy nợ,
Chân trời trôi nổi thiếp đâu nhà”.
[3] Thu Cận, một nữ chiến sĩ Trung Hoa thời Dân quốc cách mệnh, trích ở tập “Nhân sinh triết học” của cụ Sào Nam.