← Quay lại trang sách

Chương 2

Công việc đều đặn và có phần nào tẻ nhạt của các thầy giáo trường làng bị cuộc sống thời chiến lôi cuốn, đã biến chuyển theo cái đà mới. Ban ngày, ngoài công việc soạn bài, chấm bài, họ dành một số lớn thời giờ dẫn các học sinh đi đào hầm tránh máy bay, hoặc đi kẻ khẩu hiệu chống Mỹ trong các xóm. Trường cấp hai làng Kiều là một trường nhỏ, tuy vậy hơn một năm qua đã có gần hai chục học sinh và thầy giáo "xếp sách bút" lên đường đi bộ đội. Họ đi theo từng đợt nghĩa vụ quân sự trong xã. Ngoài công tác như của các thầy giáo khác, Thùy dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội. Cô có một cuốn sổ con, trong đó ghi tất cả các địa chỉ của họ. Những hàng chữ số các "hòm thư" bao giờ cũng gợi cho Thùy nhớ đến người này, người khác. Những bức thư gửi đi, bao giờ Thùy cũng viết với lời lẽ khiêm tốn. Cô nghĩ: Các chiến sĩ ở đơn vị đã được săn sóc chu đáo, nhưng thỉnh thoảng mình biên cho mỗi người một lá thư cũng không phải là thừa. Cô biên thư đi khắp nơi, đều đặn cho từng người và tự coi mình như một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngoài mặt trận.

Trong lúc làm việc bận bịu, bao giờ Thùy cũng cố gắng tìm cách không tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời chiến. "Thật là xấu hổ, nếu mình lại nhàn rỗi trong lúc này". Thùy nghĩ như thế, và cầm bức thư viết cho Bân vội vàng đi về phía cửa hàng hợp tác xã trong xóm.

Chỉ có mấy ngày Thùy không vào xóm trong đồng, thế mà lúa đã tốt ngợp. Ở một vài đám giữa cánh đồng trũng cấy lúa sớm đã bắt đầu gặt. Nước đỏ màu gạch xâm xấp thân lúa. Xa xa, một hàng nón trắng lấp lóa giữa mặt ruộng lúa vàng ứ nước.

Cửa hàng hợp tác xã mua bán nằm ngay bên đường, bên một gốc cây đa um tùm. Thùy đẩy cánh cửa hàng. Hai cánh cửa gỗ chỉ khép hờ, bên trong chẳng thấy người chỉ có mùi dầu hỏa và mắm muối xông hắc lên mũi. Thùy lại khép lại. Trên các cánh cửa đầy những dòng chữ "Cô Tốt kén chồng" viết bằng gạch non và bằng than.

- Ai mua gì đ... ấ... y?

Một giọng con gái lanh lảnh thốt lên từ giữa đám người gặt. Một lát, một người con gái dáng bé nhỏ và gọn ghẽ, nghiêng cái nón trắng mới, gánh đôi quang lúa trở về. Nhìn từ xa, trông rõ hai cánh tay của người con gái đung đưa, Thùy biết ngay là cô Tốt.

Thùy mua một con tem rồi hỏi:

- Cô Tốt vừa bán hàng vừa gặt ư?

- Các ông ban quản trị cũng không yêu cầu đâu. Nhưng mà em ngồi mát trong này không yên lòng chị ạ. Em đã đi gặt hai ngày rồi. Gặt đồng gần, ai mua gì thì chạy về, cũng tiện!

Thùy dán tem, bỏ thư vào chiếc hộp sắt tây treo lủng lẳng ở thân cây đa rồi tiện tay nhấc một lượm lúa cắt ngắn cũn cỡn, nói:

- Cô cắt ngắn thế này thì tra néo làm sao được?

Tốt ngồi duỗi chân bên gốc đa. Cô không trả lời, chỉ đưa cặp mắt lá răm nhìn ra xa rồi bất chợt quay lại:

- Thanh niên đi hết rồi, lấy ai mà đập néo? Cắt vậy, mấy ông lão với mấy bà ở nhà rải ra sân mà quần, sớm tối cũng xong, chị ạ!

Thùy về trường cô vừa vào đến cổng đã trông thấy một em bé gái tóc để xõa kín gáy, đứng thập thò ngoài cánh liếp. Thùy bước tới ôm choàng lấy làm nó quay lại. Em bé khi nhận ra Thùy liền níu chặt, xõa cả món tóc dơm dớp hơi muối và khét nắng vào tận má Thùy: "Cô ơi, u cháu bảo cháu ra mời cô vào ngay". Nói xong câu ấy, con bé con thè lưỡi ra rồi bất thần chạy biến đi mất. Thùy sực nhớ trưa nay, bác Thỉnh làm bữa cơm tiễn Lân, đứa con của người vợ hai của chồng. Em bé ấy đã ra mời Thùy trưa hôm qua. Bác Thỉnh dặn khẩn khoản thế nào Thùy cũng phải vào.

Nhà bác Thỉnh - u Bân - Ở xóm ngoài bãi, kề đồng muối. Ngày mới về, Thùy tưởng không tài nào chịu nổi làn không khí oi nồng của cái xóm giáp đồng muối. Cái xóm chẳng khác gì một kẻ ở trần phơi nắng. Đứng ngoài bờ đê có thể trông rõ hết thảy các mái nhà, các bức tường, trông thấu vào đến chân bàn thờ. Đường đi vào xóm là một quãng đê biển sụt lở, mỗi lần dắt xe vào phải len chân giữa những búi cỏ gai và hoa lông chông sắc như kim. Ngòi nước mặn chảy tận đầu hồi nhà, những kỳ nước thủy triều xuống, trơ ra cái đáy ngòi đầy rêu tanh. Đi từ đầu đến cuối xóm, chẳng hề có chút bóng mát. Hễ một cây nào nhoi lên là người ta phải đẵn ngay để khỏi rợp bóng xuống ô muối. Từ bảnh mắt đến khi mặt trời khuất, nắng cứ chang chang, nắng đến lóa cả mắt. Nắng đặc quánh, chẳng khác gì một thứ bột đồng nung đỏ ném vào mặt bỏng rát, thỉnh thoảng một trận gió "ông cụt" xoáy lên từ bãi phơi đất bốc tung từng mảng mái nhà.

Thùy sống ở đấy một quãng thời gian dài mới thấy quý thứ nắng thiêu đốt người. Cô cũng không ngờ cái xóm nhỏ nằm giáp biển, bốn bề trống trải lại là một xóm có cơ sở vững chắc nhất xã trong suốt thời gian địch tạm chiếm. Nhà bác Thỉnh cũng là một cơ sở, ngày xưa bao giờ cũng có một vài cán bộ nằm hầm trong nhà.

Thùy xách chiếc túi bước qua những búi cỏ mọc ngổn ngang trên sườn đê. Những tảng đất thịt màu gan gà to bằng hòn đá tảng bồi con đê từ mùa đông năm ngoái vẫn còn giữ nguyên lốt mai xắn. Cô vừa lội qua một cái lạch con đã nghe tiếng cào đất lẹt xẹt và từ xa, có tiếng mấy người đàn bà đang gọi mình.

Bác Thỉnh làm gà đã sắp xong. Trong căn bếp vừa chật vừa khói, một chõ xôi mới bắc lên khuôn bếp. Cái Lý - đứa con gái rốt của bác Thỉnh vừa ra gọi Thùy - đang cầm nắm đất sét lẫn với tro trét những chỗ miệng nồi hở, nhưng cuối cùng hơi vẫn cứ phì ra. Con bé mặt mũi đỏ gay, mớ tóc dính đầy tro và bồ hóng, chốc chốc lại đưa ngón tay lên miệng thổi phù phù và xuýt xoa. Thùy vội vã cất nón, túi và xắn xở chạy vào bếp: "Lý để cô làm cho!".

Bác Thỉnh cởi trần bưng một chiết yêu lòng gà từ ngoài giếng vào. Thấy Thùy đang vày đất sét, bác vội la lên:

- Cô lên nhà uống nước, để tôi trông bếp cho. Lý, mày chạy ra vườn mời ông nghỉ tay. Nào, cô lên nhà nói chuyện với ông. Ông cứ nhắc mãi dạo này cô lâu không vào đấy!

Bác Thỉnh người cao lớn, đứng gần chạm mái bếp. Bác là một người đàn bà chuyên môn ở trần, tính nóng như lửa và không bao giờ biết lấy lòng ai. Trông bề ngoài, chẳng ai biết là vợ một cán bộ tỉnh. Ngày Thùy mới đến ở, bác cứ ngồi ở bậc thềm kêu: "Nhà này chẳng khác gì trang trại, ăn uống miếng và miếng bốc, cô chẳng ở được đâu". Rồi bác nhìn Thùy qua cặp mắt lông quặm, xám như nước gio để thăm dò. Nhưng ít lâu sau, Thùy chỉ về trên phố độ một tuần là bác đã nhớ. Trông bác bao giờ cũng lật đật. Mỗi buổi sớm, bác vắt chiếc áo lên vai, vừa ăn nốt củ khoai lang vừa chạy từ dưới bếp lên nhà trên. Bác đến bên chiếc bàn đầy ngập sách vở của Thùy, xách chiếc ấm rót nước chảy tung tóe, miệng nói như mắng: "Cô ăn như con mèo thế này phỏng? Ăn uống thế nào chứ thế này là tôi không ưng đâu. Ít bữa nữa cô về nhà, cụ trên nhà chê cô gầy là tôi không bằng lòng đâu!".

Thùy còn nhớ hôm Bân lên đường nhập ngũ, anh chỉ dặn mẹ: "U coi đó, thỉnh thoảng u phải đi họp. U cứ cởi áo vắt vai đi làm mà chẳng chịu đi họp rồi sẽ lạc hậu với bà con cho mà coi". Rất ít khi thấy bác Thỉnh có mặt trong các cuộc họp. Thùy cũng thỉnh thoảng nhắc khéo, bác ngửa cổ ra cười: "Cô ạ, tính tôi như cái búi cỏ lông chông. Cứ ngồi lì ra mà nghe nói là tôi sốt ruột lắm. Thời hợp tác bây giờ người ta nói dài hơn thời kháng chiến nhiều. Ngày trước cứ bảo nhau một câu rồi làm. Tôi đã đi họp vài bận, không ngủ thì kháo chuyện, các anh ấy kêu mẹ Thỉnh là chúa mất trật tự hội nghị, thế là tôi cạch!".

Cách đây không lâu, một buổi tối, Thùy vào xóm dự cuộc họp phụ nữ toàn xã, hôm ấy là buổi phát động phong trào "ba đảm đang". Khi ra về, áng chừng đã gần nửa đêm, Thùy đi tắt qua khu lò muối. Thấy đằng sau một mái túp còn hừng đỏ ngọn lửa sú, cô liền tạt vào. Dưới mái túp mới dựng, chỉ có một mình bác Thỉnh cởi trần ngồi bên bếp, mồ hôi vã ra như tắm, một tay cầm áo xua muỗi, một tay cầm thanh tre khoắng chảo nước muối đang sôi ùng ục. Thùy lấy làm lạ không hiểu sao bác lại trông lò? Công việc nấu muối là của tổ hai, của mấy chị chưa có chồng con.

- Cô vào đây - Bác trông thấy Thùy liền quay ra hỏi - Tôi ngồi đây nghe mấy mẹ đi họp về kháo, kỳ này không năm nữa mà rút xuống ba phải không?

Nghe gặng câu hỏi lần nữa, Thùy mới rũ ra cười. Thùy giảng cho bác nghe thế nào là phong trào phụ nữ "năm tốt" trước đây và phong trào "ba đảm đang" hiện giờ, do Trung ương Hội Phụ nữ vừa phát động. Bác nghe xong, liền thú thực như kẻ có lỗi: "Cô nói tôi cũng nghe thủng chuyện nhưng đến mai các chị cán bộ hỏi, tôi lại quên mất cho mà xem. Ruột gan tôi nó ra làm sao ấy! Ừ cô nhỉ, hôm cháu Bân ra đi làm "nhiệm vụ", tôi cũng có ngăn trở cháu đâu. Tôi cũng động viên cháu đấy chứ!". Thùy chỉ đứng trông lò một lát mà mồ hôi đã xâm xấp áo, hơi nước muối bốc lên nồng nặc rất khó thở. Thùy hỏi:

- Hồi này bác thôi hẳn việc trên đồng phơi rồi sao?

- Tôi vẫn làm đấy chứ!

Thùy hỏi các cô trông lò, bác chỉ ra trước mặt:

- Chúng nó gác tàu chiến ngoài rìa nước kia kìa. Tôi không gác tàu chiến được thì trông lò thay cho mấy đứa nó đi gác - Bỗng bác nổi giận đùng đùng - mấy cái đứa ấy, sao chúng nó ngủ khổ ngủ sở, con gái gì mà hễ vật mình ra là ngủ. Có lẽ tôi cũng phải xin xuống đây thật, hôm nọ chúng nó ngủ quên để cháy mất hai chiếc chảo gang, trị giá gần sáu chục bạc. Thật là tiếc đứt ruột!