← Quay lại trang sách

Chương 3

Ông cụ Lâm, ông cụ bố chồng bác Thỉnh ở ngoài vườn vào, đang ngồi uống nước để chờ cơm thì Lân sang. Trông cử chỉ và cách ăn mặc của Lân, người ta biết ngay là một gã thanh niên sắp đi bộ đội, hay ít ra cũng sắp làm một việc quan trọng.

Lân mặc quần dài tím và chiếc sơ mi trắng mới nhuộm đúng y hệt màu quần áo bộ đội, trông chững chạc và lớn phổng phao hẳn. Lân đi ngoài đường, chẳng nón chẳng mũ gì sất, hai cánh tay áo xắn cao, tóc mới cắt chải rẽ. Nắng như đổ lửa xuống mặt mà cậu ta chẳng nề nheo mắt, bắp tay, bắp chân, cổ, gáy vẫn trắng trẻo và mỡ màng, chỉ có vài giọt mồ hôi dính bên sống áo chật căng. Tất cả sức sống dư thừa, đang thì phát triển của tuổi mười bảy cứ bừng bừng trên đầu mày cuối mắt và trên khuôn mặt giống mẹ, rất đẹp trai của Lân.

Lân đi từ xóm trong ra, bị giữ lại không biết bao nhiêu chặng. Bà con trong làng từ xưa vốn quen thăm hỏi, săn sóc những người trai làng ra đi đánh giặc. Qua cửa hàng mua bán, cậu ta bị cô Tốt lôi vào. Tốt quấn vội mớ tóc dài còn ướt vừa chải sau buổi gặt, xách ra trước quầy hàng một chai bia lớn. Tốt ấn vào tay Lân một cốc bia đầy tràn rồi khẽ chạm miệng cốc của mình vào:

- Tôi chúc anh Lân hạ thật nhiều máy bay Mỹ. Bao giờ nghỉ phép thì về làng...

Lân nhăn mặt uống một hơi cạn cốc bia đắng nghét rồi buông một câu: "Tôi đã đi bộ đội thì quyết chẳng trở về nữa đâu" làm Tốt giật nảy mình. Cô túm lấy áo, đét lấy đét để vào bên vai: "Đổ xuống sông xuống biển! Đổ xuống sông xuống biển!". Hai con mắt Tốt nheo tít lại như hai sợi chỉ thấm nước đen nhánh.

Lân cố nén sự kích động bước vào nhà, chào mọi người bằng cái giọng sắp vỡ tiếng. Trông thấy Thùy đang ngồi nói chuyện với ông, Lân rất mừng vì cô giáo cũng đến. Từ trước đến nay Thùy thường khuyên Lân năng sang nhà u. Tuy hai gia đình có sự xích mích nặng nề, Lân vẫn năng sang bên này. Nhất là từ ngày Bân đi, Lân đặt cho mình trách nhiệm thay Bân săn sóc bác Thỉnh.

Bác Thỉnh trao cho Lân một chồng bát đĩa, bảo lau rồi hỏi:

- Dì có nhà không con?

Lân trả lời ngượng ngùng "Có ạ" rồi lại cúi xuống lau. Lân rất dễ vui, nhưng cũng dễ buồn mỗi khi nghe nhắc đến "dì" mình.

Chị Quý - mẹ đẻ Lân - ngày trước là một người con gái buôn hàng tấm, có một hồi vừa bán hàng vừa làm giao thông giữa các cơ sở kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm. Trong khi gặp gỡ công tác, chị phải lòng ông Lâm. Chị yêu ông Lâm mê mệt. Ông Lâm hồi đó là cán bộ huyện ủy nằm vùng địch tạm chiếm. Hai người trót dở dang với nhau và đành phải lấy nhau. Đến ngày hòa bình, xã Kiều Sơn được giải phóng trước, ông Lâm về xin lỗi vợ và bố, nói thực tất cả và đưa chị Quý và Lân về làng.

Mấy năm trước, ông cụ Lâm ở với mẹ con chị Quý. Đến bấy giờ, ngoài ba nhăm tuổi mà chị Quý vẫn còn đẹp, nét mặt thật nhẹ nhõm, xởi lởi. Con người cũng thực lịch sự, kín đáo. Mỗi khi có bạn của chồng trên tỉnh ghé vào, chị vội vàng rút lui vào tận sau cột, mặc chiếc áo cánh sạch sẽ rồi hai tay bưng bộ ấm chén ra tiếp khách. Lần đầu tiên Thùy đến thăm, chị đang dở làm việc trong nhà, chỉ ló đầu ra nói vồn vã: "Mời cô giáo ngồi chơi, tôi dở bận tay một chút. Tôi ra ngay đây ạ!". Thùy nhìn vào, thấy chị nói xong mà nụ cười còn đượm trên môi, hàm răng đen nhánh khép lại, nét mặt tự nhiên lộ vẻ e lệ ngượng nghịu, một thái độ e lệ rất dễ thương của những người đàn bà có nề nếp và lễ phép.

Con người ấy cũng là người đang tâm đuổi bố chồng đi sau một trận xích mích với chồng. Ông cụ Lâm đã cập kề tám mươi, hai hàm răng chẳng còn mấy chiếc nhưng da dẻ đỏ au, còn rất khỏe. Ông cụ có nghề thợ mộc, lại có tài đắp tường đất. "Đắp tường mà cứ xoay xỏa hòn đất mãi thì nó nhoét ra, nó sập ngay. Cái tài của người đắp tường là đưa mắt qua, biết đặt hòn đất vào chỗ nào. Tôi đã cầm hòn đất trên tay thì chỉ một nhát vứt xuống, không còn dỡ ra được nữa". Nhà chị Quý từ nhà ở, bếp, chuồng lợn, một tay ông cụ làm. Ông cụ làm "câu dầm" tròn nửa năm mới xong một khu nhà ở hoàn hảo. Cái hôm chị Quý làm ầm ĩ với chồng và đuổi ông cụ ra khỏi nhà, ông cụ xách bó quần áo trở về xóm đồng muối, người ta hỏi, ông cụ chỉ phơi hai hàng lợi ra cười. Suốt mười năm giặc giã, bác Thỉnh ở nhà một mình nuôi con, nuôi bố chồng, lại đào hầm cất giấu cán bộ, đến bấy giờ lại lật đật chạy đi đón bố chồng quay về ở với mình.

Hôm ấy, sau khi nấu nướng sắp xong, Thùy thấy bác Thỉnh rửa mặt mũi sạch sẽ, vấn lại nếp khăn như một người quen sống tươm tất. Bác xỏ chiếc áo nâu mới rồi cầm tích nước và hai chiếc chén sang bên chiếc giường kê ở chái nhà. Bác mời Thùy ngồi rồi bưng chén nước đặt vào tận tay Thùy làm cho cô hết sức băn khoăn. Từ khi biết nhau, chưa bao giờ Thùy thấy người đàn bà vốn xuề xòa lại cư xử trịnh trọng như vậy. Bác hỏi:

- Mấy tháng nay, làm sao tôi chẳng thấy thư từ tin tức gì của thằng Bân cả. Tôi cứ nghĩ, hay là nó ra làm sao?

Thùy nhìn bác rồi cố lấy giọng bình thản:

- Anh ấy không sao đâu bác ạ. Dạo trước, anh ấy vừa gửi thư về cho nhà trường...

- Tôi cũng nghĩ vậy. Thư từ ít cũng được, tôi cũng biết nó bận, chỉ mong sao nó được mạnh khỏe, cùng anh em chiến đấu mau giết hết cái thằng giặc Mỹ tàn ác.

Từ nhà, Thùy đã quyết định sẽ không báo tin Bân bị thương cho bác. Không phải bác là người mẹ không giữ được bình tĩnh. Nhưng cô hiểu lệ thường những người chiến sĩ quân đội không muốn để những người thân ở hậu phương quá phiền bận. Vì thế Bân đã không biên thư về báo tin, cả cô nữa anh cũng không cho biết.

Bác Thỉnh hắng giọng, uống thêm chén nước rồi chậm rãi nói:

- Hai năm nay, từ ngày biết nhau tôi vẫn mến cái bụng cô. Chuyện hay cũng như chuyện dở trong nhà này, cô đều biết cả rồi. Tuy là khách nhưng cô cũng chả khác gì người nhà. Từ trước tới nay, bao giờ cô cũng muốn chúng tôi hòa thuận với nhau. Tôi thường bảo ông Lâm: "Ông cứ yên tâm mà đi làm việc nước, chẳng phải lo gì cả. Dì ấy nhiều lời thì hàng xóm phải nghe nhiều. Tôi làm tôi ăn, dì ấy làm dì ấy ăn. Tôi ở dưới này. Dì ấy ở trên đồng. Cứ ở xa nhau chẳng bao giờ gặp mặt nhau là được. Nghĩ đường gần thì vậy, nhưng nghĩ đường xa thì không được. Tôi ghét dì nó, nhưng tôi không thể nào ghét thằng Lân được. Thanh niên bây giờ chúng nó khác xưa lắm. Thằng Lân và thằng Bân, chúng nó rất quý nhau. Cái đêm sáng hôm sau thằng Bân đi tập trung lên huyện, thằng Lân sang ngủ với anh. Hai đứa ngả ván nằm ngoài hiên, tôi nằm trong nhà. Nghe hai đứa con nói chuyện với nhau, tôi không sao cầm được nước mắt. Tôi nghe thằng Lân nói rằng: "Anh cứ yên tâm mà đi. Ở nhà em sẽ chạy sang chạy về với u bên này luôn". Thằng Bân phê bình thằng Lân hay nói xẵng với dì nó. Thằng bé nhận khuyết điểm, rồi lại bảo: "Nhưng mà dì em cư xử với u và ông có nhiều điều không đúng, em cứ phải nói, nhưng từ giờ em cố không nổi nóng lên thôi".

Tôi biết, cái việc xích mích trong gia đình mình coi là thường, nhưng chúng nó là thanh niên chúng nó khổ lắm. Đêm hôm kia, tôi đang nấu muối ngoài lò thì thấy thằng Lân ra ngồi bên cạnh. Nó nói với tôi rằng nó đi bộ đội mà ở nhà gia đình vẫn cứ hằn thù nhau, dì nó gặp ai cũng bới chuyện xấu trong gia đình ra nói, nó bực mình lắm... Tôi đã nghĩ nhiều rồi, cô ạ! Tôi nghĩ, cháu nó còn trẻ tuổi, phen này nó ra đi làm nhiệm vụ giết giặc cứu nước, chẳng nên để cho nó ra đi mà trong bụng lại vướng víu phiền muộn. Cho nên hôm nay nhân buổi tiễn cháu lên đường, tôi muốn sang bên nhà dì Quý. Tôi mời dì nó sang bên này cùng ăn bữa cơm với con cho vui vẻ. Người ta giận nhau, nhưng gặp mặt nhau một lần thì về sau cũng bớt giận nhau đi. Kể từ ngày chị ta ra ở riêng, tôi chưa đặt chân đến nhà bao giờ. Tôi đã thưa chuyện với ông, bàn với ông chuyện cũ nên quên đi... Bên ấy cháu bé đông. Tôi đã bàn với ông rằng khi thằng Lân lên đường thì ông lại vào ở trong ấy một dạo, để cho nhà trong ấy đỡ vắng vẻ. Chắc cô cũng hiểu bụng tôi. Vậy cô giúp tôi, cốt làm sao lần này tôi và dì nó được hòa thuận, cháu nó ra đi cầm khẩu súng cho được mát mẻ.

Nói rồi, bác nhờ Thùy trông chõ xôi, bác xách nón đi thẳng vào xóm trong để mời chị Quý ra.

Bữa cơm ngon hôm ấy, tất nhiên mọi người ăn uống một cách ngượng nghịu, ít thoải mái. Ba người đàn bà tranh nhau ngồi đầu nồi. Cuối cùng bác Thỉnh lấy cớ mình là chủ nhà, bác bê nồi cơm để bên cạnh. Người ta liếc nhìn nhau, và trao đổi câu chuyện một cách ý tứ. Tuy vậy, không khí chẳng có gì giả dối cả. Tất cả mọi người trong gia đình đều chân thành nâng niu một sợi dây vô hình mới se lại, đang còn mỏng manh.

Chị Quý bưng bát cơm trên tay mà vẫn chưa hết ngạc nhiên. Chị cứ ngồi sững sờ, hết nhìn Lân lại nhìn người khác. Từ lúc chị cắp chiếc nón trước bụng theo bác Thỉnh sang, chị chỉ nói nhỏ nhẻ, và miếng cơm cũng nhỏ nhẻ. Nhưng trong bụng, chị nghĩ nhiều lắm. Đã lâu lắm, có thể đã năm sáu năm chị mới nói chuyện và ngồi ăn cùng mâm với bác Thỉnh. Người đàn bà chuyên ở trần, xấu xí và chất phác ngồi trước mặt như tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ, đẹp và chói chang đến nỗi chị không dám nhìn thẳng. Dầu sao chị cũng đã tiếp xúc với cái ánh sáng ấy.

Ngay từ đầu, Thùy tự coi mình là người duy nhất có thể làm cho không khí bữa ăn được tự nhiên. Cô hỏi người này lại hỏi người khác, mời mọc và kể chuyện tối liên hoan của chi đoàn tiễn anh em thanh niên lên đường.

- Tối hôm ấy, tôi không trông thấy Lân nhỉ?

- Thưa cô, hôm ấy em xuống dưới lò muối với u em (1) ạ!

-----

(1)Theo phong tục cũ nhiều vùng nông thôn của ta, con người vợ lẽ đều được coi như con của người vợ cả, nên gọi người vợ cả là u và gọi người vợ lẽ là dì. Người vợ lẽ cho đứa con do mình đẻ ra gọi mình là dì là có ý khiêm tốn, gián tiếp tự xưng mình là "người em gái" của người vợ cả.

- Thật là buồn cười đến chết được - Thùy vừa nói vừa liếc mắt về phía chị Quý, để ý xem chị đã và thêm được miếng cơm nào nữa chưa - thật là buồn cười! Không biết tên anh ta là gì nhưng là người ở xóm trên. Anh ấy kiếm được một bộ quần áo bộ đội cũ, đem nhuộm xanh và thắng bộ rất chỉnh tề. Khi đến đoạn các anh em sắp lên đường phát biểu cảm tưởng, anh ấy thay mặt cho tất cả anh em lên phát biểu rất hăng. Cuối cùng, các cô thanh nữ lên trao tặng phẩm. Các cô đến bấy giờ mới hốt hoảng, cô nọ gắt với cô kia, làm sao mười sáu người đi mà chuẩn bị có mười lăm gói khăn mặt? Lúc ấy, một cô trong ban chấp hành phải chạy đi tìm đồng chí cán bộ bộ đội tuyển quân mà hỏi, té ra thừa một người, thừa chính cái anh đứng ra phát biểu cảm tưởng! Người ta mới hứa miệng chứ chưa lấy, thế mà anh ta cứ xôn rộn, yên chí là mình đã trúng bộ đội hẳn hoi rồi. Hôm ấy, cả chi đoàn được một bữa cười đến vỡ nhà!

Bác Thỉnh hỏi:

- Tội nghiệp, về sau anh ấy có được đi không?

Lân đang nhai lúng búng đầy miệng, vội vàng đáp:

- Đi thế nào được hả u, phải khám sức khỏe, khai lý lịch đủ các mặt mới gọi là trúng chứ!

- Như tao thì tao để cho người ta đi - Bác Thỉnh liền đáp, và nhìn Lân.

Thùy kể xong liền quên ngay câu chuyện mà mình vừa kể một cách sôi nổi. Ban nãy Thùy hết sức cảm động khi nghe bác Thỉnh bày tỏ ý nghĩ của mình. Ban đầu cô nghĩ rằng hôm nay mình chỉ dự một bữa cơm bình thường, như mọi bữa cơm gia đình có con cái đi xa. Trong cuộc kháng chiến lần trước, Thùy chỉ là một cô bé chưa đủ tóc để cặp, bám bên dải yếm mẹ đi tản cư. Cuộc kháng chiến thần thánh của cha anh, cô hiểu khá kỹ qua chuyện người lớn, qua những tác phẩm hồi ký và chủ yếu là qua những bài học ở nhà trường, mỗi năm học một ít. Mấy năm đi dạy, cô lại đem những bài học ấy truyền lại cho các em. Bao giờ cũng thế, mọi điều hiểu biết gián tiếp đều mơ hồ, thiếu những chi tiết đầy đủ. Thùy đang thử đặt mình vào hoàn cảnh của bác Thỉnh. Với tâm hồn trong trắng luôn luôn hướng về những điều tốt đẹp, cô giáo đang tự hỏi mình: Liệu ở vào hoàn cảnh của bác, mình có xử sự như bác không? - Được, mình có thể làm như thế! Cô hỏi mình rồi lại trả lời cho mình. Rồi từ đó, một niềm vui rộn lên trong lòng Thùy. Cô càng sung sướng khi nghĩ mình đã ít nhiều được bác Thỉnh quý mến, quyến luyến và tin cậy. Thùy chống đũa, ngước nhìn khuôn mặt chất phác, lấm tấm những hoa muối trắng của bác.

- Mời cô ăn đi chứ, sao cô cứ ngồi nhìn nhà Thỉnh mãi...

Thùy giật mình nghe tiếng nói khàn khàn của ông cụ. Từ lúc ngồi vào mâm, Thùy chỉ thấy ông cụ Lâm nhấc hết chén rượu này đến chén rượu khác, chưa hề đụng đũa. Vừng trán răn reo màu quang dầu đã hơi hơi bóng lên. Đôi mắt bao giờ cũng nhìn thẳng ra ngoài sân, cái nhìn tráng qua một làn hơi men rượu, vừa lờ đờ vừa dữ tợn lướt trên đầu mọi người.

Bữa ăn vẫn lặng lẽ, nhưng đã báo hiệu một điềm khác.

***

Từ đầu bữa, Lân cứ cắm cúi ăn, Lân là một tay ăn khỏe có tiếng và cũng làm khỏe. Một hôm, cậu ta ra sân kho thấy chất một đống lúa cao lù lù. Giữa lúc đang gặt rộ, ông Vàng chủ nhiệm hợp tác xã không tìm đâu ra người đập, Lân xắn tay áo lên, bảo: "Bác cứ nấu cho cháu một nồi ba cơm, rõ đầy, từ giờ đến khuya là cháu đập xong!". Chị Quý cũng đứng đấy, chị mắng con và đỏ mặt vì ngượng: "Chao, nó làm như ở nhà không bao giờ được ăn no nê, phải đi xin đập lúa cho hợp tác xã để mà ăn không bằng". Những bữa cơm đạm bạc ở nhà, có miếng gì ngon, Lân phải nhường lũ em. Nhưng hôm nay ở đây, cậu ta có quyền ăn tùy thích. Lân tự thấy mình là một nhân vật quan trọng trong bữa cơm hôm nay.

Lân không uống rượu quen. Cốc bia của cô Tốt ngoài cửa hàng càng ngấm, mặt Lân đỏ lựng. Cậu ta gắp một miếng thức ăn rồi đưa cặp mắt vui vẻ nhìn tất cả mọi người trong gia đình quây quần xung quanh mâm cơm. Giữa lúc phấn khởi, Lân thốt lên một câu ngây thơ: "Giá bây giờ anh Bân khoác cái ba lô lù lù về đầu ngõ thì thích quá nhỉ?" làm mọi người bật cười. Tiếng cười bao giờ cũng làm cho người ta xích lại gần nhau. Bác Thỉnh đang và dở miếng cơm, nghe Lân nói, bác liền sực nhớ đến Bân. Bác cầm chiếc bát không trên tay, nhìn Lân qua tròng mắt đục và đã hơi ướt. Thùy giành lấy chiếc bát, xới cơm cho bác. Cô nhìn ba gian nhà trống trải, mọi đồ vật đều in dấu vết những ngày mình còn ở đây, mọi đồ vật ấy đều in dấu vết bàn tay khéo léo của một người con trai lớn trong gia đình đã vắng mặt.

Bác Thỉnh đón lấy bát cơm trong tay Thùy, nhưng lại sẻ cho chị Quý một nửa:

- Dì ăn hộ tôi một nửa, như thế là tôi no rồi...

Ông cụ ngồi giữa, vẫn chỉ uống rượu. Từ đầu bữa, ông cụ chẳng nói chẳng rằng, bỗng quay xuống nhìn bác Thỉnh bằng cặp mắt trách móc và thông cảm:

- Sao đã no?

Rồi tự tay ông cụ xới thêm cơm, gắp thức ăn cho người con dâu cả một cách lặng lẽ. Với bác Thỉnh, ông cụ vừa coi như con, lại như một người bạn đường đời. Con gái thì đi lấy chồng xa, dù yêu mến bố đến đâu, hai người con gái cũng đều quên mất ông cụ. Con trai, anh bị giặc Pháp giết hồi làm du kích, anh đi thoát ly công tác. Cái nhà này chỉ còn hai người như đôi bạn chèo lái hiểu rõ tính nết nhau, sẵn sàng hi sinh cho nhau, đã cùng nhau qua nhiều bước khó khăn và hiểm nghèo. Ông cụ thuộc loại người già uống rượu không bao giờ say, càng uống lại càng tỉnh táo. Hơi men chỉ làm cho ông cụ thêm linh lợi.

Ông cụ chiêu một ngụm, lau miệng bằng cái khăn mặt đen xỉn rồi ngoảnh sang nhìn đứa cháu đang cắm cúi ăn:

- Lân, cháu đã sẵn sàng chưa?

- Cháu chẳng phải chuẩn bị gì hết, cứ thế này là đi!

Ông cụ chống tay vào đùi nhìn tận mặt đứa cháu bằng cái nhìn khác thường. Những sợi lông mày dài, bạc như cước rủ xuống hai tròng mắt vằn lên những tia máu. Cái nhìn của ông cụ thật dữ dội, như ném lửa vào mặt đứa cháu. Chưa bao giờ ông nhìn Lân bằng con mắt như vậy. Đoạn, ông lão ngồi thẳng người lên, đưa tay gạt chén rượu sang một bên. Những nếp răn chứa đựng tất cả nỗi đau đớn và phẫn uất trong cuộc đời hằn rõ như những nét tạc trên khuôn mặt:

- Ông biết rồi nay mai cháu sẽ được phát quần áo, giày, mũ. Chẳng phải như hồi các anh Vệ quốc đoàn ngày xưa, bây giờ Chính phủ đã cấp phát cho các cháu đầy đủ. Nhưng ông muốn hỏi cháu cái này - Ông cụ đặt bàn tay to lớn và đen sạm của người thợ đất trùm lên mé ngực - Cháu ạ, Tổ quốc, giang sơn ta đặt ở đây! Cháu làm thằng con trai thì phải hiểu lấy. Suốt mười năm trời nay, thằng Mỹ giày xéo nước Nam mình, đã giết đồng bào mình trong miền Nam tưởng máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi. Cháu đã làm thằng con trai thì cháu phải hiểu lấy!

Không khí xung quanh bữa ăn trở nên nghiêm trang, không một ai dám nhìn thẳng ông cụ, cũng không ai dúng đũa. Từ bấy giờ, Lân cũng không muốn ăn chút nào nữa, mặc dầu thức ăn trong mâm vẫn còn đầy. Một lát lâu, chị Quý xới một bát cơm nóng, rón rén bưng hai tay đặt trước mặt ông cụ. Bác Thỉnh đặt bát cơm và đôi đũa son vào tận tay ông, và dỗ dành:

- Ông ạ, ông ăn cơm đi kẻo nguội mất.

Nể lời bác Thỉnh, ông cụ bưng bát cơm lên. Chén rượu vẫn còn đầy nguyên bên mâm. Ông ngồi lặng yên nhìn chén rượu, tự nhiên hai giọt nước mắt ứa ra. Ông cụ cầm chiếc khăn chấm nước mắt rồi nói với Lân: "Cháu ạ, ông chỉ tiếc là ông đã già mất rồi!...".

Từ bấy giờ, ông cụ bắt đầu ăn cơm. Ông cụ ăn hết lại đưa bát cho chị Quý. Đến lúc ấy, ông cụ mới nhìn xuống phía dưới, thẳng vào chị Quý và nói bằng cái giọng trầm trầm bình tĩnh, cái giọng vẫn bảo ban con cháu trong nhà hàng ngày:

- Nhà Quý này, chị coi lại cái gì cần thì chóng lo liệu cho thằng Lân nó đi. Tôi cũng biết thằng Lân đi thì bên ấy mẹ con chị sẽ bấn, nó ở nhà thì nó còn đỡ đần... Nhưng nhà ai cũng thế cả. Nhà này xưa nay khi nước có giặc giã, con trai chẳng ai ở nhà đâu!

Ông cụ ngừng một lát rồi lại nói tiếp, giọng nói càng dịu dàng hơn:

- Bố cũng biết rồi mẹ con mày sẽ bấn. Nhưng đừng lo ngại gì, có bà con hợp tác xã, lại còn nhà Thỉnh, hai chị em đùm bọc lấy nhau. Đừng lo ngại gì cả, khi nào thằng Lân đi thì bố lại vào trong ấy ở với mẹ con mày...

Ông cụ đang nói dở thì bỗng nhiên chị Quý buông đũa đứng dậy. Mọi người đều ngơ ngác. Khuôn mặt chị Quý phút chốc già hẳn đi. Từ đầu bữa cơm Thùy ngồi bên đã hiểu rõ nỗi ân hận rất khổ tâm của chị. Chị Quý đưa dải áo lên quệt ngang mắt và đi thẳng về phía buồng bác Thỉnh, tấm lưng còn tròn trặn còng hẳn xuống. Chị bước tới bên cái gióng cửa thì đưa tay lên che mặt, và chẳng khác gì một đứa trẻ, chị gục đầu vào cái gióng cửa buồng mà khóc nức nở.

Mọi người đều buông đũa.

Trưa ngày hôm sau, Lân cùng mười bốn anh em thanh niên làng Kiều Sơn đã trúng "nghĩa vụ", tập trung ở nhà trụ sở hợp tác xã để kéo lên huyện đội. Mỗi người chỉ mang theo một chiếc túi lưới con đựng cuốn sổ, vài chiếc khăn mặt, quà tặng trong những buổi liên hoan chia tay của chi đoàn, của đội sản xuất, của chi bộ. Bên gốc đa mé đường cái, bà con đi gặt ngồi rất đông, đợi chia tay với anh em thanh niên lên đường. Họ đều là những người có con, em hoặc chồng, hoặc người trong họ hàng ra đi đợt này, hoặc đã đi những đợt trước. Những người đàn bà có chồng đi bộ đội từ ngày kháng chiến lần trước chợt nghĩ đến những đứa con trai đã lớn, đã có thể cầm súng đi giết giặc.

Gió mùa thu thổi vào cây đa ào ào.

Đoàn thanh niên bắt đầu lên đường. Bên dãy tường đất bao quanh cái sân phơi xếp từng đống lúa vàng ngợp mắt, một hàng thiếu nhi mang trống ếch gõ theo điệu hành khúc, đoàn thanh niên theo hàng hai đi tiếp, ông Vàng, vận bộ quân phục cũ, khoác chiếc túi dết xanh đi cuối cùng. Từ trong các dong ngõ, nhà kho, vườn trẻ, mọi người vui vẻ tỏa ra đường cái. Tiếng cười nói, câu tiễn biệt, hứa hẹn, căn dặn.

Con đường làng trở nên ồn ào.

Cái đoàn người mặt đỏ gay, chiêng trống cờ quạt chẳng khác gì một đám rước đi tới đâu lập tức cuốn theo tất cả sự chú ý và tình cảm của dân làng. Chị Quý cũng đứng trong nhóm những người đàn bà bên gốc đa. Chị theo Lân ra đến cánh ruộng đang gặt dở thì dừng lại:

- Lân ơi, con đi cho mạnh khỏe nhé!

- Con đi dì nhé!

Chị Quý cố từ giã con một cách thật bình thản, rồi theo mọi người tiếp tục gặt. Lân quay lại, thấy mẹ mình đang đứng trong dãy người xếp hàng ngang trên đám ruộng lấp lóa ánh nắng.

Sau hôm đó, trời nổi một cơn giông và mưa suốt gần một tuần lễ. Những cánh lúa sớm ngoài cánh đồng trũng phải gặt chạy. Nước sông Kiều dâng cao, chảy cuồn cuộn.

Đấy là trận mưa cuối cùng để bước sang mùa hanh khô.