Chương 20
Vài ngày sau đợt nghỉ phép ngắn ngủi, Bân nhận lệnh thuyên chuyển chính thức. Anh từ biệt các đồng chí, từ biệt con tàu thân yêu của mình để đi nhận công tác ở đơn vị khác.
Bân được điều tới một phân đội tàu tuần tiễu rất nhỏ, luôn cơ động, hoạt động trên vùng biển sát giới tuyến. Với các chiến sĩ hải quân, đấy là vùng biển lý tưởng, được giáp mặt với kẻ địch hàng ngày. Càng đi vào phía nam, bờ biển càng lởm chởm. Biển sâu và dữ hơn, có quãng chân núi Trường Sơn cắm tận mép nước. Tàu của Bân chỉ hoạt động ban đêm, ban ngày thường vào trú dọc bờ một con sông hẹp, trong vòm núi đá.
Một mùa khô lại đến! Máy bay địch hoạt động ráo riết, thay nhau bắn phá các rặng núi phía tây. Tiếng bom nổ vang trong các khe, lũng. Ban đêm, trông thấy ánh lửa những đám rừng cháy. Con đường rừng có hàng trăm ngả, sườn dốc núi có hàng trăm ngả vẫn mở ra cho quân đi, chẳng khác một dòng suối thép chảy... Mỗi đêm nghe tiếng bước chân những người lính bộ binh đang hành quân, Bân cứ tưởng mình lại sắp được gặp Lân, như trên chặng đường hành quân của Lân cách đây mấy tháng.
Đã sang tháng giêng, hai âm lịch.
Địch bắt đầu bắn phá mạnh ven sông Kiều. Một buổi trưa, một tốp máy bay từ ngoài biển bay ập vào, ném một loạt bom xuống gần xóm đồng muối. Hai người chết và năm người bị thương. Gần một chục nóc nhà cháy. Sau hôm đó, thỉnh thoảng chúng lại vào ném bom bắn phá dọc bờ sông kiều. Có hôm chúng thả truyền đơn kêu gọi nhân dân đầu hàng, những tờ truyền đơn bay lơ lửng trắng xóa, một vài tờ rơi vào xóm đồng muối, nhưng chẳng một ai nhặt. Đất làng Kiều sau lần chiến tranh trước, đã chai lại. Những hố bom được lấp kín. Nhà lại dựng. Trên các dải đồng, lúa chiêm lên xanh kín bờ, lúa chiêm đang phất cờ lên. Mặc dầu địch ra sức quấy phá cả ngày đêm, guồng máy làm việc ở hậu phương vẫn chạy đều. Trong làng vẫn náo nức hướng về tiếng súng ngoài tiền tuyến. Mọi người đang ra sức làm việc. Mọi việc hình như đều mới bắt đầu.
Ông Vàng đã nhận chức bí thư Đảng ủy xã, thay cho đồng chí cũ trở lại bộ đội. Ăn tết Nguyên Đán xong, ông Vàng vẫn cái dáng tất tưởi, vội vã, thu xếp cho đợt thanh niên nghĩa vụ lại sắp lên đường. Bây giờ đi dạo một vòng qua các xóm, gặp đàn bà và trẻ con là nhiều, cả lớp con gái đang "thì ăn thì sức" cũng đi dân công hỏa tuyến, đi thanh niên xung phong, đã vãn. Cô Tốt đã giao cửa hàng cho một chị có con mọn trông. Tốt xung phong đi dân công mở đường đợt sáu tháng, tận miền tây khu Bốn. Trước hôm đi, Tốt vào chào chị Quý. Chưa bao giờ người trong làng thấy Tốt hát và cười nhiều như thế.
Bên kia sông Kiều, tiếng máy tàu chiến trở nên quá quen thuộc với mọi người, như tiếng xay lúa, giã gạo hàng ngày. Đêm đêm, nghe tiếng còi tàu rất trầm, như tiếng gọi đất liền thốt lên từ ngoài khơi, mọi người đều thức giấc. Thùy đang ngủ vội vàng ngồi dậy và hướng về phía cửa sông. Bác Thỉnh cũng giật mình hỏi: "Tàu vào đấy hả cô?". Những lúc ấy, sau giấc ngủ chợt tỉnh, hai người đều nghĩ đến những người chiến sĩ đi chiến đấu trở về; hai người đều chợt nghĩ đến Bân, mỗi người mang một niềm mong nhớ riêng.
Một buổi sáng đầu tháng hai, Thùy đi họp trên phòng giáo dục huyện về, xách một bọc sách nặng. Cô về đến khúc đê lượn bên kia sông thì gặp Liên đang ngồi trong một cái túp trông vó bè, đợi đò. Liên vẫn mặc bộ quân phục tím nhưng đã hơi cũ. Trông thấy Thùy, Liên vội kêu lên:
- Thật là may quá, mình đang chờ đò để sang bên làng cậu.
Từ ngày hai người gặp nhau ở nhà Thùy, chưa có dịp nào họ được gặp lại nhau. Thùy kéo tay Liên, mừng quýnh:
- Làng mình chỗ cây đa lùm lùm kia kìa. Thật là thú quá! Cậu về chơi với mình lâu lâu chứ?
Liên chỉ về phía rừng sú:
- Mình vừa ở trong chỗ các anh ấy ra. Chú Quang mình đang làm việc với các anh ở trong đó, cả đồng chí bí thư huyện nữa. Mình không đi chơi mà sang làng cậu có chút việc.
- Việc gì thế? - Thùy nhìn bạn, hỏi.
- Cũng như mình về thăm cậu thôi mà! Chú Quang bảo mình về bên ấy để viết một cái gì về cái làng cậu đang dạy học.
Hai cô bạn gái ríu rít trò chuyện, và bước xuống đò. Chiếc đò ngang giắt đầy lá sú, từ từ tách khỏi bãi.
Thùy trao bọc sách nhờ Liên giữ, cầm mái chèo một cách thành thạo đưa đò ngược lên ngang cánh bãi "Tàu đắm" rồi thả cho trôi xuống. Xong, cô cúi xuống vốc từng vốc nước vã lên mái tóc, lên mặt. Sang tháng hai, nước sông Kiều vẫn còn lạnh. Có tiếng chim le le đập cánh trong lùm sú rậm. Tiếng sóng vỗ róc rách bên mạn.
Liên ngắm Thùy hồi lâu rồi nói đùa:
- Chú Quang mình bảo cậu ở đây đã lâu, đã thành con gái làng Kiều rồi. Muốn biết gì cứ hỏi cậu là khắc biết.
Thùy đáp:
- Mình biết gì sẽ kể hết cho cậu! Nhưng làm sao biết hết được, mình có phải là "thổ công" đâu?
Cả hai người cùng cười, tiếng cười trong trẻo vang trên mặt sông. Thùy sửa mái tóc, đến ngồi sát bên cạnh Liên, lần bẻ từng ngón tay bạn và thầm phác ra những câu chuyện sẽ đem kể cho Liên nghe. Rồi cô chợt nhớ câu nói đùa của bạn: "Muốn biết gì cứ hỏi cậu là khắc biết". "Ồ, làm sao người ta có thể biết hết được mọi chuyện trong làng như làng Kiều khi mới ở đấy trong khoảng thời gian ba bốn năm. Làm sao mình biết hết được? - Thùy nghĩ - Vì mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi con người quen biết mà mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng biết bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời không hết để tìm hiểu nhân dân mình".
Con đò ra đến giữa sông. Ngoài dải cồn cát dăm sải nước vẫn là một màu đỏ sậm đất phù sa như màu gạch cua. Ngoài xa tít là biển. Ở chỗ hai dòng nước sắp hòa vào nhau, tiếng sóng bật lên vừa trang nghiêm vừa dịu dàng.
Trời hôm nay sạch quang, không có mù. Hai bờ sông Kiều mở ra rất rộng, như có bàn tay vô hình mở tung các cánh cửa để con sông nhìn thẳng ra biển.
Tháng 3-1966