← Quay lại trang sách

Chương 19

Tàu T.730 vào bãi sú được mấy ngày thì tin tàu hải quân của ta vừa bắn chìm hai chiếc tàu của địch lan đi khắp các xã. Những người được biết tin đầu tiên là anh chị em dân công. Họ họp nhau lại, kéo từng đoàn đến chúc mừng anh em bộ đội, nhân dịp đó để được ngắm chiếc tàu chiến của mình. Trên boong và trong các khoang tàu T.730 đã chất đầy quà bánh, thư từ của các xã gửi tới mừng bộ đội vừa chiến thắng. Đoàn đại biểu của xã Kiều Sơn có ông Vàng và bác Thỉnh, cùng hơn một chục người có thành tích tham gia công trường.

Từ hôm chiếc T.40 vào cửa sông, tiếng tăm làng Kiều đã lan đi trong các đơn vị hải quân. Khi đoàn đại biểu xã Kiều Sơn đến, thuyền trưởng Cương liền đề nghị ông Vàng nói chuyện với anh em thủy thủ. Ông Vàng nói chuyện xong, giới thiệu bác Thỉnh là mẹ Bân. Lập tức, mọi người vây lấy bác. Bác Thỉnh trong mấy ngày qua hình như trẻ lại, mặt mũi rạng rỡ. Thấy con về vẫn khỏe mạnh, lại được nghe anh em trên tàu nhắc nhở đến con một cách âu yếm, bác không sao giấu được nỗi vui mừng và kiêu hãnh của người mẹ.

Mấy hôm Bân về nghỉ phép, trong nhà bác Thỉnh và trong cả xóm đồng muối, ai cũng tỏ ra vui vẻ. Duy chỉ có Thùy, ngược lại, cô cảm thấy hình như mình sống và làm việc trong một trạng thái thiếu bình thường. Thậm chí đôi lúc Thùy tự oán mình đã dọn vào ở gia đình Bân.

Từ ngày dọn vào ở trong nhà bác Thỉnh, Thùy đã quen với cảnh sống trong nhà chỉ có hai người lớn, cùng là đàn bà. Hai người vẫn thường nhắc nhở đến Bân và những người vắng mặt, nhưng cả Thùy và bác Thỉnh đều nghĩ rằng Bân đang ở một nơi nào đó mà họ không thể biết, nhưng chắc chắn là rất xa. Bỗng dưng Bân trở về đột ngột. Bỗng dưng trong nhà có thêm một người đàn ông. Sự thỏa mái và thân mật trước đây hình như đã mất đi. Khác với ngày Bân ở nhà, bây giờ Thùy hay để ý nhận xét anh rất tỉ mỉ, từ câu nói, cách đi đứng, và cô trở nên ý tứ hơn. Điều mà cô nhận thấy hết sức rõ rệt là so với lần Bân về phép trước, bây giờ anh đã thay đổi nhiều quá. Trông anh chẳng còn dấu vết nào của một anh học sinh, cũng chẳng có vẻ gì của một anh kế toán hợp tác xã. Lúc cô gặp anh ngoài bến đò, lúc anh cúi xuống vốc từng vốc nước sông xoa lên đôi cánh tay hồng hào và vạm vỡ, xoa lên cái ức rám nắng để lộ những thớ ngực đẹp đẽ của con nhà thủy thủ, Thùy ngắm anh và cứ ngỡ không phải Bân. Cô tưởng đấy là một đồng chí bộ đội trẻ, nhưng đầy vẻ dày dạn, lần đầu tiên mình được gặp. Lúc ấy, không hiểu sao Thùy cảm thấy có một cái gì gần như nỗi lo sợ xâm chiếm lấy mình. Cho đến khi về nhà, luôn luôn Thùy vẫn bị ám ảnh bởi cái cảm giác ấy.

Một buổi tối, Bân theo Thùy ra lớp. Anh ngồi ở dãy bàn cuối, nơi ngày xưa anh ngồi và chăm chú nghe cô giảng bài. Bữa ấy, Thùy giảng một bài địa lý. Cô nói vấp váp, ấp úng luôn, mặc dầu bài giảng đã soạn rất kỹ. Thùy phải luôn luôn tự động viên, và tự trách mình: "Mình nói hỏng quá! Có việc gì mà phải ấp úng kia chứ?". Bài địa lý ấy, Thùy đã giảng cho mấy khóa học, đã gần thuộc lòng những tên đất, tên sông núi. Nhưng lần này, trong khi giảng, cô cứ nghĩ đến người học trò cũ mặc bộ quân phục đang ngồi nghe ở cuối lớp, và hình như mỗi tên sông núi, đất đai mà mình nhắc tới sẽ vang động trong lòng Bân. Biết đâu những vùng đất nước yêu dấu mà cô mới thuộc trên bản đồ thì anh đã từng đặt chân tới, đã hiểu thấu từng hòn đất, từng ngọn cỏ?

Giảng xong bài học một cách vất vả, Thùy đề nghị Bân kể cho lớp học nghe một vài mẩu chuyện chiến đấu. Bân xin phép cô rồi bước lên cái bục gỗ, đứng trước tấm bảng, dáng điệu như lúc lên đọc bài. Anh kể gương hi sinh của Ái và những mẩu chuyện chiến đấu rất dũng cảm của các đồng chí trên chiếc tàu của mình. Các học sinh ngồi nghe rất thích thú. Chính Thùy cũng chẳng khác gì một học sinh, cũng bị cuốn hút vào câu chuyện ngoài mặt trận.

Trong lúc Bân nói chuyện, Thùy ngồi tận hàng ghế cuối cùng bên của sổ, và để một chồng sách che trước mặt. Trong một lúc chợt để ý đến mình, Thùy như người sực tỉnh và bắt gặp mình đang ngắm Bân rất say sưa. Trong khi nói, Bân như đang sống lại giờ phút chiến đấu oanh liệt, cả con người bình thường của anh biến đổi hẳn và mang vẻ đẹp lạ lùng, một vẻ đẹp tinh thần toát ra từ tâm hồn nồng cháy yêu thương và căm thù của người chiến sĩ. Đôi mắt của anh trở nên sắc sảo nhưng đằm thắm biết bao nhiêu! Thùy ngắm không biết chán đôi mắt ấy và tự giải thích: "Đấy là đôi mắt của người chiến sĩ đã trải qua những phút chiến đấu ác liệt, đã nhìn đối mặt kẻ thù, cũng như cái sống và cái chết. Đấy cũng là đôi mắt của người chiến sĩ quan sát mặt biển..."

Bân về nhà được ba hôm, đã sắp hết hạn phép.

Trong ba ngày ở nhà, Bân xắn quần đi cày với ông cụ Lâm. Vụ chiêm năm nay, hợp tác xã bận việc công trường, nên cày muộn. Cày xong cánh bãi, Bân và mấy người đàn ông loay hoay suốt cả buổi trưa mới đặt xong hai cái guồng nước. Bân nhảy lên đạp thử, chuỗi gầu bằng gỗ chạy óc ách, dòng nước từ cánh ruộng sâu cuốn lên, chảy tràn vào những luống cày. Nước chảy đến đâu, đất hút ngay đến đấy.

Ông Vàng đi họp trên huyện về. Ông đứng trên mặt đê đưa mắt ngắm dải đất vừa cày xong, đoạn gật gù nói với Bân đang ngồi trên bệ guồng:

- Thế là tôi đỡ lo, dạo trước tôi hứa với ông ấy một câu, rồi về nhà nằm cứ lo ngay ngáy!

Bân hỏi:

- Hứa với ai cơ hả bác?

- Với huyện ủy, với ông bố anh chứ với ai? Cứ tưởng năm nay chết dở vì cày đất trễ! Trên huyện, các ông ấy giao hẹn nhất thiết phải cấy xong trước Tết.

Nghe Bân nói ngày mai đi sớm, ông Vàng bảo:

- Tối nay có cuộc họp chi bộ kết nạp mấy đồng chí mới, anh đảo ra một lát để chào các đồng chí nhé!

Trời vừa tối, các đảng viên làng Kiều đã đến gần đủ. Gần ba chục đồng chí, phần lớn là đàn ông ngồi chật căn nhà trụ sở hợp tác xã. Một lá cờ búa liềm treo trên vách giữa nhà. Trên mặt chiếc tủ đựng sách phủ tấm khăn hoa đỏ rực rỡ, đặt tấm ảnh Bác rất lớn có kết hoa giấy chung quanh. Trên mấy dãy ghế tre, các đồng chí nam ngồi sát vài nhau như nêm cối, chiếc điếu cày không ngớt kêu từng hồi sòng sọc. Đồng chí phụ trách dân quân xã đang tranh thủ phổ biến một số việc quân sự. Các đồng chí nữ có bốn người ngồi tụm vào nhau thành một khóm. Chốc chốc, trên cái sân lát gạch rộng thênh thang trước cửa lại lóe lên một ánh đèn ló, cánh cửa liếp mở ra, lại một đồng chí tiếp tục đến, có người khoác cả súng trên vai.

Ông Vàng ăn cơm tối xong liền lôi bộ quân phục "chính trị viên đại đội" ra mặc. Với dáng đi hấp tấp bao giờ cái đầu cũng lủi về phía trước, tay xách chiếc đèn bão, một tay cắp chiếc túi bên nách, ông đi ra trụ sở. Ông đi trước, Bân theo sau. Bân trùm chiếc áo mưa vải bạt, bước những bước dài qua những rãnh nước lép xép. Đi bên cạnh Bân, ông Vàng thấp hơn nửa cái đầu. Hai người đi men theo một dãy tường đất dài, Bân ngước nhìn vào đã thấy người đến khá đông, tiếng cười, tiếng nói chuyện huyên náo vang ra ngoài. Trong ánh đèn dầu nhập nhoạng trong nhà, Bân trông thấy một người con gái mặc áo bông tím, hai dải tóc tết buông lơi trên tấm lưng gọn và nhỏ, ngồi xoay lưng ra ngoài.

Bân hỏi ông Vàng:

- Chi bộ ta có cô nào "diện" khá thế nhỉ?

- Đâu? Ngồi trong kia phải không? Cái thằng này! Đấy là cô giáo Thùy.

- Cô Thùy được kết nạp vào Đảng rồi ư bác?

- Hôm nay sẽ kết nạp. Anh thật đến là quan liêu, cô ấy ở trong nhà mà anh cũng không biết ư?

- Tôi chẳng nghe cô ấy nói gì cả!

Ông Vàng giới thiệu thêm:

- Ông Lâm, bố anh rất chú ý đến cô ấy. Hiếm có một người con gái vừa có học thức mà lại vừa chịu khó và dũng cảm đến như thế. Hôm chiếc tàu vào mắc cạn, tôi vừa truyền lệnh báo động đã thấy cô ấy có mặt cùng trung đội dân quân trực chiến ở trên đê. Máy bay quần trên đầu vẫn mặc, vẫn chèo thuyền chở cây ra tàu, hết chuyến này đến chuyến khác. Hôm đưa ý kiến sẽ kết nạp cô ấy vào Đảng thăm dò trong hội nghị xã viên, ai cũng tán thành.

Ông Vàng cho biết: Sắp tới, hướng phát triển Đảng sẽ nhằm vào phụ nữ. Chủ trương của huyện ủy là trong tình hình mới, các chi bộ xã phải tích cực nâng số nữ đảng viên lên, qua phong trào "ba đảm đang" mà chọn các chị em tích cực và giác ngộ.

Mọi việc chuẩn bị cho buổi lễ kết nạp đảng viên đã xong. Khi Bân vừa bước lên bậc thềm, một đồng chí trong ban chi ủy vội chạy ra:

- Mời đồng chí Bân lên ngồi trên này!

Bân định đến với mấy đồng chí thanh niên, nên từ chối:

- Tôi ngồi với các đồng chí dưới này cũng được.

- Thế sao được! Chúng tôi vẫn coi đồng chí như đảng viên ở xã, nhưng hôm nay đồng chí là khách.

Buộc lòng Bân phải lên hàng ghế đầu, cùng ông Vàng và mấy đồng chí trên đảng ủy xã xuống. Căn nhà họp sáng trưng. Chiếc đèn măng sông mới mượn trên ủy ban xã, treo trên đầu mọi người, kêu xèo xèo như rán mỡ. Ba gian nhà sực lên mùi khói thuốc lào, mùi giầu vỏ. Hai bên cạnh tường và trong các góc nhà, những dãy cót quây thóc giống, phân lân, hoặc dây lang khô đều hiện ra trong ánh đèn măng sông sáng xanh.

Sau lễ chào cờ, đến hát quốc tế ca. Chỉ có độ vài người biết hát, còn tất cả đứng yên để nắm tay ngang tai. Sau khi mọi người ngồi xuống, đồng chí "chi ủy" bước ra bắt đầu đọc lý lịch ba đồng chí mới.

Bân để ý nhìn ba người ngồi trên chiếc ghế dài kê chéo, sát chiếc tủ đựng sách. Hai đồng chí nữ, một nam. Thùy ngồi phía trong cùng. Hôm nay hình như lần đầu Thùy mặc chiếc áo bông màu tím này. Bên cạnh Thùy là một bà ước khoảng gần bốn mươi tuổi, nét mặt phúc hậu, thỉnh thoảng đưa bàn tay dụi cặp mắt đùng đục rồi lại ngước nhìn chăm chú tấm ảnh Bác. Đồng chí thứ ba là một thanh niên xóm đồng muối, Bân có quen, làm trung đội trưởng dân quân. Anh mặc chiếc sơ mi nâu bó lấy mình, ngồi ở ngoài cùng.

Thùy ngồi ở đó với biết bao nhiêu ý nghĩ và cảm xúc

Đồng chí "chi ủy" cầm tờ giấy trịnh trọng đọc:

- Lê Thị Thùy... hai mươi hai tuổi... Nghề nghiệp dạy học... Sinh quán ở khu phố...

Thùy chăm chú nghe từng đoạn trong bản "tóm tắt lý lịch" của mình: "Như thế là mình đã hai mươi hai tuổi,... mình là một cô giáo dạy học,... quê mình ở phố... và bây giờ mình đang ngồi đây, chuẩn bị bước vào một quãng đời khác, đầy vinh dự và cũng đầy trách nhiệm nặng nề trước Đảng...".

Sau phần giới thiệu lý lịch, đến phần các đảng viên mới tuyên thệ. Cả chi bộ đứng dậy. Ba người đứng thành hàng ngang, trước lá cờ đỏ thêu hình búa liềm. Đồng chí trung đội trưởng dân quân đứng nghiêm theo tư thế quân sự, mắt nhìn thẳng. Người đàn bà đưa hai tay túm lấy vạt áo trước, cặp mắt đùng đục vẫn ngước lên nhìn tấm chân dung Bác.

Thùy cảm thấy trong khuôn ngực bé nhỏ của mình như có một con chim đang vỗ cánh chực bay tung ra. Cô thở rất mạnh. Tuy đã ở làng Kiều bao nhiêu năm, đã ra vào cái trụ sở hợp tác xã này bao nhiêu lần, nhưng hôm nay, đứng ở đây, cô vẫn không sao khỏi bỡ ngỡ như người mới đến. Thùy nhìn lá cờ đỏ, trong lòng rất xúc động nghĩ đến bao nhiêu người đảng viên cộng sản của làng Kiều đã ngã xuống.

Lễ tuyên thệ xong, Thùy bước xuống và cũng không nhớ khi đứng trước lá cờ Đảng, mình đã nói những gì. Cái cảm giác mạnh mẽ, bao trùm lên tất cả là thấy mình vừa bước qua một cái ngưỡng cửa rất lớn. Từ bên này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ những khuôn mặt các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối tình lớn ấy. "Từ nay, mình đã trở thành một đảng viên nguyện suốt đời phấn đấu, hi sinh cho Đảng. Trong cuộc đời con gái của mình, từ nay chẳng có gì đáng ghi nhớ và lớn lao hơn nữa!".

Bên ngoài trời vẫn còn mưa bay. Những giọt mưa lấm tấm, trăng trắng. Mưa xuân.

Thùy theo các đồng chí bước xuống sân gạch như một người đang chếnh choáng. Cô bước đi với niềm say sưa, với biết bao ý nghĩ và cảm xúc mới mẻ.

Hồi còn là một cô học sinh cấp hai, mười bảy tuổi mới bước chân vào ngưỡng cửa của Đoàn. Thùy đã mơ ước đến lý tưởng cộng sản đẹp đẽ. Hồi ấy, Thùy và các bạn bè thường hẹn với nhau, bao giờ học xong sẽ xin đi nhận một công tác khó khăn nhất, ở một nơi thật xa để được thử thách. Hồi ấy, cô chẳng khác nào một vận động viên chạy đường dài, mà cái mục tiêu "trở thành đảng viên" thật là cao xa, nằm trong thế giới đầy lãng mạn của tuổi trẻ. "Hồi ấy, chắc chắn không bao giờ mình có thể nghĩ rằng những đồng chí dìu dắt mình lại là những người nông dân ở một làng bình thường, và mình cũng chỉ làm một công tác bình thường - một cô giáo dạy học!".

Một lát sau, Thùy mới nhận ra mình đang đi trên đoạn đường cái, giữa những cánh ruộng vừa cấy. Từng giọt mưa hắt vào mặt làm cho cô sực tỉnh. Bân lặng lẽ đi bên Thùy. Anh khoác chiếc áo mưa vải bạt lên vai cô; bấy giờ Thùy mới nhận ra có Bân đi bên cạnh mình.

Bân nói bằng giọng hết sức vui vẻ:

- Tôi xin mừng cô!

- Ngày mai, anh đi sớm ư?

- Vâng.

Bân hỏi đột ngột:

- Hôm nay, tôi mới biết cô được vào Đảng. Sao cô kín đáo vậy?

Thùy im lặng rồi bỗng ngửa cổ ra cười:

- Tôi không dám nói với anh đâu, thật như thế!

- Sao vậy, hả cô?

- Tôi cũng không rõ!

Thùy buột miệng hỏi:

- Gửi thư cho anh vẫn theo địa chỉ cũ chứ?

- Tôi đã nhận lệnh đi đơn vị khác. Khi nào đến đơn vị mới, tôi sẽ biên thư về nhà.

Trời vẫn mưa bay. Sang tiết giữa tháng chạp ta, mưa xuân đã bắt đầu. Ánh trăng khuya chiếu qua làn mưa bụi bay lâm thâm trắng xóa trên mặt nước sông Kiều lặng như tờ. Hai người đi qua gốc đa. Vòm lá lùm lùm trên mái nhà cửa hàng. Ánh đèn chiếu qua khe cửa. Loáng thoáng trên mấy trạt ruộng cao có bóng mấy người đàn bà đang cấy đêm.

Thùy bàn với Bân:

- Có lẽ bác còn ở dưới lò. Ta tạt qua lò muối rồi cùng về với bác một thể.

- Nhưng chắc u tôi còn dưới đó không?

Thùy nói chắc chắn:

- Còn chứ, nửa đêm bác mới về là thường...

Con đường rẽ xuống khu lò muối hơi xa nhưng Thùy chưa muốn về nhà ngay.

Từ lúc bước ra khỏi buổi lễ kết nạp Đảng, cô không sao kìm được những cảm giác rạo rực và niềm say mê với cuộc sống đang bùng cháy ở trong lòng.

Cô đi bên cạnh Bân, dáng người chiến sĩ vững chãi, cao lớn. Tự nhiên, Thùy lại trách mình cao hứng một cách viển vông quá! Vào tầm này, chắc chắn bác Thỉnh đã về trong xóm chứ đâu còn ở dưới lò muối?

Hai người đi qua bãi ươm thông. Mưa đã tạnh. Nền trời sáng dần. Qua kẽ mây, sao mọc lác đác trên nền trời. Trăng sáng ngời ngời bãi cát. Nước thủy triều theo ánh trăng lên đầy mặt biển.

Tiếng sóng khơi chợt xô mạnh vào cửa sông Kiều. Thùy lắng tai nghe tiếng sóng sao mà to và gấp quá, gần như tiếng đập của trái tim giữa lồng ngực mình.

Thùy bước rón rén trên trảng cát, nửa sợ con đường cát trắng xóa tắm trong bóng trăng phía trước dài quá, lại sợ đi chóng hết quá!

Qua chiếc cầu tre bắc chênh vênh trên con lạch nước mặn, Thùy để cho Bân dắt qua. Trông thấy ngọn lửa hiện ra sau một mái lều, Thùy mừng rỡ kêu to:

- Bác vẫn còn trông lò kia! Anh thấy không?

Sau mái lều, ngọn lửa sú đỏ rực. Hai người phải khom lưng mới chui vào cửa lều được. Trong lều muối thật ấm áp. Bấy giờ, Thùy mới biết vừa rồi hai người đi qua bãi cát rất lạnh. Bất giác, cô nhìn bác Thỉnh bằng cặp mắt thẹn thùng. Để giấu bớt nỗi bối rối, cô đến bên cửa lò, đứng lẫn trong đám khói bốc lên mù mịt từ mặt chảo: Chảo muối đã sắp đông.

Bân ngồi xuống mép chõng, hỏi mẹ:

- U vắt xôi cho ai đấy?

- Cho con, chứ ai nữa? Mai con đi sớm kia mà!

Bân cười:

- Từ đây sang bên kia sông xa gì mà u phải vắt xôi cho con mang đi ăn đường?

Bác Thỉnh ngước nhìn con:

- U biết rồi. Nhưng con cứ mang sang cho anh em trên tàu, gọi là về phép có chút quà của gia đình.

Thùy đứng trông lò hộ bác Thỉnh.

Ánh lửa trong khuôn lò đỏ rực, chiếu sáng nửa khuôn mặt Bân. Trông anh giống y hệt tấm ảnh mà Liên đã chụp, in trong tờ báo "Tin quân chủng". Tấm ảnh ấy, Thùy vẫn còn giữ.

Bác Thỉnh vẫn lúi húi với gói cơm nếp. Bỗng bác chạy đến nhìn qua chảo muối, nói với Thùy:

- Ra lò được rồi đấy, cô ạ!

Thùy cầm một nắm hạt thầu dầu rắc đều lên mặt chảo. Lớp muối trên mặt càng trắng, những hạt muối đủ mọi hình khối lấp lánh. Thùy cởi áo bông, nhanh tay cầm cán xẻng. Đã nhiều lần, Thùy dẫn các em học sinh đi xem cách làm muối và giảng giải cho các em những phản ứng hóa học về sự kết tinh ra chất muối biển. Nhưng mỗi lần được tự tay xúc tùng xẻng muối trắng, còn nóng bỏng từ lò ra, cô vẫn không sao khỏi ngạc nhiên và thích thú, như lần đầu được chứng kiến một sự biến đổi kỳ lạ! Cái kết quả thu được sau một chuỗi dài công việc làm công phu và vô cùng vất vả bỗng chốc hiện ra, nằm lấp lánh trên tay mình.

Trước mắt Thùy, cái chất nước vàng sánh chắt ra từ màu đất, hơi nóng mặt trời và nước biển đã kết tinh lại.