← Quay lại trang sách

PHẦN II khuôn mặt và giấc mơ

1

Trong cuộc đời có chồng nhưng cô độc của tôi, tôi luôn luôn cảm thấy mình sắp khám phá ra điều gì. Một ngày kia, tôi chợt ngắm đứa trẻ nhỏ nhà đối diện. Đó là một cô bé mảnh mai, chừng tám chín tuổi, ngày ngày xách cặp đi học, chiếc cặp nặng trĩu, trông em xách mà tội nghiệp. Đúng là một cô bé hiền lành, khuôn mặt hao hao giống khuôn mặt tôi, khuôn mặt có gan chịu đựng, trông nghiêng thì hơi mỏng, có thể là một thứ em chồng đanh đá, một thứ mẹ chồng nanh ác về sau này, nhưng trông thẳng thì khuôn mặt đó lại hiền quá, nhất là đôi mắt của em, đôi mắt đen thăm thẳm. Lớn lên cô bé nhất định sẽ là một thứ nhan sắc kỳ lạ, thoạt có thể người ta không để ý, nhưng một khi đã để ý thì sẽ không bao giờ ra khỏi vùng trời huyền hoặc của đôi mắt ấy. Có một lần tôi cố ý đi ngược chiều để gặp em đương tiến đến chỗ chờ xe “buýt”. Thấy tôi mỉm cười nhìn, em cũng cười lại nhưng vội cúi đầu bẽn lẽn nên trông càng hiền. Khi em tiến ngang tôi, khuôn mặt nhìn nghiêng của em lại nhắc tôi nghĩ đến những người đanh ác, nhưng cũng lúc đó tôi như được mặc khải một chân lý: “Mới đơn độc có một đứa con trai hoặc một đứa con gái thì chưa thể quyết định là chúng thiện hay chúng ác, âm dương phải kết hợp, trai gái phải thành đôi, lúc đó chúng mới đủ khả năng rong ruổi theo hướng thiện hay hướng ác.”

Tôi ngoái lại một lần nữa, ánh nắng lọc qua lùm cây cao dày bâng khuâng như một ngày nhật thực, bóng áo trắng của em càng nhỏ đi, mong manh. Tôi bỗng thấy cuộc đời mênh mông và ớn lạnh lạ.

Khuôn mặt của em đã trở thành một ám ảnh cho cuộc đời tôi, tôi biết vậy! Tên em là Hoa.

Vì yêu em mà tôi để ý đến người cô của em đương học ở trường Đại học Sư phạm, ban Anh văn. Tôi đã học Anh văn và nói tiếng Anh khá thạo, việc làm quen với cô em thật dễ dàng đến nỗi về sau tôi không nhớ rõ là tôi đã tiến tới làm quen với Ngọc – tên người cô – hay Ngọc tiến tới làm quen với tôi.

Phái đoàn Chấn Hưng Đạo Đức Quốc Tế tới Sài Gòn, thăm các tỉnh miền Trung và cao nguyên vào dịp hè. Các nữ sinh viên ban Anh văn được mời đi cùng phái đoàn để thông ngôn đoàn thăm viếng là Vĩnh Long, lần này do sự giới thiệu của Ngọc, tôi cũng được mời vào ban thông dịch và đi Vĩnh Long.

- Chị có điều gì buồn thế? – Ngọc hỏi khi chúng tôi đã tới Vĩnh Long an trú tại trường Sư phạm.

- Không em ạ, chị chẳng có điều gì buồn cả đâu, tính chị thỉnh thoảng cứ chợt suy nghĩ không đâu như vậy.

Tôi trả lời Ngọc thế rồi cố làm vẻ tươi tỉnh chỉ vào hai cây đại cao hơn đầu người một chút ngay gần đấy và nói:

- Em trông hai cây đại này hoa màu hồng thật đẹp, chị vẫn thích hoa đại màu hồng!

- Vâng, em cũng đồng ý với chị, trông nó không tẻ chị nhỉ và gợi mình nghĩ đến những màu xác pháo ngày vui mừng.

Tôi mỉm cười, giờ đây thì tôi vui thật và hỏi lại Ngọc:

- Thế nào cô em, sắp đến ngày vui mừng của em rồi, còn bao lâu nữa thì em ra trường?

- Còn hơn một tháng nữa thôi chị ạ.

- Em thi đậu này, “anh chàng” đến đốt pháo trước cửa nhà em và rước em đi này, em được bổ giáo sư trung học lương cao này, tốt nghiệp Đại học Sư phạm mà.

- Trời em lo chết đi được, chị ơi.

- Em lo gì?

- Em lo thi.

- Năm cuối cùng ai nỡ đánh hỏng? Huống chi em chị lại học chăm và ngoan có tiếng.

- Năm ngoái ban Anh văn của em cũng có bốn người trượt khóa đầu, phải đợi khóa hai mới đỗ.

- Trước sau cũng thế, miễn là đỗ, phải không em?

- Đỗ khóa hai thì thường bị bổ đi nơi xa, điều đó hợp lẽ công bằng phải không chị?

Giá như nói chuyện với người khác thì tôi trả lời ngay: “Miễn là xã hội mình có công bằng,” nhưng nói chuyện với Ngọc thì tôi giữ được tâm hồn thanh thản, tôi chưa kịp nói gì thì Ngọc đã tiếp:

- Năm ngoái Nha Trung học đã quyết định là con gái thì chỉ bổ nhiệm tới Mỹ Tho là cùng, khỏi phải qua bắc Mỹ Thuận đi về những tỉnh miền Hậu Giang xa xôi, thế mà con bạn em đỗ khóa hai, hết chỗ gần rồi, phải bỏ đi Vĩnh Bình, miền sáng sớm có sương mù trắng xóa cách ba bước là không nhìn thấy mặt nhau.

Tôi vẫn yêu cảnh sương mù trắng xóa dày đặc, tôi còn nhớ cảm giác lâng lâng khi đi vào cánh đồng sương mù miền Bắc. Tôi nói với Ngọc:

- Đặc mình có cảm tưởng trần gian như được nhấc lên miền thượng giới, và lòng cũng quên bực dọc?

- Ấy chính các anh bạn học cùng lớp với con bạn em cũng nói thế và gọi đùa con bạn là “Người đẹp của miền sương trắng Vĩnh Bình”. Nhưng nó nói chuyện với em là những lúc thân gái một mình đội mưa đội nắng qua đò giang, những lúc giữa quãng đường xa hẻo lánh, xe đò bị “tụi nó” chặn thì thấy đồng lương mình lĩnh chẳng có nghĩa lý gì. Ấy thà là một chuyến đi chơi như chị em mình hôm nay thì không sao.

Tôi cùng Ngọc đi theo hai hàng thông còn thấp, tôi lẳng lặng đưa mắt nhìn về phía có khoảng đất hoang của nhà trường, khu đất hoang thì cỏ mọc như rừng, nhà trường thì trông xa cũng như trông gần đẹp như một đồ chơi quý giá. Tôi hỏi Ngọc:

- Chương trình chiều nay ra sao em nhỉ?

- Chừng một tiếng nữa chúng mình ăn cơm chiều, tám giờ đoàn bắt đầu diễn kịch và tuyên truyền, chừng mười một giờ rưỡi khuya thì xong, như thường lệ.

- Nếu vậy chị còn thì giờ lên tắm, rồi ăn cơm cho ngon.

- Vâng chị lên tắm đi, còn thừa thì giờ mà. Tôi cùng Ngọc quay trở lại, lên thềm, theo đường hành lang dài tắp, rồi lên lầu ký túc xá của nữ sinh viên Sư phạm, nơi tạm dành riêng làm chốn nghỉ ngơi cho nữ giới trong phái đoàn. Ngọc đưa cho tôi mượn chiếc mũ bằng ni lông, để lúc tắm chụp lên đầu cho khỏi ướt tóc.

Bên cửa ngoài dãy phòng tắm là tấm gương lớn chiếm gần trọn một mảng tường, tôi chỉ dám liếc mắt nhìn thoáng bóng mình trong đó, tấm gương lớn quá phản chiếu cả dãy hành lang. Bên trong thoạt là một dãy vòi nước, nơi các nữ sinh viên đến đánh răng rửa mặt. Trên dãy vòi nước là cả một mảng gương hẹp nhưng chạy dài theo suốt dãy tường gạch tráng men, mảnh gương hẹp đó phản chiếu đủ gương mặt của mình nên gợi vẻ thân mật, ấm cúng. Vì vậy tôi dừng lại và nhìn vào lâu hơn chút ít rồi mới rẽ vào dãy phòng tắm. Dãy phòng vệ sinh và dãy phòng tắm dựa lưng vào nhau, tới đâu cũng gặp màu men trắng tinh, màu kền mạ sáng loáng.

Tôi vào phòng tắm gần cuối dãy. Cài chốt cửa xong, tôi khỏa thân vặn nước. Nước từ hoa sen đổ xuống thoạt mát lạnh làm tôi rùng mình, nhưng rồi quen ngay, tôi ngửa mặt đón những tia nước chan hòa trên khắp thân thể. Chợt tôi có cảm giác lạ dưới chân. Cuối nhìn: thì ra nước không thoát, dềnh lên. Tôi cúi xuống thấp hơn, tay quờ vào miếng đồng vuông có những lỗ hoa thị để thoát nước. Một cụm tóc mềm và mảnh của một nữ sinh viên nào đó tắm trước tôi đã bịt mất những lỗ hoa thị. Tôi chưa vứt đã tưng bừng rút đi tức khắc như có kèm theo tiếng reo vui. Nhìn cụm tóc mềm của “ai” lần cuối. Tôi nghĩ thầm: “Khi người con gái đó mơn mởn khỏa thân trong phòng tắm, nàng nghĩ gì về tương lai lứa đôi?” Tôi ném vội cụm tóc ra xa và cười thầm mình đã đứng tuổi rồi mà còn ưa nghĩ lẩn thẩn.

2

Ở phòng tắm về vừa trang điểm xong, tôi hay tin phái đoàn được mời xuống dùng cơm tại Cafeteria của nhà trường, nơi vừa là phòng ăn, vừa là phòng diễn thuyết, diễn kịch. Phía sau sân khấu có cửa thông sang nhà bếp.

Bàn bên là mấy nam sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn cùng đi với phái đoàn Chấn Hưng Đạo Đức như Ngọc, một nam giáo sư trường Sư phạm Vĩnh Long ngồi tiếp. Họ thoạt cũng nói chuyện nhân tình ấm lạnh, rồi những vụ hà lạm công quỹ, những thái độ luồn cúi đê mạt… Vị nam giáo sư trước là phi công khu trục cơ. Ông kể lại thời ông theo lớp huấn luyện ở Marrakech (Maroc), ông thuật lại buổi được thả cho đơn phi đầu tiên, trời cao xanh, một mình một máy, nhìn xung quanh, nhìn lên cao, nhìn xuống thấp, lướt trên đám mây này, chui vào đám mây nọ, càng thấy mình nhỏ bé, càng ý thức được sự tự do của mình lại càng thấy kiêu kiêu. Giọng ông say sưa vô cùng như để bù đắp cho biết bao phiền nhiễu của hiện tại nặng nề những ngu xuẩn. Chẳng riêng gì bàn tôi mà mấy bàn gần đấy cũng đều hướng về phía ông nghe chuyện. Những hình ảnh ông kể ăn khớp với những khát vọng trong lòng mọi người.

Vẫn vở kịch “Con Hổ” được diễn lại, trước vở kịch vẫn những lời giới thiệu ấy, vẫn những nhân vật ấy ra nói những lời đã nói ở Sài Gòn, nhưng vở kịch được diễn một cách say mê, lời nói luôn luôn thành khẩn nên tôi xem lại, nghe lại mà không thấy nhàm.

Suốt ngày hôm sau là cuộc tiếp xúc của phái đoàn với các nhân sĩ Vĩnh Long, công việc chúng tôi đứng trung gian phiên dịch lại những lời đàm thoại cũng chẳng có gì khó nhọc, vì đây là những câu nói cởi mở và nếu không cởi mở hoàn toàn thì cũng không đến nỗi khách sáo vô duyên, hoặc những lời gài bẫy nhau như trong những cuộc giao thiệp “chính trị”.

Buối tối chúng tôi và một số nhân sĩ ra ngồi ở Bungalow uống trà, đàm đạo, hoặc nhìn cảnh sông nước. Tôi kéo ghế nhích riêng về một góc vừa đủ để được tự do ngẩng nhìn bầu trời sao. Tôi ưa đắm mình trong cái mênh mông thăm thẳm của bầu trời sao để thoa dịu các vết thương, vết thương nhỏ mọn của riêng tôi, viết thương của cả đất nước. Mà kỳ lạ thay, tôi thấy hai vết thương là một, liên quan mật thiết với nhau. Tôi nhớ lại khuôn mặt hiền của cô bé Hoa, khi bé ngước nhìn thoáng vẻ lo lắng hỏi Ngọc: “Thế ở Vĩnh Long có yên không hở cô?”

Tuy còn bé dại ngày hai buổi cắp sách đi về, bé đã biết đất nước không yên, thấy người thân yêu đi xa thì ra chiều lo lắng. Đất nước người, ai nấy muốn đi đâu thì đi, thấy cỏ xanh thì nằm, thấy rừng đẹp thì vào săn, thấy sông đẹp thì thả thuyền; đất nước mình cốt nhục tương tàn, lấn trong màu cỏ xanh, nước xanh, rừng xanh còn tiếng cười vô hình của phá hoại xen lẫn với tiếng mìn, tiếng thủy lôi, tiếng súng phục kích.

Như vậy làm sao mà tôi chẳng thích bầu trời sao cho được, bầu trời thăm thẳm là màu nhung tôi dùng để đắp vết thương, tôi phóng tư tưởng vào cánh đồng sao ngút ngàn đó mà không sợ mìn, không sợ cạm bẫy.

Nửa đêm trời đổ cơn mưa lớn, tiếng gió heo hút va vào cửa kính, cái lạnh bên ngoài chuyển ùa vào ngập căn phòng khuya tranh tối tranh sáng. Qua tiếng gió lạnh lùng heo hút, tôi có ảo tưởng nghe thấy tiếng trẻ khóc. Tôi có ảo tưởng đó vì cách đây không bao lâu có một buổi tối ông anh tôi nghe tiếng trẻ khóc thét bên hàng xóm, bèn do một liên tưởng nào đó nói với tôi:

“Cô có thấy nhìn lại những năm tháng qua, từ thời ấu niên của anh em ta cho đến nay đằng đẵng bao nhiêu năm trường quốc nạn, anh thấy như chỉ mới mấy phút thoáng qua, nhưng nhìn vào tương lai, số ngày tháng ít ỏi còn sót lại, sao anh thấy nó kềnh càng đến khó chịu, anh có cảm tưởng nuốt chúng mà mắc nghẹn như con ếch không nuốt nổi con cua bướng bỉnh nhất định giương tám cẳng hai càng ra chống đối. Nhưng nay nghe đứa trẻ khóc thét, nghĩ đến nhịp vỗ của bàn tay bà mẹ trên lưng nó, nghĩ đến tiếng bà mẹ khen nựng miệng con thơm hơi sữa, nghĩ đến bé vòng tay ôm lấy cổ mẹ, cô có thấy vòng tay xinh xắn của nó là vòng xích sắt ràng buộc lấy tình mẹ, thứ xích sắt mà cả ngạn vạn trái bom nguyên tử nổ cùng một lúc không tiêu hủy nổi.”

Lời ông anh tôi nói thật có lý, thật thống thiết, lời nói của người đau khổ nội tâm nhiều, lời nói của kẻ cam chịu biết bao hủy diệt để đúc kết lấy một chút ít chân lý trong nhận định. Chân lý vẫn đơn giản nhưng chẳng phải ai cũng dễ nói lên được nó để xúc động kẻ khác.

Cơn mưa dầm dề kéo suốt đêm rồi suốt buổi sáng hôm sau. Cũng trong buổi sáng đó, đọc báo tôi hay tin trưa hôm trước ngoài đảo Phú Quốc có trên chục chiếc thuyền đánh cá bị bão biển cuốn ra khơi. Vậy đây là bão rớt rồi!

3

Phái đoàn Chấn Hưng Đạo Đức trở lại Sài Gòn ngay sáng hôm đó. Gió tiếp tục lành lạnh ghê ghê, trời tiếp tục âm u, mây khói lướt thướt, mưa chợt đổ xuống, chợt tạnh… Khi qua bắc Mỹ Thuận, con sông mênh mông như cửa biển, những đợt sóng đỏ hung dữ va vào mũi phà bắn tung tóe cao trên đầu người rồi đổ ụp xuống làm một số hành khách cuống quýt lùi lại giữa phà nấp sau những xe đò cao và dài. Phải mất tới hai mươi phút phà mới sang tới bên kia bờ. Theo lời những người quen đi thì chuyến phà lâu gấp ba lần thường lệ. Lẽ ra nhìn bầu trời chì với dòng nước đỏ mênh mông của dòng sông ta có thể tìm thấy vẻ đẹp hùng vĩ của tạo vật, nhưng tôi chỉ liên tưởng đến sự phản bội trong lòng người đương phản ánh thành sự phản bội hùng vĩ bên ngoài tạo vật. Từ phà lên, mọi người đều phải gò người lại để đi ngược chiều gió. Xe tiếp tục bon bon trên đường về, tôi nhận thấy cánh đồng hai bên mênh mông nước. Có những dãy nhà lá hôm đi thì có người ở, nhưng giờ đây thì nước ngập đầy bên trong, người đã tản đi chỉ còn lỏng chỏng một ít đồ đạc như chiếc giường gỗ, chiếc quang gánh, chiếc lu đựng nước… Cũng có đôi nhà thấp thoáng bóng người đơn độc ngơ ngác bên trong, chắc là về để kiểm soát những gì còn lại và xem chừng mực nước. Cái gì giúp người dân sống được trong cảnh tiêu sơ hèn mọn ấy? Há chẳng phải là tình quê hương? Cái gì giúp con người vui sống trên mảnh đất quê hương đầy bấp bênh ấy? Há chẳng là tình đồng bào? Cái gì giúp con người khuây khỏa trong khi phải đối phó với cả đồng bào? Há chẳng là tình cha mẹ với con cái, tình vợ chồng, tình trai gái? Để lẩn tránh tai ương, hay để an ủi những rủi ro bất hạnh người ta đều ẩn mình trong những cái mà ta có thể gọi chung là tình thương yêu. Bây giờ tôi mới khám phá ra tại sao hôm vào buồng tắm khi thấy nước dềnh lên vì một cụm tóc nhỏ của một nữ sinh viên nào đó lấp mất chỗ nước thoát và khi tôi gạt cụm tóc nhỏ ra ngoài, tôi có đặt thầm câu hỏi: “Khi cô con gái mơn mởn này khỏa thân trong phòng tắm, nàng nghĩ gì về tương lai lứa đôi?” Lúc đó tôi nghĩ rằng mình đã đứng tuổi còn nghĩ lẩn thẩn nhưng bây giờ đây thì tôi hiểu tôi có lý khi nghĩ vậy. Vô tình mà có lý!

Xe tới Bến Lức lúc nào. Trời vẫn một màu chì, gió vẫn thổi mạnh, nhưng mưa đã ngừng rơi. Xe ngừng lại đợi đến phiên qua cầu. Những tiếng chào hàng hối hả: “Mía, mía!” “Bánh tét, bánh tét đây!” “Khóm miếng, khóm miếng!” “Đậu phọng, đậu phọng!”

Kèm theo với tiếng rao hàng là tiếng đàn lục huyền cầm thô sơ điểm nhịp của một người mù hát dạo, đứa con gái đứng cạnh giơ cao chiếc nón lá xin tiền.

Tôi chú ý đến em bé bán khóm chạy loăng quăng. Em mặc chiếc áo kẻ vuông đỏ, chiếc quần thâm bạc màu, em bịt kín đầu và hai bên tai bằng một vành khăn mỏ quạ, vậy mà môi em cũng còn tím lại vì rét. Gió thổi mạnh làm dạt bụi lau trên đê cao gần đấy. Tiếng em rao “Khóm miếng, khóm miếng” đôi khi làm người lính gác trên đó phải nhìn xuống và hình như có mỉm cười. Người lính cầm súng trường có lưỡi lê tuốt trần đứng ngay trong chòi canh có những bao cát xếp vây tứ phía, chiếc đèn pha gần đấy chúc đầu về phía đồng xa gây bầu không khí khắc khổ của chiến tranh.

Bảng trắng báo hiệu đến lượt cho đoàn xe bên này lên cầu. Từ trên cầu cao nhìn xuống, con sông Bến Lức đẹp dịu dàng mơn mởn. Tôi liên tưởng ngay đến khuôn mặt của bé Hoa rồi đây khi vừa tới tuổi xuân. Màu nước xanh trong dềnh lên mấp mí bờ, những thửa ruộng ven sông cũng ngập nước, mạ thỏa thuê khoe màu xanh non; xa hơn, trên những thửa ruộng cao, là màu xanh của những luống mầu khoai sắn, rồi đến một khoảng tựa như rừng thưa gồm những cây cao ngất, thân trắng xóa và vòm lá xanh thẫm đốm vàng, trắng, đỏ. Tại sao không lập trường đại học cho sinh viên ở ngay hai bên bờ sông này? Tại sao không có những quán cơm sinh viên hay học sinh ở ngay hai bên bờ sông này? Để rồi học xong, ăn xong, đoàn thanh niên nam nữ vui chơi trên bờ sông, hoặc thả thuyền, hoặc bơi lội trên dòng sông? Sao không có những nhà giải trí hai bên dòng sông xanh để những người sau một ngày làm việc tận lực đến đây nâng chén trà, nghe câu ca? Đất nước loạn ly, ra khỏi châu thành là bất an, châu thành càng trở nên ung nhọt và lũ người chúng ta rúc đầu vào thành phố như lũ giòi rúc đầu vào đống phân, chúng ta bỏ rơi thiên nhiên với dòng sông xanh nước hậu hĩ tràn bờ, với màu xanh phong phú của cây cỏ. Tôi phải cầu cứu đến khuôn mặt kỳ lạ của bé Hoa trong ký ức để tự an ủi. Về tới Sài Gòn, tôi cùng Ngọc lên tắc-xi, khi xe qua khu ngã sáu mênh mông, khoảng chân trời xa tắp, phía cuối đường Lý Thái Tổ, một màu hồng rực đập vào mắt chúng tôi, màu hồng đó như đương chống trả ác liệt với bóng tối từ miền cao thẳm bủa xuống; cả vũ trụ cơ hồ chỉ còn khoảng ánh hồng này và màu hồng đó không chịu bị bóp nghẹt ở trên cao đã vùng vẫy tuột xuống và chảy lênh láng đầy đại lộ.

4

Ngay buổi tối có người bạn đến rủ tôi đi xi-nê. Mặc dầu cảm thấy mệt, tôi vẫn đi. Tôi đương thích hành hạ tôi. Hàng ghế trước tôi có cặp trai gái hẳn mới ăn ý nhau, họ quàng vai nhau âu yếm, nhưng rồi bàn tay kia của người con trai muốn đi quá trớn, người con gái cưỡng lại cố đẩy chàng trai ra xa. Cái ôm ghì càng mạnh, sức đề kháng càng tăng dữ để lấy thế thăng bằng, ánh sáng phản chiếu từ màn ảnh tới tuy mờ mờ nhưng cũng đủ để tôi thấy rằng người con gái không còn ở thế dịu dàng nữa mà ở thế chống trả khá mãnh liệt. Rồi người con trai đứng dậy vào phòng toilette, vài phút sau người con gái cũng đứng dậy, cô phủi áo, đi thẳng ra, tôi không biết màu áo cô mặc, nhưng thấy lấp loáng màu trắng chiếc ví cô cầm tay. Họ bỏ ra giữa phim. Tôi ngồi lại cùng bạn, thực ra cũng chẳng xem được gì hơn. Trở về nhà tôi nhức đầu thực sự. Nhiều lần suốt đêm chập chờn không ngủ, tôi vẫn cảm thấy cơ thể lành lạnh. Tôi không quen sự ốm đau tật bệnh dù chỉ là một điểm trong đầu nhức nhối.

Tôi thiếp ngủ…

Tôi ngắm căn nhà chúng tôi vẫn ở tuy bên ngoài tường long vách lở, nhưng bên trong còn giường chiếu, bên ngoài còn có mành mành che cửa. Tôi chợt thương mẹ nằm một mình ở căn nhà tranh tồi tàn. Mẹ tôi nghèo lắm, cảnh nghèo cô đọng của biết bao nhiêu cảnh nghèo mà tôi đã từng chứng kiến, thuở còn ngây thơ thì chứng kiến cảnh nghèo của những người thân sơ trong họ ngoài làng, từ khi lớn lên thì chứng kiến biết bao cảnh nghèo của đồng bào cả Trung, Nam, Bắc. Tôi rời khỏi nhà đi thăm mẹ. Căn nhà tranh xác xơ của mẹ tôi làm trên một cái gò nhỏ, phía trước mặt là chiếc ao nhỏ. Tôi lội xuống, để đi thẳng vào nhà. Không được! Khoảng đó hơi sâu, đã đành không sâu lắm, nhưng cũng đủ ngập đến ngang gối làm ướt quần. Tôi đi quành sang bên, nơi đó có bực xi-măng, xuống hết bực thì khoảng này nóng, chỉ việc nhón mấy bước là tới bực của căn nhà tranh tiều tụy. Tim tôi se lại! Làm sao mà tôi nỡ lòng quên phứt mẹ trong bấy lâu, để mẹ già nằm một mình trong căn nhà hiu quạnh và ẩm thấp kia. Khi bước xuống bực xi-măng, chiếc ao như biến thành chiếc bể đựng nước mưa bị rò thủng nơi nao, nước thoát đi hết, nay ráo hoảnh như người hết nước mắt. Ai hết nước mắt chứ tôi lúc đó thì nước mắt tràn ngập trong lòng. Tôi thương mẹ tôi nghèo hèn cô độc, tôi muốn khóc cho những lầm lỗi của cả đời tôi. Khi sắp bước lên bực nhà, óc tôi có thoáng nghĩ đến con chó giữ nhà, nhưng tôi yên chí là con chó đó mẹ tôi đã bán lấy tiền đong gạo rồi. “Mẹ ơi, con đến đón mẹ, con đến đón mẹ về ở với con, nhà con tuy cũng nghèo, nhưng còn là cái nhà và có giường có phản, có chăn có chiếu, mẹ về sống bên con, mẹ đừng ngại gì. Đến bây giờ con mới đến đón mẹ là tệ quá, nhưng thôi muộn còn hơn không, lòng mẹ như biển, mẹ chỉ khẽ gật đầu nhận là mẹ rửa hết tội lỗi cho con.” Trời ơi, nếu mở tấm liếp ra, mẹ tôi đã nằm chết trong đó rồi thì sao? Có thể người chết đói, chết rét và chồng chất bao nhiêu tủi cực câm lặng khác nữa. Tấm liếp đã mở. Tôi bước vào, ánh sáng mờ mờ từ ngoài lùa vào chiếu được cả căn nhà nhỏ hẹp không bằng một gian nhà tôi ở. Mẹ tôi nằm ngay lối vào, lẽ cố nhiên nằm đất vì nhà không có bóng giường phản hay một chiếc ghế nhỏ nào. Cái chiếu nửa trải để nằm, nửa kéo lên để đắp, người nằm phủ chiếu như vậy, trông như một nấm mồ đất đã xẹp xuống nhiều sau một trận mưa lớn. Tôi lật vội phần nửa chiếu đắp lên để xem mẹ tôi sống hay chết. Trời ơi! Dưới manh chiếu là bé Hoa tám chín tuổi nhà đối diện, khuôn mặt vừa buồn vừa có gan chịu đựng. Em mở mắt, đôi mắt nhung thăm thẳm, nhìn tôi mỉm cười, nụ cười buồn rầu và tinh khôn của đứa trẻ biết phận mình nghèo hèn không dám cười tươi với bất cứ kẻ nào còn đủ ăn đủ mặc. Lòng tôi thắt lại, tim tôi ngừng đập, nước mắt kết nghẽn, mặc dầu tôi òa khóc ngay lúc đó. Tôi quên hẳn hình ảnh mẹ tôi. Tôi cúi xuống muốn cầm tay em bé, nhưng hai bàn tay xinh rụt lại. - “Con ơi con về với bác!” - Em nghe tôi nói vậy chỉ mỉm cười, nụ cười càng vô cùng buồn rầu và chịu đựng. Em không nói gì nhưng nụ cười buồn rầu đó, cái nhìn của đôi mắt nhung thăm thẳm không chút gợn oán hờn đó, dường như nói với tôi trong im lặng: “Làm sao cháu về với bác được? Ai có phận nấy, người nào cũng có những lo âu riêng của người ấy.”

Tôi muốn gầm thét lên cho thiên hạ nhìn vào lòng ích kỷ của họ và nhìn vào tấm gương chịu đựng mênh mông của em nhỏ. Cao quý thay em nhỏ đã sớm ý thức được cái nghèo hèn của mình và nhất là biết mỉm cười lắc đầu không chịu nhận sự giúp đỡ của kẻ khác. Em không kết tội ai, nhưng cả nhân loại mang tội với em. Cả thân hình tôi muốn tràn ứ và tới lúc đó hai hàng nước mắt của tôi mới đổ ra. Tôi khóc như cha tôi chết, như mẹ tôi chết, lòng tôi thắt lại hơn nữa.

Sự quặn đau còn kéo dài khi tôi bàng hoàng sực tỉnh, nước mắt giàn giụa ướt đẫm gối. Trong phút bàng hoàng sực tỉnh ấy, tôi như thấy mình vẫn còn đứng trong căn nhà nhỏ, trước em gái nhỏ, với manh chiếu nửa nằm nửa đắp. Và tôi còn muốn nói – hay tiếng nói đó trong mơ vọng lại:

- Con ơi, con hãy về với bác!

Tôi vẫn chưa kể câu chuyện bí mật đời tôi cho chị Minh nghe. Có lẽ chẳng kể nữa thì hơn. Khuôn mặt chịu đựng với đôi mắt thăm thẳm của bé Hoa trong giấc mơ qua đã dạy tôi điều đó.