PHẦN THỨ NHẤT
Tháng Ba, năm 1995.
Chechnya.
Ngôi làng nhỏ Duts-Khote trên núi cao.
Một đêm dài bất an sắp trôi qua. Cảnh vật chìm trong sương mù và trong bóng tối nhờ nhờ màu tím hoa cà. Một sự tĩnh lặng và bình yên giả tạo bao quanh ngôi làng cổ, trong khi chính ngôi làng thì như đang sôi lên trong khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân chúng nháo nhào chạy ngược chạy xuôi, đàn bà và trẻ con khóc lóc, đàn ông tỏ ra điềm tĩnh, vội vàng tất bật, la hét đến khản cả giọng. Trong bóng đêm trước khi trời sáng, ánh mắt của mọi người đều toát lên nỗi u buồn, sợ hãi và hoảng loạn... Chiến tranh... Dân làng Duts-Khote đang vội vã rời bỏ mái ấm gia đình. Cho đến trước cái đêm khủng khiếp này, họ vẫn nghĩ ngôi làng nằm tít trên núi cao của mình sẽ tránh được sự hủy diệt. Tuy nhiên niềm hy vọng và dự đoán của họ đã không thành.
Đã đến lượt ngôi làng Duts-Khote. Chiều hôm trước, bốn chiếc máy bay ném bom, mỗi chiếc ném hai quả bom xuống quanh làng. Một quả có sức công phá khủng khiếp: sau tiếng rít man rợ là quầng sáng chói lòa bao trùm khắp thung lũng Vashandaroi, tiếng nổ đinh tai nhức óc cùng với sức mạnh hủy diệt như cuồng phong của nó làm rung động cả những dãy núi hùng vĩ và các vực sâu... Âm vang của tiếng bom nổ còn chưa kịp tan, thì cả ngôi làng lại bị đại bác bắn phá dữ dội. Những loạt đạn chết người được bắn tới từ các cứ điểm trên bình nguyên Chechnya, bay qua các con đèo, theo một quỹ đạo dài hàng chục cây số đã được tính trước.
Cuộc bắn phá được tính toán kĩ lưỡng và chính xác. Những quả đạn đầu tiên phá hủy ba ngôi nhà lớn nhất ở Duts-Khote. Thêm một số ngôi nhà nữa ở rìa làng cũng bị hư hại. Sau đó đạn rơi xuống đường làng và vườn tược. Người ta muốn ép dân chúng ra khỏi làng. Mọi người nấp trong các tầng hầm và hầm chứa, và vì uá lo sợ, họ không biết phải làm gì. Đến nửa đêm, cuộc bắn phá tạm dừng rồi lại tiếp tục vào lúc hai giờ khuya. Giờ đây, những viên đạn pháo lại nổ trong khu rừng ven làng, trên các cánh đồng bằng phẳng ở thung lũng Vashandaroi. Đến ba giờ đêm thì bắt đầu một sự tĩnh lặng nặng nề. Dân làng Duts-Khote hiểu ra rằng, họ cần phải rời bỏ mái ấm của tổ tiên để bảo toàn mạng sống...
Trước khi mặt trời ló dạng, một đoàn xe tải, máy kéo có rơ-moóc, xe ngựa kéo, vội vã, lộn xộn rời khỏi ngôi làng. Đoàn xe chỉ có thể mang theo những đồ dùng sinh hoạt vặt vãnh, nghèo nàn và giản đơn, cùng với lũ gia súc và những con người ủ rũ, lặng câm. Đi cuối đoàn xe đau khổ ấy là đoàn người đi bộ, dây thừng vắt vai, dắt theo khối tài sản quý giá nhất của mình - những con bò sữa. Họ chạy vào núi trên những con đường rừng đóng băng, lở lói, về hướng Dagestan thanh bình. Những người cuối cùng rời khỏi ngôi nhà và mảnh đất tổ tiên là những người nghèo nhất và đông con nhất. Những người khá giả hơn đã rời làng ngay sau khi quân đội Nga chiếm được thành phố Grozny - thủ đô nước cộng hòa Chechnya. Còn những người giàu có nhất - khoảng ba, bốn gia đình - đã chạy từ khá sớm trước khi chiến tranh nổ ra.
Về việc chiến tranh sẽ nổ ra, người ta đã bàn tán từ lâu, thậm chí trên tivi đã cánh báo. Tuy nhiên, những người dân thường lại không tin vào cái điều vô nhân đạo như vậy, và thêm một lần nữa họ lại tin vào lòng nhân ái của các cấp lãnh đạo. Mà thật ra thì họ cũng không có điều kiện để rời bỏ ngôi nhà của mình, phiêu bạt nơi đất khách quê người. Còn những người khá giả, theo cách đánh giá của dân làng Duts-Khote, là những người có học và có nhiều thông tin. Với những bài học từ quá khứ và thực tế xung quanh, họ nhận ra sự vô liêm sỉ của các thủ lĩnh trong các cuộc cải tạo cách mạng.
...Trời sáng, làng Duts-Khote vắng hoe. Trong cả ngôi làng chỉ còn lại hai người: ông lão chín mươi tuổi Arachaev Tsanka và một người đàn ông không còn trẻ nữa, Goisum Datsiev. Người ít tuổi hơn ra đời vào thời kỳ lưu đày ở vùng sa mạc Kazakhstan. Mồ côi từ nhỏ, anh trải qua nhiều căn bệnh hiểm nghèo để thành một người vẹo vọ và thất học. Dân quanh vùng gọi Goisum là thằng khùng, thậm chí còn mang anh ra để dọa trẻ con nữa. Nhưng người làng vẫn thương anh và đều giúp anh khi có thể. Goisum lặng lẽ lớn lên, trí tuệ không có gì, nhưng đôi khi anh cũng có thể nói ra những câu làm người khác phải ngạc nhiên vì sự nhanh trí. Càng lớn lên, cơ thể của Goisum càng biến dạng, đến mức thành dị tật. Tuy nhiên, số phận của Goisum không đến nỗi bất hạnh hoàn toàn, cơ thể anh, nhìn bề ngoài như vậy nhưng lại rất khỏe. Goisum sống trong túp lều xiêu vẹo được thừa kế từ bà con họ hàng, ăn uống bằng của bố thí của người làng, lúc nào trông cũng nhếch nhác, bẩn thỉu. Ngay từ bé, Goisum chỉ có hai trạng thái tinh thần: hoặc là cười ngây dại, điều này ít khi xảy ra và chỉ xảy ra khi anh đã no nê, và trạng thái giận dữ, kích động. Trạng thái thứ hai thường xuyên hơn bởi lẽ lúc nào Goisum cũng thèm ăn kinh khủng, mà để thỏa mãn thì rất khó. Goisum ăn rất nhanh, nhanh như chó, ngay lập tức nuốt hết, không kịp nhai, mà có nhai cũng chỉ trệu trạo trong miệng, rồi tống qua thực quản, xuống cái bụng bao giờ cũng đói. Kẻ mồ côi này lúc nào cũng sợ người ta lấy mất miếng ăn của mình. Tuy nhiên, số phận dù có hẩm hiu đến đâu, Goisum vẫn yêu đời, thậm chí rất yêu, và bằng tất cả sức lực, anh vẫn cố bấu víu vào cái cuộc sống không thể chịu đựng nổi ấy, như bà mẹ ghẻ cố bám vào cuộc sống bất công và hẩm hiu của mình. Có thể thấy, Goisum đã tìm được trong số phận của mình những điều tốt đẹp nào đó, và trong thâm tâm, anh vẫn hy vọng vào một tương lai tươi sáng, về một niềm hạnh phúc giản dị của con người, về một tình yêu nam nữ.
Dù sức khỏe không tồi, nhưng Goisum không thích làm việc, anh tẩy chay mọi hình thức bóc lột, né tránh mọi hình thức lao động tập thể, đơn điệu. Tuy nhiên, người làng đôi khi vẫn có thể nhờ anh làm những việc đại loại như mang vác các vật nặng. Goisum không bao giờ từ chối những công việc như vậy vì anh biết, chỉ cần nỗ lực chút ít là anh sẽ được thưởng ngay bằng đồ ăn.
Goisum chưa bao giờ bước chân vào trường học. Thật ra, anh có hai đam mê xem phim hành động trên tivi và video và tham dự các cuộc tụ tập, lễ hội - chẳng hạn như đám cưới, đám ma, nơi anh được cho ăn uống thoải mái.
Với một cuộc đời không hề ngắn, Goisum giờ đã bước sang tuổi năm mươi, và anh đã gặp hai sự kiện không thể tưởng tượng nổi. Cả hai lần đều là hậu quả của việc uống khá nhiều rượu. Lần đầu xảy ra khi anh hai mươi lăm tuổi. Khi đó, trong cơn say, Goisum đã xổ tuột hết ruột gan mình ra: anh kết tội dân làng về những bất hạnh của mình, chửi bới thậm tệ, đuổi đánh mọi người, phá hủy tất cả những gì gặp trên đường, rồi phỉ báng cả thánh thần. Cho đến khi mười, mười hai thanh niên lực lưỡng vật anh xuống đất, trói anh lại, anh mới chịu yên. Rất lâu sau đó, xấu hổ vì những gì đã làm, Goisum không dám xuất hiện trước mắt mọi người, hai, ba tháng liền anh cứ phải cúi gằm mặt mà đi.
Sự kiện thứ hai xảy ra bảy, tám năm sau đó, cũng là sau khi uống say. Vào lúc trời chạng vạng, Goisum lẻn vào sân nhà hàng xóm Borzaiev, cầm tay cô con gái Musilpat không còn trẻ nữa, rồi quỳ xuống trước mặt cô, nước mắt giàn giụa, cầu xin cô lấy mình làm chồng. Cô hàng xóm hoảng hồn, giật tay ra và chạy vào nhà. Goisum đuổi theo. Đến phòng ngoài, mẹ Musilpat chạy ra ngăn lại, nhưng anh láng giềng say xỉn gạt người đàn bà sang bên, chạy tiếp vào phòng ngủ của cô gái. Bà mẹ ra sân kêu cứu, họ hàng, láng giềng chạy lại. Họ ùa vào nhà và chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng: trên giường, cô gái ngồi nép vào trong góc, hai tay ôm mặt, kêu gào thảm thiết, còn anh chàng Goisum bất hạnh quỳ bên giường, tỏ tình với cô.
Đám đàn ông lao vào anh chàng đồng hương si tình, đấm đá túi bụi. Lúc đầu, Goisum cắn răng chịu đựng, không né tránh những cú đòn dữ tợn, nhưng sau đó, anh ta hét lên một tiếng man dại như con thú điên, đứng bật dậy, và chỉ bằng vài đòn, anh ta đánh bật tất cả mọi người văng vào góc phòng rồi hoảng sợ chạy ra khỏi nhà. Đến sân, Goisum đứng sựng lại như trời trồng, lơ đãng nhìn quanh, vẫn còn run lẩy bẩy, cố nén chặt nỗi tức giận vào hai quả đấm, mắt đỏ ngầu, nước mắt tuôn lã chã, mồm há rộng, đôi môi dày nhô ra, nước bọt dính đầy trên hàm râu quai nón, cơn giận dữ điên cuồng trào lên. Tất cả chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Goisum bất ngờ quay người, lao vào nhà. Lại vang lên những tiếng la hét, rên rỉ, chửi bới. Lát sau, Goisum chạy ra, nhưng giờ đây trên vai anh ta là thân hình cô người yêu mềm nhũn, lắc qua lắc lại. Goisum lao như tên bắn ra vườn, nhanh nhẹn nhảy qua hàng rào và biến mất trong túp lều của mình cùng với chiến lợi phẩm. Hai phát súng vang lên đuổi theo Goisum.
Tất cả mọi người trong dòng họ Borzaev vây quanh nhà Goisum. Họ không sợ sức mạnh của chủ nhà, liều lao vào túp lều ọp ẹp của anh ta, đâm cho kẻ cưỡng bức vài nhát dao vào tay, vào chân, vào mông, giải cứu Musilpat, rồi dân làng lại xúm vào đưa Goisum máu me bê bết đến bệnh viện huyện.
Mấy tháng sau, để giải quyết vụ rắc rối này, một phiên tòa của tòa án nhân dân được tổ chức. Goisum, do không có năng lực chịu trách nhiệm về hành vi nên được tuyên bố trắng án, còn một trong số những người bà con của gia đình Borzaev bị xử hai năm tù giam vì hành vi gây rối trật tự công cộng. Tuy nhiên, phiên tòa trong vùng núi Chechnya này không có ý nghĩa quan trọng, mọi người chờ sự phán quyết của Hội đồng bô lão, chính xác hơn là ý kiến của vị công dân đáng kính nhất trong làng Duts-Khote - ông Arachaev Tsanka. Nhà Borzaev đòi trục xuất Goisum ra khỏi làng, họ bảo, họ bị thiệt đơn thiệt kép: con gái bị làm nhục còn một người bà con bị đi tù. Họ tìm mọi cách tác động lên Hội đồng bô lão, tuy nhiên ông lão Tsanka lại không muốn làm căng thẳng thêm tình hình, ông chỉ muốn xoa dịu, hòa giải. Ngoài ra, trong cuộc nói chuyện trực tiếp với cha của Musilpat, ông Arachaev còn đề nghị gả con gái cho Goisum. Ông Borzaev là một người khôn ngoan, ông biết, cô con gái hai mươi hai tuổi của mình còn lâu mới có thể gọi là hoa khôi, và theo cách đánh giá của người địa phương thì tuổi ấy không còn trẻ nữa. Ngoài ra, cũng vì cái vở hài kịch xui xẻo kia mà cô con gái của ông rất có thể phải ở vậy suốt đời. Ông bố đồng ý. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô Musilpat cương quyết không chịu lấy anh chàng hàng xóm lưng vẹo ấy.
Vậy là trong nhà Borzaev nổ ra bất hòa. Sau vụ đó, cô Musilpat bỏ vào thành phố Grozny, làm ở quán café nào đó, người ta đồn, cô cũng đã lấy chồng, nhưng không hạnh phúc, lại chia tay. Tóm lại, sau khi trong thành phố Grozny nổ ra cuộc chính biến năm 1991, bắt đầu diễn ra mọi sự biến động, hỗn loạn và hung bạo thì Musilpat lại quay về nhà cha mẹ sau cuộc hôn nhân thất bại. Với thời gian, cô trở nên đầy đặn hơn, khuôn mặt khó nhìn cũng trở nên dễ nhìn hơn, còn vóc dáng lại càng hẫp dẫn. Tuy nhiên, không một người đàn ông nào trong làng muốn trao tay hay trao tim, chứ chưa nói đến việc trao cả cuộc đời cho cô. Cũng có những lời đề nghị kiểu trăng hoa, người ta đồn Musilpat cũng không từ chối, thậm chí cô còn thích đàn đúm vui vẻ nữa. Lời đàm tiếu đến tai những người đàn ông trong gia đình Borzaev, ngay lập tức họ đánh cho Musilpat một trận vì cái thói ong bướm thị thành, và dọa, nếu còn tiếp diễn lần nữa, họ sẽ bắn chết rồi chôn trong rừng.
Nhưng khi những vết bầm tím trên mặt vừa tan thì Musilpat lại trốn vào thành phố Grozny, song các anh em của cô đã tìm được và dẫn cô về làng. Suốt nửa năm trời, cô con gái nhà Borzaev trở nên héo hắt, thế rồi đột nhiên cô đồng ý lấy anh chàng láng giềng kỳ quái Goisum. Chính cô đặt vấn đề với anh ta, tự mình ngỏ lời, nhưng với một điều kiện, cô chỉ lấy Goisum khi anh xây được ngôi nhà mới và cạo sạch bộ “râu dê” quai nón. Ngay trong chiều hôm ấy, kẻ hàng xóm si tình không chỉ cạo sạch bộ râu mà còn cạo trọc cả đầu.
Vào thời gian đó, Goisum Datsiev không còn là một kẻ ăn không ngồi rồi nữa. Trong thời gian tiến hành điều tra để xét xử vụ đánh cắp người đẹp và sau khi các vết thương đã lành, chính quyền đã đưa Goisum vào bệnh viện tâm thần để khám và điều trị. Goisum không thích chút nào các quy định chặt chẽ như nhà tù của cái cơ quan y tế này nên anh bắt đầu gây náo động. Ngay lập tức người ta mặc cho anh chiếc áo bó và cứ để như vậy, còn ăn uống thì rất tệ. Sau phiên tòa, người ta ra điều kiện cho Goisum: hoặc là phải đi làm, hoặc là lại vào bệnh viện tâm thần. Thế là Goisum trở thành người chăn gia súc trong trang trại bò sữa của nông trang. Thời gian đầu, công việc đối với Goisum rất vất vả, nhưng rồi anh cũng quen dần và anh không chỉ làm việc mà còn vào ở luôn trong trang trại nữa. Có khi vài tuần liền Goisum không về làng, còn khi xuất hiện, mọi người đều phải tránh xa: cả người anh bốc mùi phân bò, mùi thức ăn ủ chua và mùi gia súc. Cuối cùng thì Goisum cũng tạo được mối quan hệ với các bà vắt sữa sồn sồn, và người ta đồn về anh đủ chuyện. Lời đồn đại thì nhiều, nhưng điều mà dân trong vùng ai cũng biết, đó là Goisum có sức khỏe trong mọi việc. Có lẽ, cái chi tiết cuối cùng này có sức cám dỗ Musilpat, và cô quyết định tận dụng ngay sức mạnh tráng sĩ đó cho chính mình. Tuy nhiên, cô không muốn sống trong túp lều ọp ẹp của Goisum.
Lời đề nghị của Musilpat như chắp thêm cánh cho Goisum, với sự hứng khởi cao độ, anh bắt tay vào xây dựng ngôi nhà. Thoạt đầu Goisum dự tính xây ngôi nhà to, nhưng dân làng đã kìm bớt sự bốc đồng của anh lại, khuyên anh xây một ngôi nhà vừa phải thôi, không tốn nhiều tiền nhưng ấm cúng. Sau nửa năm, cả làng đã giúp anh chàng Goisum si tình dựng xong ngôi nhà, chỉ còn trang trí nội thất. Đúng lúc ấy thì chiến tranh bùng nổ.
Goisum sợ đại bác không kém bất cứ người dân nào trong làng Duts-Khote, còn các vụ ném bom làm anh thót cả tim. Lẽ ra, cùng với dân làng anh cũng bỏ chạy thật xa cơn ác mộng, nhưng có hai nguyên nhân giữ chân anh lại: thứ nhất là ngôi nhà đẹp đẽ đang xây, thứ hai, từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ anh không hề có mảnh giấy tùy thân. Người ta đồn, tại các trạm kiểm soát liên hợp, lính Nga sẽ kiểm tra giấy tờ, nếu không có, người Chechnya sẽ bị đưa vào các trại thanh lọc. Mới nghe nói vậy, Goisum liền nhớ đến bệnh viện tâm thần, anh nghĩ, nếu trong bệnh viện mà còn khủng khiếp đến thế, thì trong nhà tù dã chiến quân đội còn thế nào nữa? Nghĩ vậy nên Goisum càng cố chui sâu xuống tầng hầm ngôi nhà mình đang xây, hàng giờ liền ngồi chờ trong bóng tối cho đến khi cái đói lôi anh ra ngoài.
Cần phải nói thêm rằng, vào thời gian xét xử, người ta đã cấp cho Goisum một cái giấy chứng nhận gì đó với tấm ảnh chân dung trông thật gớm ghiếc, nhưng bây giờ anh không biết nó nằm ở đâu. Goisum tìm kiếm ở nhà mình, rồi hỏi phòng tổ chức nông trang, nhưng không thấy. Vậy là, Goisum đang ở lại trong ngôi làng bỏ hoang ảm đạm với ông lão Arachaev Tsanka.
Giờ đây, hai con người cô đơn đang đứng giữa ngôi làng u buồn không một bóng người. Từ những ngôi nhà hoang vắng phả ra một làn không khí ảm đạm và đau thương. Trong chuồng nhà ai đó vọng ra tiếng kêu be be của mấy con dê đực, đâu đó ngoài bìa làng một con bê con bị bỏ đói rống lên thảm thiết. Cảm thấy có điều bất ổn, lũ chó sủa ăng ẳng. Một con mèo con không biết từ đâu ló ra cạnh cổng, ngạc nhiên nhìn quanh quất, không hiểu chuyện gì xảy ra nên vẫn còn tinh nghịch chạy lại chỗ có người, kêu meo meo rồi cọ mình vào đôi ủng bẩn thỉu của ông lão. Một con gà trống, vươn cao đôi cánh cất tiếng gáy ó o, một vài tiếng gáy nữa phụ họa theo.
— Ông Tsanka, sao ông không đi? - Goisum lên tiếng, phá vỡ sự im lặng nặng nề.
— Ta chẳng biết đi đâu cả, - ông lão mỉm cười cay đắng, sửa lại cặp kính dày cộp, dựa người vào cây gậy chống nặng trịch được chạm khắc hoa văn cầu kỳ.
— Không biết đi đâu là thế nào, ông có con trai, có bà con họ hàng. - Goisum không chịu.
— Trong suốt cuộc đời dài của mình, không chỉ một lần ta phải rời bỏ mái ấm gia đình, nhưng bao giờ cũng với hai bàn tay khỏe mạnh.
— Còn bây giờ, ông chờ người ta đến vặn cổ mình?
— Không, chỉ đơn giản là bây giờ ta không sợ gì nữa. Không còn ai phải phụ thuộc vào ta, và ta cũng không phải nuôi ai, giờ đây cả dòng họ phải há mồm nghe ta nói, nhưng ta lại không được chết một cách vô ích... Ta chẳng còn điều gì phải bận tâm nữa, - ông lão sảng khoái phẩy tay. - Suốt đời ta đã lang thang nơi đất khách quê người, chỉ mơ ước được yên nghỉ ở quê nhà, được chôn cất ở nghĩa trang dòng họ Gazavata. Chắc là đến lúc rồi.
— Ồ không, ông Tsanka ạ, quên cái chuyện tế sống ấy đi, - Goisum cố động viên ông lão. - Chúng ta còn sống lâu...
— Phải, phải, - ông lão mỉm cười gượng gạo, ngắt lời. - Ta sẽ còn được dự đám cưới của chú mày.
Goisum mỉm cười thích thú, nét mặt trở nên hiền lành, xúc động.
— Đấy, chỉ sau một vài tháng nữa là ngôi nhà sẽ hoàn thành và cháu sẽ đưa cô dâu về, - Goisum nói không chút e ngại. - Hôm qua, lúc bị bắn phá, cháu sợ ngôi nhà của mình bị trúng đạn, cứ run cầm cập. Cháu vẫn còn may.
— Đúng thế, - ông Tsanka thừa nhận. - Ngôi nhà của cháu cần phải đứng vững, chính cháu chứ không phải ai khác trên trái đất này xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Rồi chiến tranh sẽ kết thúc, ta sẽ làm lễ thành hôn cho các cháu. Chẳng cần phải chờ ngôi nhà xây xong, Cứ để đấy, ý trung nhân của cháu sẽ xây nốt, cuộc sống càng thú vị.
— Đúng, đúng, - Goisum hồn nhiên phụ họa theo, còn ông lão thì vẫn tiếp tục bằng một giọng như vậy, không biết là nói đùa hay nói thật.
— Còn gì nữa. Bao nhiêu năm cháu phải chịu đau khổ, chờ đợi, thế mà con bé còn đòi xây nhà mới nữa! Chẳng ra làm sao cả! Chồng chưa cưới như cháu, tìm khắp vùng không có... Cứ để nó tự xây nhà, tự làm vườn, tự sinh con. Chẳng có chuyện gì xảy ra với nó đâu, chỉ tốt hơn thôi, có thể nó sẽ gầy hơn một chút đấy!
Goisum bật cười, nhưng sau khi nghe từ “con”, anh trở nên trầm ngâm, thậm chí ngoảnh mặt đi. Ông lão đã chạm vào ước vọng thầm kín nhất của Goisum. Ông Tsanka còn vẽ nên bao viễn cảnh tương lai, cho đến khi đột nhiên từ đâu đó, trong vùng bình nguyên sau rặng núi, phát ra một tiếng nổ đơn lẻ. Cả hai giật mình, quay lại với hiện thực u ám, nét mặt lại trở nên căng thẳng, lo âu và buồn bã.
— Cháu hãy nghe đây, Goisum, - ông lão Tsanka lại phá vỡ sự im lặng nặng nề. Chúng ta là những người duy nhất còn lại trong làng. Giờ đây, mọi trách nhiệm đặt lên vai chúng ta. Nào, hãy đi một vòng qua các nhà, nhất là những nhà bị bom đạn, xem có ai bị mắc kẹt dưới đống đổ nát hay không. Đó là điều quan trọng nhất. Trên đường đi, ta sẽ xem lũ chó mèo và gia súc, gia cầm thế nào, những con còn sống phải thả ra, mở cổng cho chúng đi uống ước. Cũng đừng quên mở cửa chuồng gà. Công việc không khó nhưng rất cần. Mọi người trong lúc sợ hãi chỉ lo cứu lấy mạng sống của mình, còn sự sống của con vật có khi lại quên mất... Cháu đi lên khu trên, ta đi xuống phía dưới. Kiểm tra cho kĩ đấy!
Hai người tạm chia tay... Mùa xuân đến sớm trong vùng núi Bắc Kavkaz, thời tiết thất thường, sương mù ẩm ướt. Trong các dãy núi lởm chởm, mùa đông băng giá qua mau và trôi về các bình nguyên phương Bắc. Dưới sự che chở của màn đêm ngắn ngủi, chút sức mạnh cuối cùng còn lại của mùa đông chỉ tạo được một lớp băng giòn trên mặt đất và các vũng nước.
Lúc đầu, ông lão Tsanka còn dễ dàng đi trên tuyết cứng, nhưng rồi lớp băng mỏng tan ra và đôi chân bắt đầu dính vào lớp bùn đen sền sệt. “Chẳng thà là mùa đông băng tuyết, hay là mùa hè xanh tươi, còn hơn là cái đám bùn bẩn thỉu này”, - ông lão Tsanka ngẫm nghĩ, rồi đột nhiên một ý nghĩ khác lại thoáng qua: “Nếu không có những thay đổi cùng với sự bẩn thỉu và ẩm ướt thì không thể chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Có thể thấy rõ điều đó, kể cả trong thiên nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Có nghĩa là phải chờ thời kỳ này trôi qua, phải vượt qua nó, và những người sống sót, vượt qua được những khó khăn tạm thời này, nhất định sẽ được hưởng niềm vui của tự do, hạnh phúc và bình yên”. Nhưng rồi, một ý nghĩ u buồn lại ập đến: “Mình đã sống hết thời của mình, chỉ mong bọn trẻ được sống tốt hơn, và quan trọng nhất là tự do...”.
Bất chấp tuổi tác đáng nể của mình, ông lão Tsanka còn đi lại vững vàng, cây gậy ông mang theo có ý nghĩa tượng trưng cho tuổi già hơn là sự cần thiết. Đột nhiên ông nghe tiếng Goisum.
— Ông Tsanka, ông Tsanka. Ông ở đâu? - Goisum hét lên bằng một giọng trầm khàn.
Ông lão đang cởi dây cho một con bò sữa của nhà ai đó bỏ lại trong kho chứa.
— Có chuyện gì thế? - Ông Tsanka chạy ra ngoài, lo lắng hỏi.
Goisum xuất hiện trước mặt ông, thở hổn hển vì chạy, khuôn mặt tái mét, méo xệch.
— Ông Tsanka, - Goisum bật ra, - ở đằng kia, trong ngôi nhà sập, bà Dakoza, chết rồi.
— Dakoza nào? - Ông Tsanka hét to.
— Bà quả phụ nhà Sugaip. Mấy năm nay bà ấy sống một mình, con cái ra đi từ lâu, bỏ bà già lại.
Vài phút sau họ đến căn nhà đổ của ông Sugaip. Có thể thấy là bà già đã cố thoát ra, nhưng cái chết đã đuổi kịp bà nơi ngưỡng cửa. Goisum sợ hãi quay lưng lại, không dám chạm vào xác chết.
— Thôi đừng uốn éo nữa, - ông Tsanka la lên, - phải đưa bà ấy ra khỏi nhà, rửa ráy rồi chôn cất để tránh thú dữ.
— Ai sẽ lau rửa cho bà ấy? - Goisum ngạc nhiên.
— Ta và cháu, - ông Tsanka trả lời dứt khoát, rồi thêm: - Vì người chết trong chiến tranh không phải tắm rửa vì cái chết của họ rất thiêng liêng, nên chúng ta chỉ cần lau chùi cho sạch sẽ gọn gàng.
Goisum thừa biết, anh không thể né tránh, đành nheo nheo mắt kinh hãi nâng cái xác của bà già khô đét lên rồi vội vàng đưa vào nhà bên cạnh. Ông Tsanka bước theo sau giúp một tay.
— Được rồi, Goisum, - ông Tsanka phấn khởi nói, - chính Thượng đế đã gửi cháu đến giúp ta đấy.
Sau câu nói đó, một kẻ lười biếng từ lúc sinh ra như Goisum liền nhăn mặt lại vẻ không hài lòng, thậm chí quay mặt đi.
— Này Goisum, cháu xứng đáng là một bậc trượng phu đấy, - ông Tsanka vẫn tiếp tục bằng một giọng như cũ - Công sức của cháu không vô ích đâu. Ta sẽ cưới con bé Musilpat xinh đẹp cho cháu, rồi chúng mày sẽ sinh cả đàn con, lúc ấy sẽ phải nhớ đến ta.
Goisum nở một nụ cười hồn nhiên, sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh của ông lão.
— Bây giờ, - ông lão lại tiếp tục ra lệnh, - cháu hãy chạy ra nguồn nước xách một thùng nước về đây. Còn ta, sẽ về nhà lấy vải màn, vải xô trắng, dầu thơm để làm lễ. Ta đã dự phòng cho mình, giờ sẽ chia sẻ với bà ấy.
Hai mươi phút sau, khi ông lão Tsanka đang quỳ xuống, mò mẫm các ngăn bí mật trong chiếc rương bằng gỗ cũ kĩ và to tướng của mình thì Goisum chạy vào, đầu trần, trán hói, áo bông phanh ra, khuôn mặt méo mó đầm đìa mồ hôi, đôi mắt mở to, hoảng sợ.
— Ông Tsanka, ông Tsanka! - Goisum hét lên. - Chết rồi! Chết rồi! Trận bom hôm qua, một quả rơi trúng nguồn nước, ở đấy chỉ có một cái hố to tướng, mọi thứ đảo lộn hết, không còn nước nữa, cứ như là chưa bao giờ có vậy, xung quanh khô khốc, chẳng khác gì ném trúng tim, đúng là đồ man rợ.
— Cháu nói gì? - Ông lão quay đầu lại, bực mình hỏi. - Cháu nói cái gì thế? Chẳng lẽ nguồn nước của chúng ta lại khô sao? Im đi! - Ông lão hét lên, rồi bật dậy. - Không thể như thế được!
— Đúng thế đấy, ông Tsanka ạ! Nào, chúng ta cùng ra xem! Không lẽ cháu bị mất trí hay bị mù rồi sao!? - Goisum cũng hét lên, đáp lại.
— Mày đã bị điên từ lâu rồi, mày là thằng ngốc, và những câu đùa cợt của mày cũng ngu ngốc nốt. - Ông lão giận dữ hét to, những từ cuối như bị đứt ra, làm ông ho sặc sụa. Không nói thêm lời nào nữa, ông vội vàng lao ra, đẩy Goisum sang một bên.
Hai ông cháu chạy về hướng nguồn nước. Chỉ cần vài bước chân, Goisum đã đuổi kịp ông Tsanka. Lúc đầu ông lão còn chạy, nhưng sau chỉ cố bước nhanh, càng lúc càng thở hổn hển. Cuối cùng ông dừng lại, lấy cặp kính dày ra lau, nhìn mãi lên trời, rồi từ từ cúi xuống. Dòng nước ngọt lành trong vắt, bao đời nay phun ra rất mạnh từ dưới tảng đá lăn khổng lồ, giờ không còn nữa. Tại chỗ đó là một cái hố to tướng, toang hoác, đen nhẻm, khét lẹt.
Ông lão Tsanka thở khò khè đi theo con đường mòn trơn truội đến gần nguồn nước, về phía dòng chảy đã cạn khô, đau đớn đổ khuỵu xuống. Chỉ có một giọt nước mắt to tướng ứa ra nơi khóe mắt, ông lão run lẩy bẩy, rên rỉ thảm thiết:
— Lũ đê tiện! - Vừa hớp hớp không khí, ông lão vừa lẩm nhẩm. - Suốt đời, ta đã bị nhạo báng, vậy mà giờ đây, trước khi chết, tâm hồn ta lại bị giày xéo, xương sống bị bẻ gãy... Ôi, Đấng tối cao ơi! Con có cầu mong gì nữa đâu, con không cần gì cả, con chỉ cầu xin hãy trả lại nguồn nước, trả lại cuộc sống cho vùng núi này của chúng con, hãy cho con một lần nữa được uống thỏa thuê dòng nước quê hương này, cho con một lần nữa, được nghe, được nhìn thấy dòng chảy sống động của nó. Xin ngài đừng để vùng núi này của chúng con bị chết khô, dân tộc của chúng con bị biến mất. Bao nhiêu hạnh phúc và bất hạnh con đã chứng kiến ở đây, bên cạnh nguồn nước này... Xin đấng thần linh hãy cứu giúp! Hãy cứu nguồn nước! Con sẽ cúng bất cứ thứ gì ngài muốn, chỉ xin trả lại cuộc sống cho vùng đất này. Con van xin ngài!
Tiếng nức nở của ông lão Tsanka mỗi lúc một nhỏ dần rồi cuối cùng tắt lịm. Ông lão tuyệt vọng nhắm mắt lại, và trong trí nhớ của ông chợt hiện lên rất rõ những hồi ức của một thời trai trẻ... Mà cũng có cái để nhớ lắm chứ... Và thật lạ, toàn bộ tuổi thanh xuân của ông đều gắn liền với chỗ này, với nguồn nước này... Thời gian trôi nhanh quá!
Cả cuộc đời của mình, theo lời ông Arachaev Tsanka, cũng như lịch sử hai thế kỷ gần đây của vùng đất Chechnya, chỉ có bảy năm, từ 1918 đến 1924 là hòa bình, và người dân được sống trong hạnh phúc, yên ổn. Đó là thời của cảnh điền viên! Có thể vì thời gian đó ông Tsanka còn nhỏ, mà tuổi thơ bao giờ cũng vô lo và nông nổi. Tuy nhiên cuộc đời ông cũng gắn với sự kiện nước Nga bị phân hóa vì những mâu thuẫn nội tại nên đã hoàn toàn đánh mất quyền kiểm tra và giám sát những người miền núi.
Thành trì cuối cùng của đế chế Bắc Kavkaz là pháo đài Vedeno trên núi cao, bị bỏ hoang từ năm 1917. Ngài thống đốc của địa hạt, không nói một lời với đội phòng vệ, trong đêm đã bỏ chạy đến Vladikavkaz cùng với gia đình, dưới sự hộ tống của những người Chechnya thân tín. Hai ngày sau, những người miền núi địa phương đã bao vây pháo đài và biến nó thành một đống gạch vụn. Một vài sĩ quan định chống lại liền bị bắn chết, còn hầu hết được dẫn giải an toàn đến huyện lỵ Shali trên bình nguyên - trung tâm của Chechnya.
Bảy năm liền, cộng đồng người dân tộc Vainakh được sống tự do, theo những luật lệ Adat cổ xưa của mình. Chính trong thời kỳ này, mối quan hệ giữa những người miền núi với những người Cozak Terek và Cozak Greben rất hòa thuận. Không có thế giới quan về những vùng đất khác, người dân sống hồn nhiên, giản dị và chủ yếu làm nông.
Nhưng ngọn gió biến động đã thổi tới vùng núi. Bắt đầu công cuộc chinh phục mới đối với vùng đất Kavkaz. Lần này mọi sự được tính toán kĩ lưỡng hơn, tinh vi hơn và cũng thâm hiểm hơn. Những người Bolsevich đi bằng “con đường khác”. Những câu khẩu hiệu “Hòa bình”, “Ruộng đất” tung bay trên bầu trời. Hòa bình thì ai cũng muốn, còn ruộng đất thì chỉ những người chưa bao giờ có mới muốn.
Người dân miền núi, qua di truyền, có mối quan hệ cực kỳ nhạy cảm với ruộng đất. Sống trong điều kiện núi rừng khắc nghiệt, người Chechnya phải thường xuyên tiến hành những cuộc chiến tranh dai dẳng để bảo vệ mảnh đất của mình, tưới máu lên mảnh đất ấy với cả nghĩa đen và nghĩa bóng vì họ không có mảnh đất nào khác, và cũng sẽ không có ở đâu khác, cố giữ gìn cẩn thận phần đất được chia của mình. Và họ cũng hiểu, không bao giờ được nhòm ngó mảnh đất của người khác. Đó là luật lệ.
Tuy nhiên, những người Bolsevich cũng hiểu rằng, đất đai không thể chia theo kiểu bình quân: ai đó, tận trong sâu kín của tâm hồn cũng muốn chiếm miếng đất của nhà hàng xóm, mà theo quan điểm của họ, đó là sự công bằng. Đùa giỡn và lợi dụng những ý đồ hèn hạ đó, những người Bolsevich đã vãi ra trong xã hội một đống lộn xộn, đánh lạc hướng người dân, gây nên cảnh rối loạn.
Những người chưa từng có một mảnh đất, mà phần lớn trong số họ là những kẻ vô công rồi nghề và không muốn làm việc. Trong mỗi bản làng đều có những người bản địa và ngụ cư, không có gia phả, bị xua đuổi khỏi mảnh đất quê hương vì những hành động thù hận đẫm máu, trộm cướp, sa đọa hay những tội ác khác.
Người Chechnya gọi những kẻ như vậy là “con hoang”, nhưng với nghĩa rộng hơn thì những người đó sẽ không được Thượng đế ban phước lành, và mọi hành vi của họ trong cuộc sống đều bất nhân.
Nhìn chung, những người như vậy không nhiều, nhưng họ đều giấu mình đâu đó trong mỗi cộng đồng, mỗi buôn làng. Chính họ đã tạo nên một tôn giáo mới không có Thượng đế, phát triển rộng khắp trên toàn Xô viết. Nơi nào có nhiều những “con hoang” như vậy thì xuất hiện chính quyền Xô viết.
Các nhà truyền giáo Xô viết nhanh chóng tìm được người của mình, những kẻ khốn cùng vô tích sự, mơ ước về sự thay đổi, phân chia lại không chỉ ruộng đất, tài sản, tiền bạc, mà cả số phận. Không khó khăn lắm để tìm được những người như thế trong xã hội, dựa vào họ để tổ chức theo một hướng cần thiết, các Xô viết âm thầm tiến từ phía bắc xuống phía nam, lên những dãy núi cao Chechnya cả tin.
Những người vốn chẳng là ai, thậm chí chẳng có cái gì, tự biết như thế, rồi tất cả đều biết, bỗng trở thành chính quyền, thành chủ nhân, thành người có quyền nắm giữ số phận của người khác.
Dòng họ nhà Arachaev Tsanka thuộc loại lớn nhất ở ngôi làng nhỏ Duts-Khote, và chi phái danh giá nhất chính là ba anh em ruột: người anh cả Baki là linh mục Hồi giáo, một trong số những người Chechnya đầu tiên thực hiện cuộc hành hương Haji đến thánh địa Hồi giáo Mecca; người anh giữa là Aldum, cha của ông Tsanka và người em út là Kosum.
Vào những năm hai mươi, ông Aldum Arachaev được bầu làm Iurda, có nghĩa là “trưởng thôn”. Ông một mực từ chối và phản đối quyết liệt, nhưng cuối cùng, dưới áp lực của mọi người, ông đành phải chấp nhận.
Khác với người anh cả, ông Aldum là một người trực tính, ít học, nhưng được cái khỏe mạnh và cần cù. Ông không ý thức nổi vai trò của mình với tư cách là trưởng thôn, né tránh các cuộc hội họp và làm quần quật quanh năm. Thực tế, một mình ông nuôi sống cả ba gia đình, còn vai trò trưởng thôn lại do ông anh cả Baki bí mật đảm nhiệm. Ông Baki, xét về hình dạng bên ngoài lẫn tính cách bên trong chẳng giống chút nào với Aldum. Linh mục Baki-Haji là một người vóc dáng nhỏ bé, ốm yếu, nhợt nhạt, sống bằng cái đầu của mình nhưng với sự giúp đỡ của những bàn tay người khác.
Tuy nhiên, ngay trong năm đầu tiên chấp chính, ông Aldum phải đứng trước một vấn đề khó khăn là phân chia diện tích đồng cỏ cho các gia đình. Ông tân trưởng thôn không thèm nghe ai, thậm chí cả anh mình, suốt hai ngày xách cây thước đi khắp các triền núi để cố chia cho thật đều.
Nhìn tổng thể thì trong làng chẳng mấy ai nhớ có một ông trưởng thôn, mọi người vẫn sống theo những luật tục đã hình thành từ bao đời nay, cho đến khi bỗng nhiên từ vùng bình nguyên Chechnya lan đến tin đồn về những công việc kỳ lạ nào đó.
Linh mục Baki-Haji Arachaev thường đi lại khắp vùng Chechnya, ông không chỉ nghe mà còn tận mắt chứng kiến tất cả những gì đang xảy ra ở thành phố Grozny và cả trên bình nguyên nữa. Sau mỗi lần trở về, ông cho gọi các em và những người họ hàng gần gũi lại, kể cho họ nghe về những chuyện khủng khiếp đang diễn ra và về chính quyền mới.
Chỉ có một mình Aldum là đón nhận những tin đó với một nụ cười vô tư rồi nói:
— Tốt lắm, có thể người ta sẽ giúp em thoát khỏi cái chức vụ của mình.
— Chú ngốc lắm. - Baki-Haji bực tức quát. - Ngày hôm nay đám nhãi ranh ấy giành chính quyền, ngày mai sẽ lấy đất, rồi chú sẽ là người đầu tiên đi cày thuê cho họ.
— Thôi muộn rồi, - Aldum vừa ngáp vừa đáp, - sáng sớm mai em phải đi bẻ ngô... Mưa xuống là hỏng hết... Em nghĩ, tán dóc ít thôi, chịu khó nghĩ về mùa đông ấy.
Mọi người đều đồng ý với kết luận đó rồi ai về nhà nấy, nhưng những lời đồn đại về sự thay đổi mỗi ngày một nhiều hơn, trở thành niềm mong ước ngọt ngào đến mức nhiều người tin và chờ đợi. Cuộc sống nơi đây vốn đã vất vả và đơn điệu quá mức! Người ta hứa hẹn thiên đường, hạnh phúc và công bằng!
Đầu thu, trời vừa rạng, khi dân làng Duts-Khote mới lùa gia súc ra đồng, có một người cưỡi con ngựa khỏe, cầm lá cờ đỏ xuất hiện trong làng, đó là Abaev Nutsulkhan.
— Tập trung ở bãi chợ! Tất cả ra chợ! - Chàng thanh niên Nutsulkhan hét lên, chậm rãi cho con ngựa mệt lử chạy lòng vòng.
Dân chúng tò mò đổ ra đường.
— Này Nutsulkhan, cậu kiếm đâu ra con ngựa ấy thế?
— Đàn bà có ra không? - Nhiều người hét theo.
— Cậu lấy trộm con ngựa của ai vậy?
— Có phát kẹo không? - Đám trẻ hỏi.
Hầu như cả làng tập trung trên bãi chợ. Những người mới đến khoảng hai chục, cả người Nga và người Chechnya, tất cả đều trẻ, vũ khí đầy đủ, quần áo mới cứng, cưỡi toàn ngựa nòi. Họ đứng giữa sân chợ, dáng vẻ tự tin, thoáng chút kiêu ngạo.
Một người trong số họ giơ tay lên để thu hút sự chú ý, định nói gì đó, nhưng vừa lúc đó ông Aldum Arachaev xuất hiện. Ông đưa hai cánh tay to khỏe gạt đám đông ra, đi vào giữa.
— Dừng lại! Nghe tôi nói đây! - Ông hét lên bằng một giọng rất to của mình. - Ở đây tôi là trưởng thôn, chỉ có tôi, hoặc là với sự cho phép của tôi mới được tập hợp dân làng ra chợ. Chúng ta rất quý trọng khách, nhưng khách cần phải biết luật lệ của chúng ta.
— Chúng tôi không phải là khách, chúng tôi là chủ nhân của vùng đất này. - Một trong số những người Chechnya vừa đến, ngắt lời.
— Anh là chủ nhân? - Ông Aldum đỏ mặt hỏi lại. - Trong làng Duts-Khote của chúng tôi? Sao anh dám, đồ láo xược?
Aldum tiến lại gần kẻ xúc phạm, nắm dây cương ngựa và định túm lấy anh ta, nhưng anh ta, chẳng nghĩ ngợi lâu, không thèm rút chân ra khỏi bàn đạp, đạp cả chiếc ủng đóng cá sắt vào hàm Aldum một cú rất mạnh.
Cuộc ẩu đả nổ ra. Những người mới đến thoát chết nhờ ngồi trên lưng ngựa và nhờ linh mục Baki-Haji cùng với những người cao niên khác năn nỉ dân làng thả các vị khách ra. Dân làng thả hết, song có ba người phải chạy bộ vì ngựa của họ đã bị ai đó thừa cơ dắt đi mất, còn kẻ xúc phạm Aldum phải chở đến bệnh viện huyện Shali bằng xe ngựa kéo.
Hai ngày trôi qua, sáng sớm ngày thứ ba cả làng Duts-Khote bị quân đội bao vây đó là lực lượng quân đội thường trực. Các kỵ binh, theo từng nhóm nhỏ vây chặt ngôi làng, lần đầu tiên dân làng Duts-Khote được nghe và nhìn thấy công an. Đó là những người lạnh lùng, lặng lẽ và dữ tợn, mặc quân phục xanh, có cả người Nga và người Chechnya.
Năm người bị bắt, trong đó có Aldum Arachaev. Ngay trong buổi chiều, hai người bị bắt quay về làng và cho biết, Aldum và những người còn lại bị đưa lên xe ô tô rời Shali đến thành phố Grozny.
Ngày hôm sau, linh mục Baki-Haji vào thành phố tìm em trai. Một tuần sau ông mới quay về, hốc hác, phờ phạc, nét mặt ủ rũ, vừa mệt vừa đói. Mọi người xúm lại đầy sân, im lặng chờ đợi.
Ông Baki-Haji thấp bé, mệt mỏi bước ra hiên nhà và nói nhỏ:
— Ôi, bà con! Thật là bất hạnh! Người Nga đã đến đây và giành lấy chính quyền ở vùng bình nguyên. Ở đó mọi chuyện thật khủng khiếp! Chẳng bao lâu nữa họ sẽ đến đây. Giá họ là những người Nga cao quý, no đủ và sạch sẽ thì Thượng đế sẽ phù hộ cho họ, đằng này, toàn một lũ bẩn thỉu, đói khát và rách rưới. Khuôn mặt họ chẳng giống người, họ không được thần thánh phù hộ. Kẻ thù số một của họ là những người tin vào Thượng đế... Mọi người hãy nói ít thôi... Cất giấu mọi thứ cho kĩ... Trong thành phố đang đói. Họ sẽ đến đây, sẽ lấy hết gia súc và ruộng đất... Những con người đói khát đó đáng sợ lắm, không còn là người nữa mà là một lũ súc sinh.
Cuối tháng Mười, những bông tuyết đầu mùa đáp xuống vùng núi, cùng với đó là tin đồn về việc ông Aldum Arachaev bị bắn như một tên phản cách mạng gian ác. Vậy là từ đó, Tsanka cùng với em trai Basil và em gái Kelika bị mồ côi cha.
Nhận được tin đó, ông Baki-Haji cùng với hai người bà con lên đường vào thành phố với hy vọng nhận được xác em trai. Nhưng vừa vào đến nơi, ông cũng bị bắt giam hơn bốn tháng. Khi ông trở về thì chính quyền Xô viết đã đứng vững trong làng Duts-Khote. Ủy ban cách mạng được thành lập, đứng đầu là một thanh niên đến từ một ngôi làng rất xa trên bình nguyên. Tên anh ta là Solsaev Badrudi.
Trong làng Duts-Khote chưa bao giờ có nhà công vụ, bởi vậy Solsaev Badrudi được bố trí vào ở trong nhà bà lão độc thân Zorgi. Chẳng bao lâu sau, anh ta đưa về làng bà mẹ già của mình với vài thứ đồ dùng sinh hoạt vặt vãnh. Solsaev yêu cầu tất cả mọi người không được gọi mình trống không Badrudi, mà phải kèm theo từ “đồng chí”.
Điều ngạc nhiên là nhiều người trong làng lại rất hào hứng thực hiện những lời kêu gọi của Xô viết: nhiều người nhận lời làm công an, họ bảo vì được công khai mang vũ khí, số khác, vào buổi sáng hay buổi tối, bí mật đến thăm chủ tịch Ủy ban cách mạng, người thì mang theo gà mái, người thì gà tây, cừu đực. Có người lại đứng ra làm mối cho vị lãnh đạo trẻ. Điều làm Solsaev thất vọng nhất là không ai muốn tham gia vào Ủy ban bần cố nông. Mọi sự thuyết phục hay các cuộc mít tinh đều vô ích. Nhưng cấp trên yêu cầu chủ tịch phải lập được danh sách, đưa tất cả các hộ nghèo vào đấy để liên kết họ lại.
Sau khi ra tù, ông Baki-Haji trở về nhà, dáng vẻ bơ phờ, ốm yếu, trầm lặng. Ngay trong chiều, bà con họ hàng, láng giềng, người làng và cả những người làng bên tụ tập tại nhà ông. Ngồi trong góc trên tấm thảm, hai chân xếp bằng theo kiểu Tacta, ông linh mục nhìn mọi người chân thành, chăm chú. Cặp mắt to màu đen, sâu hoắm của ông với những quầng thâm xung quanh, ngạc nhiên lướt trên những khuôn mặt thân quen. Cuối cùng, ông linh mục khẽ nói bằng một giọng khàn khàn:
— Điều đáng sợ nhất trên trái đất này là khi người ta liên kết nhau lại mà không còn gì để mất, kể cả lương tâm và danh dự.
Sáng hôm sau, một người công an - chính là ông hàng xóm Bekhan Timishev đến gặp ông Baki-Haji. Như thông lệ, ông hàng xóm hỏi thăm sức khỏe, chuyện làm ăn, chia buồn với gia đình về những mất mát, sau đó, ông ta cúi xuống nhìn vào đôi ủng công vụ mới được phát của mình, cố nén xúc động, thông báo cho gia chủ biết, đồng chí Solsaev yêu cầu ông Baki-Haji phải có mặt tại Ủy ban cách mạng. Ông em trai Kosum tức giận lao vào người công an, nhưng ông Baki-Haji liền giơ tay ngăn em lại, cám ơn ông láng giềng về lời chia buồn rồi nói, hôm nay ông không thể đến gặp chủ tịch ủy ban được.
Ông Timishev liền đi ngay, còn ông anh cả nhà Arachaev nói với ông em út:
— Chú muốn cả dòng họ nhà ta sẽ bị giết hết sao? Hãy giữ mồm giữ miệng, kể cả những cơn bực tức của mình... Không phải như trước đâu... Họ sẽ còn làm tình làm tội chúng ta nữa. Họ có thế lực, chính quyền đứng sau lưng họ.
Cuộc đón tiếp và đưa tiễn của vị chủ tịch Ủy ban cách mạng đối với ông Baki-Haji diễn ra một cách lịch thiệp và nhã nhặn theo đúng thông lệ đối với người cao tuổi, tuy nhiên nội dung trò chuyện lại lạnh lùng, cứng rắn và uy quyền.
Sau cuộc nói chuyện ngắn ngủi, gợi cho ông Baki-Haji nhớ tới cuộc thẩm vấn trong nhà tù, Solsaev hỏi ông Baki-Haji có biết đọc và biết viết tiếng Nga không.
— Không, tôi chỉ biết tiếng Arập thôi, - ông Baki-Haji buồn rầu nhìn ông lãnh đạo trẻ, khẽ đáp.
— Tốt nhất là ông nên học tiếng Nga, - Solsaev vừa nói vừa bập điếu thuốc trước mặt ông già và vội viết gì đó vào tờ giấy nhăn nhúm và ố vàng vì ẩm ướt.
Khi đó, ông chủ tịch không biết ông Baki-Haji đang thầm nghĩ: “Chú mày còn trẻ và có học, tốt hơn là cứ ở nhà mình, chứ đến đây, vào trong núi bày vẽ ra những quy định ấy làm gì... Người ta bảo, mẹ nó là một phụ nữ chất phác, nghèo khổ và cũng già rồi... Biết làm sao được, một khi đã sinh ra thằng con thế này... Chúng ta cũng có những nỗi khổ của mình...”
Nửa đêm, khi cả làng đã chìm trong giấc ngủ, những người đàn ông bà con thân tín tụ tập trong nhà ông Baki-Haji.
— Gọi cả thằng Tsanka nữa, - ông linh mục nhìn mọi người nói.
— Nó đang ngủ, còn nhỏ mà,. - Tiếng ai đó đáp lại.
— Không, nó không còn nhỏ nữa. Cha nó đã bị giết, mà nó đã hai mươi rồi... máu phải trả bằng máu.
Lát sau, Tsanka đang ngái ngủ cũng có mặt. Đập ngay vào mắt cậu là những khuôn mặt lặng lẽ, đăm chiêu của bà con họ hàng. Mọi người chờ ông trưởng họ lên tiếng.
— Khi chú em Aldum của tôi bị bắt, cầu xin Thượng đế phù hộ cho chú ấy và cho tất cả chúng ta, có đúng là lúc cái thằng súc sinh ngoại lai vào sân nhà ta cùng với những người Nga?
— Đúng thế, chính nó. - Mọi người đồng thanh đáp lại.
— Còn hai người Chechnya nữa, - Kosum nói khẽ, - nhưng những người ấy, ta không biết, chúng ta sẽ hỏi và sẽ tìm ra chúng.
— Nếu như kẻ mới đến ấy bước vào sân nhà ta, rồi sau đó, người thân của chúng ta bị bắt và bị bắn chết thì anh ta phải chịu trách nhiệm về món nợ máu này.
Một sự im lặng bao trùm. Lời kết án Solsaev Badrudi đã được tuyên.
— Ai sẽ là người đi trả món nợ máu đối với dòng họ ấy? - Ông Basnak, một người khỏe nhất và từ nhỏ hay đánh nhau nhất của nhà Arachaev phá vỡ sự im lặng.
— Im đi! - Ông Baki-Haji rít lên, - dòng họ của anh ta là tất cả những người Bolsevich. Không ai được biết bất cứ điều gì. Rõ chưa? Ai cần biết, người đó sẽ biết.
Ngày thứ hai nào Solsaev cũng phải xuống huyện lỵ Shali để họp. Khi đi bao giờ cũng có hai công an của làng Duts-Khote là Timishev và Abkaev hộ tống. Vào một đêm mùa xuân, chủ nhật, có mưa, vị chủ tịch nghe tiếng động lạ ngoài sân, nhưng không dám bước ra vì sợ. Sáng hôm sau, Solsaev phát hiện con ngựa đã bị mất. Anh ta lao đến nhà các công an viên mới biết, Timishev đi dự đám tang ở làng bên, còn Abkaev, thì theo lời người nhà, bị ốm nặng, thậm chí không thể ngồi dậy nữa.
Solsaev Badrudi tức run lên, nắm chặt khẩu súng ngắn đã lên đạn trong túi, không nói gì với mẹ và với thư ký, đi bộ đến huyện lỵ Shali.
Con đường từ Duts-Khote đến ngôi làng gần nhất Makhketa băng qua một khu rừng rậm. Đường không xa nhưng vắng. Sau một mùa đông dài, con đường mòn nhỏ, ngoằn ngoèo trở nên ẩm ướt, đầy ổ gà và vũng nước lớn, vòng vèo giữa các vệt bánh xe và bùn lầy, đôi chỗ rừng rậm lấn ra sát đường, lúc bên trái, lúc bên phải, dọc hai bên đường là những bụi phỉ tử hoang dã, kim anh đầy gai và các loại cây khác.
Vào đúng cái chỗ đoạn đường khô ráo, rừng cây lan ra sát đường, từ trong bụi rậm một cánh tay to tướng vươn ra, túm lấy cổ vị chủ tịch, kéo vào trong rừng. Không nghe thấy một tiếng nào của Solsaev, cánh tay với khẩu súng ngắn thậm chí cũng chưa kịp rút ra, chỉ có cái mồm, giống như mồm cá, há to, không một âm thanh... Sau cú đâm thứ hai bằng dao găm, một dòng máu nhỏ, đỏ thắm phun ra.
Solsaev còn thở và còn giãy giụa khi ông Basnak to khỏe chìa con dao đẫm máu cho Tsanka và bảo “Hãy kết liễu con vật này đi”.
Tsanka, vóc dáng cao, gầy, khuôn mặt tái mét, run bần bật như chiếc lá mùa đông cuối cùng trên cây. Cậu kinh hoàng nhìn vào khuôn mặt biến dạng vì đau đớn của người hấp hối, bối rối vung hai tay lên, loạng choạng lùi lại, bám vào gốc cây, gồi xẹp xuống. Khi cậu định cố đứng dậy, ánh mắt vô tình lướt qua cơ thể đẫm máu, cậu thấy chú Kosum của mình đang chĩa thẳng súng vào ngực người kia bóp cò. Tsanka lại bật ngửa ra sau, ngã xuống đất, đầu đập vào gốc cây lê dại... Tiếng vang của phát đạn khô khốc lan xa vào trong núi và cứ đọng mãi trong đầu chàng trai trẻ Tsanka.
✦✦✦Cũng trong buổi sáng hôm ấy, bối rối vì quá xúc động, ông Baki-Haji thả bộ đi xem xét cơ ngơi của mình, tức là khu nghĩa trang cổ xưa của làng trong cuộc chiến thần thánh. Được an táng ở đây là một vinh dự không chỉ đối với người làng Duts-Khote mà đối với nhiều người khác quanh vùng. Những người Chechnya gốc gác ở đây, dù đã chuyển ra vùng bình nguyên sinh sống từ lâu, nhưng theo di chúc vẫn đưa người thân của mình vào vùng núi xa xôi này để chôn cất bên cạnh tổ tiên trong nghĩa trang quê hương. Kể từ ngày ông Baki-Haji thực hiện chuyến hành hương đến thánh địa Mecca, ông là người quản trang chính của nghĩa trang dòng tộc này. Không có sự đồng ý của ông, không ai có quyền chôn cất trong mảnh đất thiêng liêng của người miền núi này. Đúng ra mà nói, không bao giờ và không có ai bị ông Baki-Haji từ chối cả, và cái thủ tục xin phép ấy chỉ hoàn toàn mang tính hình thức. Tuy nhiên, tất cả mọi phong tục tập quán ở vùng núi luôn được tôn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt...
Ra đến rìa làng, ông Baki-Haji đứng lại, nhìn bốn phía, lắng tai nghe ngóng. Sau khi ra tù, thế giới đối với ông trở nên khác hẳn, tinh khôi, thân thuộc. Chưa bao giờ ông được hít thở một cách thoải mái bầu không khí sạch sẽ, tươi mát như những ngày được tự do.
Mùa xuân đến sớm. Ngay từ chiều hôm trước, từ các vùng thấp, một màn sương mù đặc như sữa, ẩm ướt và lạnh lẽo trườn vào, phủ lên lớp tuyết mùa đông đã bị mềm ra trong các thung lũng. Lớp đất đen màu mỡ trong vùng núi Chechnya như tỉnh dậy sau cơn mơ dài, trương nở ra vì hơi ẩm, tê cóng chờ đợi ánh nắng mặt trời, sẵn sàng sản sinh ra cuộc sống mới, thế giới mới rực rỡ sắc màu.
Hầu như không có một ngọn gió, cũng không nhìn thấy gì qua lớp sương mù dày đặc. Chẳng mấy chốc, những ngôi nhà ở rìa làng cũng bị chìm lấp trong màn sương đục như sữa. Đâu đó trong làng, một con bò cái bị đói rống lên, phía trước vọng lại tiếng nước chảy của nguồn nước mạch, róc rách như tiếng chuông rung.
Ông Baki-Haji chậm rãi lấy chiếc gậy chống gạt bùn đất ở đôi ủng ra, cứ như phía trước sẽ là một con đường sạch sẽ, khô ráo, và khi ông định bước tiếp thì một tiếng nổ đơn độc, khô khốc vang lên. Ông linh mục ngẩng đầu lắng nghe, cặp lông mày nhướn lên, mắt mở to, miệng há ra. Ông cứ đứng im như thế trong một phút. Thế giới như chết lịm đi. Một sự im lặng bao trùm. Ông Baki-Haji nheo nheo mắt, ngậm miệng lại, một cái nhếch mép hay đúng hơn là một nụ cười thoáng hiện lên bên khóe môi. Tất cả chỉ diễn ra trong tích tắc, sau đó khuôn mặt ông lại có ngay dáng vẻ trang nghiêm bình thường, và ông nói ra thành tiếng “Xin Thượng đế hãy tha tội, xin Thượng đế hãy tha tội”. Ông thò tay vào túi lấy ra chuỗi hạt, rồi vừa lần tràng hạt, vừa đọc kinh cầu nguyện, vừa nặng nhọc bước tiếp.
Một lát, ông nghe sau lưng tiếng cọt kẹt của xe kéo bằng gỗ, ông đứng lại, né sang một bên, nhường đường. Đầu tiên, từ trong màn sương hiện ra hai con chó to, lông lá dính bết, một con trẻ hơn, rụt rè tiến lại gần ông, hít hít. Sau đó một con ngựa cái ốm nhom xuất hiện, kéo theo chiếc xe một trục cổ lỗ sĩ với hai bánh xe bằng gỗ to tướng nẹp sắt mỏng. Ngồi trên xe điều khiển con ngựa bằng cành cây mềm là một người đàn ông cùng làng tên là Haji Haron. Sau lưng Haron, chẳng mấy ai gọi anh ta bằng tên thật mà thường gọi là “chồng bà Alpatu”, bởi lẽ ai cũng biết bà Alpatu là một người đàn bà khỏe mạnh, thích quyền hành và điều hành toàn bộ công việc làm ăn của gia đình. Còn Haron là một kẻ ba hoa, nhu nhược, và theo quan niệm của dân miền núi thì còn lâu anh ta mới là đấng quân tử.
— Assalam aleikum, ông Baki-Haji! - Haron ngoác to miệng cười, vui vẻ chào.
— Vo-aleikum salam. - Ông Baki-Haji đáp lại.
— Ông đi đâu sớm thế? Không ngồi yên ở nhà được à? Chắc là đến chỗ cối xay nước của mình phải không? - Haron kéo dây cương dừng con ngựa lại, liến thoắng. - Ông ngồi lên đây, tôi đưa đi.
— Ồ, không, cối xay không sao, tôi ra nghĩa trang, - ông Baki-Haji lạnh nhạt nói.
— Thôi được rồi, ông cứ ngồi lên đây, tôi sẽ chở ông tới chỗ cối xay, từ đó đến nghĩa trang chỉ còn một đoạn.
— Không, không, cám ơn ông, Haron. Tôi muốn đi bộ.
— Thôi, ngồi lên đi, - Haron vẫn không chịu, lôi từ dưới ghế ra chiếc áo lông ngắn đã sờn cũ, định đưa cho linh mục.
— Ông cứ đi đi, đi đi. Tôi không vội, tôi sẽ đến được.
— Không, không, tôi sẽ không đi. Ông cứ leo lên, ngồi vào đây, thế là xong.
Biết có nói nữa cũng vô ích, ông Baki-Haji vụng về leo lên xe. Khi ông chưa kịp ngồi xuống thì chiếc xe đã lăn bánh. Bị mất thăng bằng, ông linh mục bật ngửa ra sau, hai tay bíu chặt vào người Haron, thế là cả hai cùng bám vào nhau trượt ra sau, may mà không rơi xuống đất.
— Đúng là đồ nghẽo già đáng nguyền rủa! - Haron hét lên. - Khi cần đi thì không đi, khi muốn dừng thì phi như nước đại... Đúng là đồ súc vật ngu ngốc...
Haron còn tức giận quất mấy roi nữa vào chiếc mông lép xẹp của con ngựa cái, cái roi nhỏ bằng nhánh cây bị gẫy văng đi mất, trong tay ông ta chỉ còn lại mẩu que cụt. Tuy nhiên, tất cả mọi sự tác động ấy cũng không hề ảnh hưởng tới vận tốc chuyển động của chiếc xe. Khi đó, Haron liền lấy mẩu que chọc chọc vào dưới đuôi ngựa, miệng không ngớt chửi rủa. Con ngựa cái ép đuôi lại, lắc lắc mông, cố chịu đựng một lúc, nhưng rồi, không chịu nổi nữa, nó vừa đi vừa nhảy chồm chồm, đá hai chân sau lên. Dĩ nhiên con ngựa không thể đá hậu tới chỗ người xà ích, nhưng một cục đất đen văng ngay vào mắt Haron.
— Ôi, đồ súc sinh! - Haron phát điên lên, bật dậy, định đứng thẳng trên xe, đạp cho con ngựa một cú, nhưng ông ta mới chỉ vừa vung tay ra thì con ngựa hoảng sợ tế lên, Haron lại văng ra sau.
Ông Baki-Haji mỉm cười theo dõi toàn bộ vở hài kịch và không đánh giá kịp thời mức độ nghiêm trọng của nó. Trong lúc hoảng sợ ông cố bấu vào mép chiếc xe, nhưng đã quá muộn - Haron, với toàn bộ trọng lượng của mình ngã văng ra sau, trúng vào người ông linh mục, cả hai cùng rơi xuống mặt đường