PHẦN THỨ HAI
Ông Arachaev Tsanka quỳ trong lòng nguồn nước đã cạn khô và than khóc rất lâu. Cuối cùng Goisum bước lại gần, khẽ chạm vào vai ông.
— Ông Tsanka, đứng lên, đi thôi. - Goisum nói to.
Ông già vẫn không nhúc nhích.
— Đứng lên đi, ông Tsanka, - Goisum lại nhắc. - Chúng ta còn phải chôn cất bà Dakoza nữa.
— À, à, - ông Tsanka như bừng tỉnh. - Phải, đúng rồi.
Ông Tsanka muốn đứng lên nhưng hai chân tê cứng không chịu nghe theo. Ông cố đứng dậy một lần nữa nhưng bất lực ngã vật ra. Khi đó Goisum dùng hai cánh tay khỏe mạnh xốc ông già ngồi dậy rồi giúp ông leo lên bờ dốc không cao lắm.
Họ đi theo triền núi thoai thoải quay về ngôi làng ruột thịt vào một ngày xuân sớm. Xung quanh tĩnh lặng như trong mồ. Không nghe thấy tiếng chim hót, thậm chí ngay cả lũ quạ và ác là luôn miệng kêu la cũng khiếp sợ bay đi, tránh xa những tiếng đại bác chết chóc và những con người đang phát rồ lên. Ngọn gió ẩm ướt từ hướng tây thổi thốc vào lưng hai người. Sương mù tan dần, bò theo khe núi xuống các vực sâu. Trên làng Duts-Khote, bầu trời đang chậm chạp hửng dần thành màu sữa xanh nhạt, thăm thẳm. Trên đỉnh ngọn núi Ertan-Kort, giữa những đám mây dày màu lam xám đã hiện lên vầng mặt trời mùa xuân màu vàng nhạt.
Dưới những cơn gió giật dữ dội, các tán cây tiêu huyền xơ xác lắc qua lắc lại. Sườn núi phía nam trông trơ trụi vì tuyết phủ, những chiếc lá rụng từ năm ngoái màu nâu sẫm nổi lên dưới ánh nắng mặt trời yếu ớt. Đây đó, ở những chỗ tuyết đã tan, những chồi xanh yếu ớt bắt đầu rụt rè nhú lên.
— Giờ chính là mùa đi nhổ củ hành gấu. - Goisum nói.
— Hành gấu cái gì, - ông Tsanka buồn bã thốt lên. - Chẳng lẽ cháu không biết những kẻ độc ác đã ném từ máy bay xuống núi rừng của chúng ta bao nhiêu là mìn hay sao? Thậm chí không còn chỗ để chăn bò nữa. Bao nhiêu người và gia súc đã tan xác ở ven làng. Chỉ có thể đi lại trên những con đường mòn quang đãng, nhưng lúc nào cũng phải nhìn xuống, chỉ cần sẩy chân một cái là bay lên trời.
Họ lại lặng lẽ bước. Con bò cái cô độc rống lên thảm thiết. Một con chó già lông lá bù xù không biết của nhà ai chạy về phía họ, ngoan ngoãn ve vẩy cái đuôi cộc, yếu ớt rên ư ử, chạy lăng xăng quanh hai người thành những vòng tròn kỳ lạ. Phía dưới, những ngôi nhà bỏ hoang, ảm đạm, lộn xộn của làng Duts-Khote đang sẫm lại. Ngôi làng hoang vắng trông thật buồn thảm, u sầu và xa lạ. Một không khí ma quái, thậm chí độc địa trùm lên khắp ngôi làng. Hình dạng côi cút của ngôi làng quê hương gây nên những cảm giác cay đắng.
Đột nhiên Goisum bỗng khựng lại, ra hiệu cho người bạn đường cũng đứng lại, chăm chú lắng nghe, miệng há hốc vì căng thẳng.
— Ông Tsanka, máy bay trực thăng, - Goisum sợ hãi nói, cả hai cùng lắng tai nghe. -
Đúng, máy bay trực thăng. - Anh kêu lên, cặp mắt mở to hoảng sợ đảo liên tục. Chúng đang bay đến. Chạy về làng, nhanh lên! Họ sẽ bắn chúng ta. Phải tìm chỗ nấp.
— Chạy đi, Goisum, chạy nhanh lên! - Ông Tsanka đẩy vào vai Goisum. - Ta nói với cháu đấy, chạy đi! Còn ta, chẳng còn chỗ nào để chạy nữa, mà cũng chẳng để làm gì. Ta đã phải trốn chạy suốt cả cuộc đời rồi. Còn cháu, chạy đi, nhanh lên, ta ra lệnh cho cháu đấy.
Goisum vội vàng chạy về phía làng. Do chạy quá nhanh, anh ta trượt chân ngã hai lần, đất bẩn từ dưới ủng văng lên tung tóe. Cuối cùng, Goisum cũng vào trốn trong làng. Bây giờ ông Tsanka đã nghe rõ những tiếng động báo hiệu điềm dữ. Rất xa, từ phía các khe núi Makhketa, những chấm đen đang hiện ra trong màn sương xám. Vì mắt kém nên ông Tsanka trông chúng như những con nhặng. “Phải, chúng đã đánh hơi được xác chết”, - ông Tsanka lẩm bẩm.
Trực thăng càng bay đến gần, cảm giác lo âu, sợ hãi và bất lực càng lớn dần lên, làm người ta chỉ muốn chạy trốn, hay ít ra thì cũng phải giấu cái đầu hoảng loạn vào chỗ nào đó. “Càng sống lâu bao nhiêu, con người lại càng ham sống bấy nhiêu”. - Ông già thầm nghĩ với nụ cười cay đắng, rồi rẽ khỏi con đường lầy lội đi về phía những bụi mận gai, sơn trà và hồng dại rậm rạp. Nhưng vừa ra khỏi bụi cây trơ trụi ông bỗng dừng lại, thầm nghĩ “Mình thật là hèn! Ngay cả bây giờ, sau bao nhiêu năm cuộc đời, sau bao nỗi bất hạnh đắng cay, kể cả sự biến mất của nguồn nước, vậy mà mình vẫn còn tiếc rẻ cái cuộc đời vô tích sự này, vẫn cố bám víu vào nó, vẫn còn phải lẩn trốn kẻ thù trong các bụi cây, vẫn còn muốn sống, còn mơ ước về một điều gì đó... Thật đáng nhổ toẹt vào mặt con lừa già này, - ông già tự nguyền rủa bản thân. - Thật hạnh phúc nếu như những kẻ ác độc kia bắn ta chết đi. Lẽ ra ta chỉ nên mong ước điều đó thôi. Chẳng lẽ đó là sự kết thúc? Chỉ có điều phải nhanh lên và thật gọn ghẽ... Nào, chúng mày đang ở đâu, bay đến đây đi, lũ khốn kiếp, tất cả hãy bay hết lại đây. Bắn đi, ném bom đi, khai hỏa đi, đào bới đất đá lên đi. Các ngươi đã làm tất cả những gì có thể, còn bây giờ hãy bắn đi và hãy sống trong tự do, hạnh phúc. Bay đến đây đi, đến đây đi”, - ông lão cương quyết vung hai tay lên.
Trong lúc đó, những chiếc máy bay trực thăng đã bay đến làng. Tiếng động cơ khủng khiếp gầm rú như điên, tràn ngập khắp thung lũng Vashandaroi bốn bề là núi cao. Tiếng rú ầm ĩ của máy bay dội lại rền vang, càng gây nên cảm giác khiếp sợ đối với tất cả mọi sinh vật trong vùng. Những cỗ máy bằng thép chậm chạp lượn quanh làng, đôi lúc treo khá lâu tại một điểm. Đột nhiên, một chiếc trực thăng tách khỏi phi đội, lao nhanh về phía ông Tsanka. Khi cái cỗ máy khổng lồ kia tiến đến gần thì tất cả những ý nghĩ anh hùng rơm của ông lão đã bị cái cánh quạt to tướng kia thổi bay đi mất.
Hai đầu gối của ông già run bắn lên một cách phản trắc, rồi từ từ khụy xuống, bất lực, đôi tay dài buông thõng, hướng về phía mặt đất cứu sinh, vai sệ xuống, cái lưng dài cong lại, cái cổ khẳng khiu chằng chịt những nếp nhăn sâu hoắm cùng với cái đầu hoang tưởng gục xuống. Một nỗi khiếp sợ và hoảng loạn không kìm lại được choán ngợp tâm trí ông. Giờ đây, toàn bộ tấm thân còm cõi của ông run bắn lên. Hàm răng giả trong miệng đập vào nhau lập cập. Ông loạng quạng lùi lại, cảm thấy ngạt thở như thiếu không khí. Tiếng gầm rú ầm ầm như chui vào từng tế bào cơ thể, đập vào màng nhĩ mỗi lúc một to hơn, choáng váng hơn. Chiếc trực thăng bay thẳng đến, có cảm giác như nó sắp ép ông già xuống mặt đất xốp. Trong cơn hoảng loạn, ông Tsanka mở to đôi mắt già nua màu xanh xám đã bạc phếch của mình. Ông muốn nheo mắt lại để không phải nhìn thấy nỗi kinh hoàng kia, nhưng cặp mắt lại không chịu nghe theo, dù sợ chết khiếp chúng vẫn cứ hướng vào cái cỗ máy khổng lồ ma quỷ kia. Đột nhiên, qua đôi mắt kính dày, ông Tsanka nhìn thấy trong ca bin của con quái vật đang treo trên đầu có hai khuôn mặt đang cười hô hố. Đôi mắt ông già chớp liên tục, cố nheo lại, thể hiện những tâm trạng khác nhau rồi cháy lên vì tức giận. Một dòng điện xấu hổ và buồn bực như bùng lên xuyên qua đầu ông, chạy dọc theo sống lưng, đến tận ngón chân. “Hừ, - ông Tsanka cay đắng nghĩ, - Mình đúng là đồ mọi rợ già cỗi, vì ham sống mà bây giờ phải run bắn lên trước những trò đê tiện. Mình sợ chết! Mình là đồ hèn nhát, nô lệ, súc sinh!”
Ông Tsanka bước lên. Một bước, rồi bước thứ hai. Khuôn mặt già nua của ông trở nên méo mó vì căm tức. Trong cơn giận dữ điên cuồng, ông có cảm giác như có vật gì chẹn ngang họng, quai hàm cắn chặt, vẻ bướng bỉnh, cương quyết, hai bàn tay to lớn nắm chặt lại, vung lên, đe dọa.
— Ta-ta-ta-đây! - Ông hét to lên như muốn át tiếng máy bay gầm rú. - Ta sẽ không quỳ gối trước các ngươi đâu! Không! Đừng trông mong điều đó, đồ khốn nạn! Nào, bắn đi! Bắn đi, đồ cặn bã!
Chiếc trực thăng lượn một vòng rồi lại treo trên đầu ông già. Giờ đây, ông Tsanka nhìn thấy vẻ mặt các phi công trở nên nghiêm túc hơn, thậm chí có vẻ bối rối nữa. Chiếc trực thăng hạ thấp dần, cơn gió cuồng phong quạt trên người ông, đè ông xuống mỗi lúc một mạnh hơn, nhưng ông không định đầu hàng, bướng bỉnh cố choãi chân ra, đứng im không nhúc nhích. Chỉ có cái mũ lông cao và cặp kính là bay đi mất, cơn gió mạnh như muốn xé rách vạt áo choàng dài của ông.
— Đồ khốn nạn lừa bịp! Mày không thể đánh gục ta bằng không khí đâu! Ta cũng không tệ hại đến mức phải gục ngã trước mặt ngươi bằng một cơn gió đâu. - Ông Tsanka hét to. - Mày còn âm mưu cái gì nữa? Tìm được kẻ hiến sinh tương xứng với sức mạnh của mày chưa?.. Ngay cả đối với ta, mày cũng không khuất phục được đâu, đồ đê tiện. Nào, hãy bắn đi, bắn đi... Mày định nhạo báng ta chứ gì? Ở tuổi mày, ta đã từng tay không lao vào xe tăng. Còn mày?..
Cỗ máy khủng khiếp lại bay sang bên, lượn một vòng nhỏ nữa, rồi bỗng nhiên nó hướng thẳng về phía ông Tsanka, đột ngột dừng lại, cánh quạt khổng lồ treo ngay trên đầu ông, quạt gió ầm ầm. Ông Tsanka bị ngợp thở trong vòng xoáy như điên, dẫu vậy ông vẫn nhìn thấy, hay là ông có cảm giác như nhìn thấy khuôn mặt biến dạng vì tức giận của người phi công.
Ông già không trụ nổi. Trận cuồng phong như vũ bão quật ông ngã vật xuống đất. Ông cố chống hai tay định đứng lên, nhưng không thể. Sức mạnh sắt thép khủng khiếp đè bẹp ông xuống đất, không cho ông thở, không cho ông sống. Lấy hết sức lực cuối cùng, ông chỉ có thể lật người, úp mặt xuống đất, đưa hai tay lên che mái đầu già nua của mình lại. Ông hình dung, những người lính của quân đội liên bang sẽ mở cửa máy bay ra, nhìn ông cười hô hố, thậm chí nhổ bọt nữa. Thậm chí ông còn có cảm giác, một bãi nước bọt rơi trúng vào cái gáy rụng hết tóc của ông. Ông cảm thấy rất rõ điều đó, chỉ có điều ông không thể nhấc đầu lên hay làm cái gì đó. Ông không còn sức mạnh, nghị lực, ý chí, không còn mong muốn gì nữa. Ông đã kiệt hết sinh lực... Ông chỉ có thể ứa nước mắt, rồi sau đó tuyệt vọng khóc than, ấn cái mũi dài của mình vào đống bùn của mảnh đất quê hương... Trong lúc đó thì họ vẫn tiếp tục ép ông nằm bẹp dưới đất bằng chiếc cánh quạt, còn nhạo báng ông một lát nữa, nhưng vì lòng nhân đạo và phẩm chất cao đẹp của quân đội nên họ đã không bắn một ông già...
Khi những chiếc trực thăng bay đi, Goisum mới tìm được ông Tsanka vẫn còn nằm nguyên trong tư thế đó. Goisum đỡ ông ngồi dậy, tìm nhặt trên mặt đất bẩn chiếc mũ lông cao và cặp kính của ông. Cả hai chậm chạp lê trên con đường xuống ngôi làng bỏ hoang.
Phải khó khăn lắm ông Tsanka mới về được đến nhà mình. Cả người ông đau như dần, còn trong lòng, có một cái gì đó đang diễn ra rất khó lý giải và hỗn loạn. Một con người đã được tôi luyện qua những thử thách và tai ương nặng nề, vững vàng như thế, vậy mà có cảm giác như tinh thần ông đã bị bẻ gãy hoàn toàn. Ông đã sống sót sau những thất bại đau đớn và những mất mát không gì bù đắp nổi. Chẳng những thế, dân tộc ông đã bị ép phải rời khỏi mái ấm tổ tiên, rồi thêm vào đó một điều khủng khiếp nữa là nguồn nước đã bị cạn khô. Nhưng nỗi thống khổ chưa phải đã hết. Vào cái tuổi xế bóng, ông còn bị đè xuống bùn, bị cười nhạo và nhổ vào đầu. Sống thế đã đủ chưa! Mà cũng có thể chúng là con cháu của các đồng đội và bạn bè cũng nên?
Với những ý nghĩ cay đắng đó, ông Tsanka mặc cả quần áo bẩn lên phản nằm, mệt mỏi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
— Ông Tsanka, ông Tsanka, dậy đi. - Goisum đánh thức ông dậy lúc trời chạng vạng. - Dậy đi, ông Tsanka, ông ngủ như chết ấy.
— Lẽ ra ta nên chết rồi mới phải, - ông Tsanka rên rẩm, giọng còn ngái ngủ.
— Ông không nghe thấy gì à? - Goisum hoảng sợ hỏi.
— Thế có chuyện gì vậy? - Ông Tsanka lo lắng.
— Làng ta bị bao vây rồi. Xe tăng đứng đầy trên ba ngả đường ra vào làng. Nhiều lắm.
Ông Tsanka vừa rên rỉ vừa chống tay đứng dậy. Ông vẫn chưa mở to mắt được vì còn ngái ngủ, rút từ túi áo ngoài ra chiếc khăn tay bẩn thỉu, lau mãi vào mắt rồi đến đôi kính.
— Goisum, nguồn nước đã hồi sinh lại chưa? Nước đã về chưa? - Ông Tsanka hỏi, le lói niềm hy vọng.
Nhưng Goisum chỉ buồn bã lắc đầu.
— Thôi được rồi, - bằng một giọng hưng phấn giả tạo, ông già tiếp. - Thượng đế biết rõ hơn ta. Ôi, ngày hôm nay ta cũng quên đọc kinh... Goisum, tốt hơn là cháu nhóm lò lên rồi đặt ấm nước đi, sẽ ấm áp hơn và vui vẻ hơn. Rồi ta sẽ là người chủ trì bữa tiệc cưới của cháu.
— Tốt hơn là ông hãy nghĩ đến bà Dakoza ấy. - Goisum ngắt lời ông.
— Ôi, ta quên mất. - Ông Tsanka bối rối. - Thật lòng mà nói, tốt hơn là ta nên ở vào vị trí của bà ấy.
Ông Tsanka cầu kinh rất lâu, rồi uống trà. Sau đó ông nói:
— Goisum, giờ là chiến tranh. Một thời kỳ nặng nề, khủng khiếp. Không thể khuyên bảo ai được điều gì cả. Trong những hoàn cảnh như thế này, anh em cũng chẳng còn là anh em, bạn bè cũng không còn là bạn bè. Một thời kỳ nặng nề! Chính cháu cũng thấy rồi đấy. Cháu là một người bất hạnh, và trong hoàn cảnh này mà giải thích để cháu hiểu thì quả là ngu ngốc. Nhưng dẫu số phận đã an bài như vậy thì đến phút cuối vẫn phải sống cho xứng đáng là một con người... Ta già yếu rồi. Trước hết cháu hãy giúp ta mai táng bà Dakoza, rồi sau đó, chắc là cháu sẽ mai táng ta... Tim ta đau lắm, đè nặng như hòn đá nung đỏ vậy. Ngực ta như muốn vỡ tung ra... Ôi, ta mệt mỏi lắm rồi. Đến khi nào thì tất cả sẽ kết thúc?.. Goisum, ta xin cháu, đừng bỏ ta lại như con chó, hãy chôn cất ta tử tế như con người... Có thể, ít ra thì ta cũng xứng đáng với điều đó...
Khi trời đã tối hẳn, cả hai cùng ra nghĩa trang. Goisum đi trước, cõng trên vai cái xác của bà Dakoza. Ông già Tsanka lê lết theo sau.
— Cháu có hình dung được không, Goisum, - ông già ngạc nhiên. - Suốt ba mươi sáu năm cuối cùng sống ở Duts-Khote, lần đầu tiên ta không ra nghĩa trang. Có lẽ đó là điềm báo gì đó, chắc là ta đã qua cơn bĩ cực? Đến hồi kết rồi.
Bầu trời trên khu làng thỉnh thoảng lại bừng sáng lên bởi những quầng lửa. Khi đó hai người vội ném cái cơ thể bất động xuống đất rồi nằm xuống bên cạnh. Từ trên cao nhìn thấy rất rõ các trại lính của quân đội. Thỉnh thoảng từ đó vọng lại tiếng nổ loạn xạ của súng tiểu liên và trung liên.
Đến nguồn nước, ông Tsanka lại ngồi trong lòng suối khô khốc cầu nguyện và lặng lẽ khóc rất lâu.
Đến nghĩa trang, ông già bảo Goisum đào hai nấm mồ.
— Hai để làm gì? - Goisum ngạc nhiên hỏi.
— Một cái cho bà ấy, một cái cho ta.
— Không ai đào sẵn mồ cho người sống cả.
— Có đấy, có đấy, Goisum ạ, rất nhiều nữa là đằng khác... Kia kìa, những kẻ đang bao vây chúng ta ở dưới chân núi ấy, chẳng phải họ đang chôn sống chúng ta hay sao? Đó chỉ là những kẻ thù nhìn thấy được, còn biết bao nhiêu kẻ thù giấu mặt và với những khuôn mặt tươi cười?
Đến nửa đêm thì ông Tsanka và Goisum mới về đến làng, mệt rã người. Cảnh vật tĩnh lặng. Hai người quyết định cùng ngủ ở nhà ông Tsanka. Chỉ đến khi đi nằm, những sự việc bất thường không ai có thể hình dung nổi mới bắt đầu diễn ra. Bên dưới sườn núi, nơi các đơn vị quân đội liên bang đóng quân lại nổ ra một trận đánh. Hai người chạy ra sân, nhìn thấy rất rõ những quầng sáng bùng lên trong khe núi Vashandaroi. Cuộc giao tranh rất quyết liệt nhưng không kéo dài. Ở bên dưới vẫn tiếp tục bắn nhau, một số bóng đen xuất hiện trong các ngõ ngách làng Duts-Khote.
— Các anh là ai? - Goisum hét lên.
Hóa ra họ là các phiến quân Chechnya. Tất cả chỉ vẻn vẹn tám người. Họ không lẩn trốn mà chạy đến gặp người làng, chào hỏi qua quýt, rồi sau vài câu xã giao, họ nói:
— Cả chúng tôi và các ông phải nhanh chóng rời làng ngay. Chúng tôi đã khai hỏa... Hãy chỉ cho chúng tôi đường đi tiếp lên núi.
Ông Tsanka chỉ cho họ đường đi qua hang núi, còn chính mình thì cương quyết không chịu rời làng. Goisum thì lúc đầu cũng định đi theo các phiến quân, nhưng sau đó đã nghĩ lại.
Một giờ sau, các khẩu trọng pháo bắt đầu nã dữ dội vào làng Duts-Khote. Họ bắn trực diện với một sự tức giận không thương tiếc để trả thù. Cuộc pháo kích vào ngôi làng nhỏ kéo dài gần một giờ. Ông Tsanka và Goisum nấp dưới tầng hầm.
Sáng sớm, Goisum về kiểm tra ngôi nhà của mình. Năm phút sau anh chạy lại, gào thảm thiết:
— Ông Tsanka, ông Tsanka ơi, nhà của cháu, nhà của cháu, bọn khốn bắn sập rồi. Sập hoàn toàn. Cháu phải làm gì bây giờ? Sao lại như thế được? Phải vất vả lắm cháu mới xây được. Làm sao cháu có thể lấy vợ được nữa?
Những giọt nước mắt cay đắng to tướng chảy ra từ cặp mắt như đang cháy lên của Goisum. Anh ta cứ kêu gào, khóc lóc, sùi cả bọt mép vì tức giận. Khuôn mặt vốn đã méo mó, nay lại càng thêm méo mó, man dại.
— Cháu sẽ tiêu diệt hết bọn chúng, sẽ tự tay bóp chết bọn chúng. - Goisum gào lên trong cơn giận dữ điên cuồng.
Đột nhiên, Goisum chộp lấy cây nạng gảy rơm bên đống rơm, tuyệt vọng khua lên rồi chạy xuống núi, nơi đóng quân của kẻ thù, điên cuồng hét lên, đe dọa, nguyền rủa và cả cầu xin “thánh Allah” nữa.
— Đứng lại! - Ông Tsanka gọi theo Goisum, nhưng mọi việc đã trở nên vô ích.
Đến giữa sườn dốc, một loạt tiểu liên dài quật ngã Goisum. Sau đó thêm một vài loạt pháo nữa, bắn thẳng ra từ xe tăng vào cái xác nằm trên mặt đất. Một lúc sau, ông Tsanka lần theo sườn dốc đến chỗ đó. Người ta không bắn ông già. Ông Tsanka tìm kiếm rất lâu trong vô số các hố đạn thi thể người đồng hương. Phải khó khăn lắm ông mới gom được những mảnh rời rạc. Sau đó ông quay về làng rồi đi ra với chiếc bao tải. Bây giờ bước chân của ông có vẻ nặng nhọc, mệt mỏi, lúc nào cũng phải dựa lên chiếc gậy chống.
Sau khi nhặt được khoảng nửa bao những gì còn lại của cơ thể một con người, ông Tsanka đặt bao lên vai, cố gắng chậm chạp leo lên dốc. Mới được mươi bước, ông đã phải dừng lại thở hổn hển, đứt quãng. Ông lão quá mệt vì con dốc và vật nặng trên vai. Ông cúi xuống, dồn toàn thân vào cây gậy chống, đứng như thế khá lâu, thở lấy hơi. Đột nhiên, một tiếng rắc đơn độc, khô khốc vang lên: cây gậy chống bằng gỗ của ông gãy làm đôi, ông già đổ vật ra, đập mặt xuống đất, mắt kính vỡ tan, cứa vào mặt tóe máu.
Ông Tsanka phải khó khăn lắm mới đứng dậy được, quay đầu lại.
— Đồ súc sinh! - Ông điên cuồng hét lên rồi chạy xuống dưới, định lao vào trận đánh phục thù, nhưng mới chỉ được năm, sáu bước, ông bị trượt chân, lại ngã vật ra, lần này ông còn phải nằm khá lâu mà không đứng lên được. Ông chỉ còn đủ sức rên khe khẽ, nhỏ lên mảnh đất quê hương những giọt nước mắt hiếm hoi của mình. Ông có cảm giác như nghe thấy rất rõ những người lính đang cười cợt, chế nhạo ông...
Mặc dù vậy, ông già vẫn cố đứng lên, gom nhặt chiếc bao, lần về tới nhà, tìm được chiếc kính dự phòng rồi đi tiếp về hướng nghĩa trang. Đến trưa thì ông chôn cất xong những gì còn lại của Goisum.
— Thế đấy, Goisum ạ, - ông Tsanka ngồi bên nấm mồ mới đắp, khẽ nói. - Hóa ra là cháu đã đào nấm mồ này cho mình... Cầu xin thượng đế phù hộ cho cháu! Trên mặt đất này cháu là người bất hạnh, có thể ở đó cháu sẽ được hạnh phúc. Còn ta, lại chỉ còn một mình, ta lại gặp may một cách đáng sợ, thậm chí rất đáng sợ nữa... Hừ, - ông cay đắng nhếch mép. - Đã bao nhiêu lần ta gặp may kiểu như thế này?! Nhớ lại mà thêm sợ. - Và trong đầu ông Tsanka như hiện lên rất rõ những cảnh tượng không thế nào quên của những đoạn đời và những cuộc chiến đã đi qua...
✦✦✦Mùa hè năm 1935. Quá trình tập thể hóa diễn ra hết sức sôi động. Nạn đói, nghèo và dịch bệnh như đã bẻ gãy cuộc sống trên vùng đất Ukraina, Povolzhe và miền Trung Nga. Như mọi khi, làn gió biến động thổi tới Chechnya muộn hơn một chút so với nơi khác. Đã có nhiều kinh nghiệm sau công cuộc công hữu hóa, những người Bolsevich tích cực khai thác thêm những vùng lãnh thổ mới.
Cuối những năm hai mươi, các cuộc tập thể hóa liên tục diễn ra trên vùng đồng bằng Chechnya. Với các biểu ngữ của những người Bolsevich và người Chechnya đang bị đói, một số lượng lớn những người lánh nạn đói ăn từ Ukraina đổ xô về Chechnya. Họ kể về những cuộc tập thể hóa khủng khiếp. Tuy nhiên, dù không có những câu chuyện họ kể thì mọi người đều rõ tầm quan trọng của công cuộc tập thể hóa, bởi lẽ từ xa xưa người Chechnya đã có câu thành ngữ: “Cha chung không ai khóc”.
Bất chấp sự phản đối của dân chúng, công cuộc tập thể hóa vẫn được ép buộc tiến hành, không ai có thể ngăn lại được. Trong khoảng thời gian bảy, tám năm tồn tại của chính quyền Xô viết, nhiều người dân ở Chechnya đã bị thiệt mạng, mất tích hoặc đưa đi phát vãng ở Sibir, Bắc Ural. Hệ tư tưởng của những người Bolsevich dựa trên thành phần bần cố nông đã mang lại kết quả. Sự tố giác và sự đối đầu trở thành bắt buộc. Tôn giáo bị cấm. Thuốc lá và rượu trở nên phổ biến. Thoạt đầu là tịch thu ruộng đất. Các khoảnh ruộng đất tư nhân nằm ngoài các điểm dân cư cũng bị thu. Sau đó đến lượt các vật nuôi trong gia đình. Tất cả ngựa, gia súc có sừng, cừu, thậm chí cả gà nữa đều bị đưa vào nông trang tập thể. Một thời gian sau, những con gà sống dở chết dở được trả về cho các gia đình, nhưng họ không được phép ăn thịt những con gà đó mà chỉ được chăm sóc chúng thôi. Nếu một con gà bị mất mà hàng xóm tố giác là chủ nhà ăn thịt nó thì chủ nhà sẽ bị trừng phạt hoặc phải nộp phạt. Một thời kỳ nặng nề và khủng khiếp đang diễn ra.
... Sau khi mãn hạn tù trở về, Tsanka Arachaev xây một ngôi nhà ở xóm trại, cách ngôi làng ruột thịt Duts-Khote khoảng một dặm. Mãi sau này, khi làng phát triển thì nhà của Tsanka nằm ở vùng ven ngôi làng miền núi, còn đến năm 1935 nó chỉ là một khu trại hẻo lánh.
Vị trí để xây dựng tổ ấm được Tsanka lựa chọn rất thuận lợi. Khoảnh đất trên sườn núi này khá bằng phẳng. Cạnh đó, trên phần đất được cấp có con suối chảy ngang qua. Cao hơn một chút theo dòng chảy là cối xay nước của ông Baki-Haji. Vào thời gian đó, cây cối trên sườn núi còn rất rậm rạp. Dọc theo suối là những bụi cây kim anh, hồng dại, sơn trà, còn xa hơn nữa là rừng, càng vào sâu càng rậm, chủ yếu là sồi và dẻ gai. Lên cao hơn, về phía đỉnh núi, rừng thưa hơn, ở đây có thể bắt gặp các loại cây lạc diệp tùng và bồ đề cổ thụ.
Chếch về phía tây khu trại Tsanka, hướng đỉnh núi là nghĩa trang cổ của người Chechnya, nghĩa trang Gazavata. Người dân miền núi cổ xưa đều được chôn cất ở đây. Có rất nhiều tấm bia mộ theo phong cách đa thần giáo. Trong khuôn viên nghĩa trang có ba cái tháp canh đã đổ nát của người Vainakh cổ. Thời gian đã tàn phá, hủy hoại chúng nhưng vẫn không thể bắt chúng phải khuất phục. Những ngôi tháp canh ấy vẫn còn đứng đó quan sát tất cả những gì đang diễn ra xung quanh.
Nhưng thật trớ trêu đối với các tháp canh và nền văn hóa cổ xưa, ngay trước khu nghĩa trang cổ, thấp hơn một chút trên sườn núi, quân đội đã xây dựng trại gia súc, đi xuống một chút nữa, gần cối xay nước là trại ngựa, toàn bộ ngựa đều được dồn về nuôi ở đây. Tất cả những cơ sở này thuộc nông trang tập thể mang tên Lenin. Nông trang được đánh giá là tiên tiến mặc dù không bao giờ hoàn thành kế hoạch sản xuất bởi lẽ chỉ tiêu được giao quá cao. Ngày công lao động của nông trang viên được thanh toán vào dịp cuối năm bằng trái phiếu nhà nước dài hạn, khoảng mười năm. Chủ tịch nông trang thay đổi hàng năm. Nhiều người trong số họ bị tống giam vì tội hoạt động phá hoại.
Đến mùa hè năm 1935 thì chẳng còn ai muốn làm chủ tịch nông trang nữa, thậm chí nông trang viên bình thường cũng không muốn, vì chẳng ai muốn làm không công. Đàn gia súc chết dần chết mòn vì đói và dịch bệnh, thức ăn dự trữ cho mùa đông không có. Dịch bệnh bắt đầu bùng phát. Mùa hè, mùi hôi thối nồng nặc từ xác và phân gia súc tràn ngập khắp triền núi. Khu trại của Tsanka cũng không thể sống nổi. Mùi hôi thối không chỉ lan trong không khí mà còn ngấm vào cả nguồn nước, trên cây cỏ và ở khắp nơi. Xung quanh, cuộc sống như ngưng trệ. Thậm chí lũ quạ cũng bay khỏi vùng đất này, chỉ có những con nhặng mập ú no nê là lười nhác bay từng đàn khắp vùng.
Dòng nước phân hôi thối, nhớp nhúa chậm rãi chảy thẳng từ khu trại gia súc vào nguồn nước. Trước kia, sáng sáng, từng đàn cá hồi núi lấp lánh nhảy qua các tảng đá lăn nhỏ, nô giỡn trong làn nắng sớm, bơi ngược lên thượng nguồn. Giờ đây, cuộc sống trong nguồn nước không tồn tại nữa. Và cuộc sống trong ngôi nhà của Tsanka cũng đang lịm đi. Vì cái mùi hôi thối không sao chịu đựng nổi ấy mà gia đình Tsanka phải quay trở về nhà bà con trong làng.
Chỉ có trong trại ngựa là cuộc sống vẫn còn được duy trì. Có thể thấy đó là nhờ tình yêu sâu nặng của người miền núi đối với loài ngựa vẫn còn được giữ gìn cho đến tận ngày nay. Những chiếc xe chở thức ăn cho ngựa vẫn còn chạy đến đây, sáng và chiều các nông trang viên vẫn xuất hiện trên đường đến khu trại.
Từ làng, chỉ có một con đường dẫn đến khu trại gia súc và trại ngựa. Con đường chạy ngang qua nhà Tsanka rồi rẽ đôi. Một đường chạy lên cao về phía trại gia súc, đường kia dẫn đến trại ngựa.
Ngày hôm đó, từ xa Tsanka nhìn thấy ba người cưỡi ngựa đang tiến lại gần. Một người đi trước, hai người đi sau. Lát sau, Tsanka nhận ra người đi trước là Umar, người làng Duts-Khote. Trước khi chính quyền Xô viết thành lập ở đây, trong làng không có gia đình nào nghèo hơn gia đình Umar, nay anh ta làm trong cơ quan Dân ủy nội vụ. Giờ đây, khi không một người Chechnya nào được phép tàng trữ vũ khí trong nhà, nhất là mang theo người thì trên thắt lưng Umar móc lủng lẳng một khẩu súng ngắn to tướng, cấp riêng cho anh ta. Đám đàn ông trong vùng đồn đại chiếc bao da màu vàng của Umar là da thật. Thời gian làm cho các mép của nó bị sờn mòn, chỗ thì ngả nâu, chỗ thì đỏ, còn ở giữa vẫn vàng. Dù Umar đi bộ hay đi ngựa, lúc nào anh ta cũng cố ngạo mạn trương bao súng ra. Ngay cả bây giờ, anh ta đang cưỡi ngựa và tỏ ra rất thích thú với bao súng.
Vừa nhìn thấy các vị khách không mời mà đến, Tsanka vội lui vào nhà. Trong nhà, không khí dễ chịu hơn ngoài đường dù mặt trời mùa hè đang thiêu đốt mái nhà, trong nhà nóng như nhà tắm hơi. Tsanka quan sát các kỵ sĩ qua ô cửa sổ nhỏ, thầm nghĩ, chắc họ đến trại ngựa hoặc trại gia súc. Tuy nhiên họ ngoặt về phía khu trại của anh. Khu trại của Tsanka được bao quanh bằng hàng rào bện bằng cành cây, nhưng không có cổng, thay vào đó là hai thanh gỗ gia, gắn móc sắt. Umar đứng trước hai thanh gỗ, bỏ khăn bịt mũi ra, gọi Tsanka. Gọi đến lần thứ hai Tsanka mới bước ra.
— Salam alleikum, Tsanka. Cầu chúc sức khỏe cho anh và hòa bình cho ngôi nhà.
— Vo-alleikum salam. Chúc các anh hòa bình và sức khỏe, xin mời.
Một khoảng lặng. Umar gõ gõ ngón tay đẫm mồ hôi vào bao súng, vẻ hài lòng.
— Tsanka, thế gia đình anh đâu? - Cuối cùng, Umar hỏi.
— Tôi đưa họ về nhà bà con ở trong làng rồi, tránh mùi hôi thối ở đây.
— À, à, - Umar kéo dài giọng, lắc lắc cái đầu da bánh mật. - Đã lâu không gặp anh, lâu rồi. Anh đã trưởng thành, cứng cáp lên đấy. Người khác chết rục xương trong tù, còn anh lại phát tướng ra.
— Phải, có lẽ là nhờ anh chiếu cố đến. - Tsanka đáp.
— Thôi đừng nói bậy nữa. Tôi chẳng liên quan gì cả. Thời thế như vậy. Hãy cám ơn thánh Allah cho ta cuộc sống và sức khỏe.
Con ngựa của Umar lắc lắc đầu để xua lũ ruồi đang bu đầy trên bẹn nó hút máu.
— Anh có con ngựa đẹp đấy, Umar, thật tuyệt. Giống ngựa thuần chủng từ đàn ngựa của Magomed. - Tsanka lùi lại một chút, ngắm nghía con ngựa.
— Thôi đừng tán nhảm nữa. Anh còn ấu trĩ lắm, Tsanka ạ... Đàn ngựa Magomed, đàn ngựa Magomed, - Umar ngọ ngoạy trên yên, bực bội nhại lại, - Magomed của anh bây giờ ra sao, anh có biết không? Cả đàn ngựa của ông ấy nữa? Rồi anh sẽ thấy. Suốt đời cứ cưỡi lên đầu nhân dân, giờ sẽ bị trừng phạt. Chính quyền Xô viết là chính quyền của nhân dân và rất công bằng.
Những câu cuối, Umar nói rất to để những người đi cùng đều nghe được. Từ “Chính quyền Xô viết” anh ta nói bằng tiếng Nga còn mắt thì liếc xéo về phía sau để xem phản ứng của đồng đội.
— Dĩ nhiên, anh nói đúng, - Tsanka nói bằng một giọng mềm mỏng hơn. - Có thể thấy rõ là chính quyền Xô viết rất tốt bụng. Chẳng qua là tôi chỉ nghĩ, khi chính quyền Xô viết xuất hiện, tất cả chúng ta sẽ sống như Magomed, nhưng hóa ra Magomed lại phải sống như chúng ta.
— Đừng nói bậy nữa, đồ ngốc ạ. Hai người kia cũng biết tiếng Chechnya đấy... Mà nói chung, tôi đến gặp anh vì công việc, Tsanka ạ. Sáng mai, đúng tám giờ anh phải có mặt ở huyện lỵ. Tôi sẽ đón anh ở đó. Chỉ có điều đừng gây chuyện ngu ngốc đấy. Đùa bỡn với chính quyền chỉ có hại thôi. Anh quá biết rồi.
Nói xong, Umar quay ngựa về phía làng, những người kia cũng đi theo. Umar ghìm dây cương, quay đầu lại, lườm Tsanka bằng đôi mắt đen của mình, nói:
— Phải, quả thật là anh đã phổng phao lên rồi đấy.
Umar lắc đầu vẻ ngạc nhiên rồi giật dây cương và quất cho con ngựa một roi.
Thời gian còn lại trong ngày và suốt cả đêm hôm ấy, Tsanka cảm thấy bất an. Bị triệu tập đến cơ quan Dân ủy nội vụ thì chẳng trông mong điều gì tốt đẹp. Buổi tối, Tsanka vào làng trao đổi với người thân. Chẳng ai góp được điều gì cụ thể. Chính quyền Xô viết đã vững mạnh, chẳng thể trốn đi đâu được. Mẹ và vợ khóc lóc, còn những người đàn ông thì rầu rĩ nhìn xuống đất.
Sáng hôm sau, Tsanka phờ phạc, chậm chạp lần xuống trung tâm huyện. Giờ đây, thế giới xung quanh đối với Tsanka bỗng trở nên đẹp đẽ vô cùng. Thậm chí cả cái mùi bốc ra từ khu trại gia súc cũng không đến nỗi khó chịu như trước. Trời còn rất sớm, mặt trời chưa nhô lên khỏi rặng núi, còn bầu trời thì xanh biếc, trong veo và cao vời vợi. Trên nền trời sáng, cánh rừng trông có vẻ sẫm màu hơn bình thường.
Cuối cùng, mặt trời đã nhô lên sau rặng núi, chiếu ánh sáng chói lòa lên mặt Tsanka, ve vuốt làn da. Cánh rừng dẻ gai hùng vĩ thay đổi màu sắc liên tục: thoạt đầu cánh rừng xa xa phía tây sáng dần lên, sau đó ánh nắng mặt trời và hơi ấm bao trùm lên cánh rừng phía đông, cuối cùng toàn bộ vùng thung lũng trong núi được mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Một ngày hè mới, nóng nực bắt đầu.
Buổi sáng làm cho Tsanka cảm thấy sảng khoái, và khi gặp lại Umar, Tsanka đã gần như bình thường. Họ cùng vào ngôi nhà hai tầng, lên tầng hai. Tsanka được đưa vào căn phòng rộng rãi, Umar ngồi chờ ở phòng tiếp đón. Tsanka nhận thấy Umar tươi cười với tất cả mọi người, vừa đi vừa nghiêng mình chào hỏi. Trong phòng tiếp đón, anh ta bị tách khỏi Tsanka ngay.
Trong căn phòng rộng bàn ghế sơ sài, có một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, má đỏ au, mập mạp. Trên tường treo tấm bản đồ thế giới, chân dung Lenin và Stalin.
Cuộc trò chuyện ngắn gọn, và Tsanka chỉ hiểu được một việc - từ nay anh sẽ là chủ tịch nông trang tập thể mang tên Lenin, và phải nhanh chóng bắt tay ngay vào việc. Chỉ đến lúc đó, người đàn ông mập mạp mới đứng dậy khỏi bàn, bước lại gần Tsanka và chìa bàn tay béo núc ra. Tsanka, sau cơn sửng sốt, bắt đầu phản đối, rằng anh không thể làm chủ tịch được vì còn trẻ, ít học, chưa có kinh nghiệm
— Không sao, không sao, - người đàn ông má đỏ nói, giờ đã mỉm cười vỗ vỗ vào vai Tsanka. - Điều quan trọng nhất, đồng chí Arachaev ạ, là mọi người phải sợ mình. Đồng chí phải hiểu, chính quyền Xô viết, có thể đối với một số người là đáng sợ, nhưng khi có chính quyền trong tay thì đó là hạnh phúc.
Tsanka lãnh đạo nông trang được gần một năm. Sự bắt đầu và kết thúc đoạn đời nông trang của Tsanka diễn ra bằng các đám cháy. Đám cháy thứ nhất xảy ra khi chính Tsanka tự đổ dầu hỏa vào trại gia súc và đốt nó. Đó là lối thoát duy nhất để thoát khỏi mùi hôi thối nồng nặc. Đám cháy thứ hai xảy ra hoàn toàn khác.
Buổi tối, Tsanka bị vợ đánh thức dậy. Trại ngựa bị cháy. Có những bóng đen nào đó lảng vảng xung quanh. Khi Tsanka đến nơi thì nhìn thấy Umar và năm người, cả Nga lẫn Chechnya, tất cả đều mặc thường phục. Họ thậm chí cũng không thèm giấu giếm là đã đốt trại ngựa. Hai mươi chín con ngựa - đó là tất cả những gì còn lại của nông trang tập thể - đều bị nhốt chặt ở bên trong. Lũ ngựa hoảng loạn, hí ầm ĩ. Nghe rất rõ tiếng chúng gõ móng và tiếng hí điên loạn.
— Umar, xin anh hãy thương tiếc những con ngựa, hãy thả chúng ra, xin anh. - Ông già bảo vệ trại ngựa chạy quanh Umar, kêu gào.
— Này, ông già, đứng tránh ra. Việc gì đến ông. Có phải ngựa của ông đâu, ngựa của nông trang đấy chứ. Mà nói chung, nếu ông còn lảm nhảm nữa, chúng tôi sẽ thiêu ông luôn đấy. Hiểu chưa?
Tsanka đứng cạnh chứng kiến mọi chuyện. Toàn bộ nỗi khiếp sợ và cơn ác mộng hằn rõ trong đôi mắt mở to, chúng như đang cháy lên, còn những giọt nước mắt thì ứa ra.
... Vài ngày sau Tsanka bị bắt, chỉ đến lúc đó anh mới hiểu rõ toàn bộ sự việc. Theo bản quyết toán gửi cho huyện trước khi Tsanka được bổ nhiệm làm chủ tịch thì nông trang có cả thảy 159 con ngựa đã được thống kê theo năm sinh, giống, màu lông, thậm chí cả tên gọi nữa. Dĩ nhiên, số lượng ngựa như vậy ở nông trang chưa bao giờ có. Chẳng qua chỉ là những số liệu để báo cáo. Bất ngờ, một thời gian sau, lãnh đạo huyện nhận được một bức điện của cấp trên, yêu cầu nông trang tiên tiến mang tên Lenin phải giao nộp một trăm con ngựa cho Hồng quân. Sau đó huyện lại nhận được một công văn hỏa tốc, ghi rõ tuổi, giống, màu lông, tên gọi của từng con ngựa phải được giao nộp tại thành phố Grozny vào giữa tháng Sáu.
Một thời gian sau, thành phố Grozny nhận được báo cáo, những tên phú nông culắc và những người miền núi Arbek chống đối đã đốt trại ngựa của nông trang Lenin nhằm phá hoại chính quyền Xô viết. Ngay sau đó có công văn trả lời, yêu cầu phải trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội. Những kẻ phạm tội liền bị bắt và bị trừng trị ngay. Ông già bảo vệ bị bắt rồi mất tích như một người Arbek chống đối, còn chủ tịch nông trang Arachaev Tsanka, do thiếu tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao và âm mưu phá hoại nên bị kết án năm năm tù giam.
Khi biết mình không bị giam nhà tù ở Grozny mà bị đưa đến nhà tù ở Gudermes và được đưa vào một bãi nhốt khổng lồ không mái che, Tsanka mới ý thức được tình hình của mình tồi tệ đến mức nào và mọi việc sẽ không kết thúc ở nhà tù địa phương. Trong bãi nhốt, theo cách gọi của chính những tù nhân, có rất nhiều người. Ngày cũng như đêm, từ bên ngoài hàng rào lúc nào cũng vọng đến tiếng la hét của người thân với đủ các thứ tiếng khác nhau. Ở đây, ưu thế chủng tộc của Tsanka ngay lập tức được thừa nhận - đó là giọng nói oang oang của anh. Một mình Tsanka cũng có thể hét thay cho tất cả mọi người trong khi còn chưa bị khàn tiếng. Sang ngày thứ ba thì mẹ Tsanka đến. Người mẹ ném qua hàng rào cho anh pho mát, bánh mì dẹt bằng bột ngô, miếng mỡ cừu và rất nhiều tỏi. Tsanka cười luôn miệng, bảo với mẹ, lâu lắm rồi, ngay cả khi còn tự do ở nhà, anh cũng chưa bao giờ nhìn thấy nhiều thức ăn đến thế.
Vài ngày sau, vào lúc sáng sớm, người ta xua tất cả tù nhân ra nhà ga đường sắt, đẩy tất cả lên con tàu hàng vừa chạy tới. Các toa tàu đã chật như nêm, nhưng họ vẫn được nhét lên hết.
Thật đen đủi là Tsanka và một số đồng chí của anh cùng bị đưa lên một toa tàu. Tsanka, không phải lần đầu bị giam, ngoài ra còn trẻ và khỏe nên tỏ ra tự tin hơn, thậm chí còn có vẻ bất cần nữa. Sự tự tin của Tsanka chinh phục được tất cả những kẻ yếu đuối, nhất là những người già Chechnya.
Ở giữa toa có một chiếc lò sưởi nhỏ bằng sắt tạm bợ. Một người đàn ông, hình như là dân Kavkaz, hay Gruzia, Armenia gì đó, vóc dáng mập mạp, râu tóc bờm xờm ngồi chễm chệ. Tsanka không rành lắm về chủng tộc, nhưng biết chắc một điều, ngày đầu tiên đứng ở vị trí nào, thì những ngày sau sẽ mãi như vậy. Tsanka đưa mắt quan sát xung quanh, sau đó nói bằng tiếng Chechnya để mọi nguời che chắn sau lưng cho mình. Sau đó, không thèm nói một lời, Tsanka nhảy một cú đến sát chiếc lò, nhún hai chân khỏi sàn lấy hết sức túm chặt vào cổ áo của tên béo. Mọi việc chỉ diễn ra trong tích tắc, tên béo bay ngay xuống dưới, thậm chí cũng không kịp kêu một tiếng. Tsanka ngồi ngay lên ngai vàng và vẫy người của mình lại gần. Mọi người vội dãn ra, và những hành khách mới của toa tàu, người thì hếch cằm lên, người thì bối rối nhìn quanh, chiếm ngay một chỗ gần “lò sưởi”.
Đêm thứ hai, đoàn tàu dừng lại giữa thảo nguyên. Dù là một đêm tháng Sáu nhưng tiết trời vẫn lạnh, gió rít qua các khe hở mang theo cả cát bụi. Xung quanh tĩnh lặng, ai đó đang ngáy, người khác nhìn qua khe hở với hy vọng bắt gặp một điều gì đó thân thuộc.
Hừng đông sôi động hé lên. Nghe rõ cả tiếng vó ngựa, tiếng ra lệnh của chỉ huy, các toa tàu được mở ra, tất cả được đưa xuống xếp thành một hàng dài, dẫn đi trên con đường làng lầm bụi về hướng đông đón ánh mặt trời.
Vóc dáng Tsanka cao hơn tất cả mọi người trong đoàn. Chưa bao giờ Tsanka được nhìn thấy một khoảng không gian thoáng đãng và trơ trọi đến thế, nơi những ngọn gió có thể rong chơi tự do với cát bụi. Khắp nơi là thảo nguyên mênh mông, đơn điệu và không có sinh khí. Tsanka nhìn quanh bốn phía, cố tìm một ngọn núi hay một cái gì đại loại có thể làm cho bức tranh thêm sinh động, có thể gieo niềm hy vọng nào đó để thay đổi, ít ra là sự chuyển động.
Mặt trời nhanh chóng lên cao, thời tiết nóng đến mức không thể chịu đựng nổi, cơn khát giày vò khủng khiếp. Ai đó ở hàng trước, hình như xin nước uống. Đoàn người dừng lại, từ phía trước vọng lại tiếng la hét, rồi một phát súng ngắn, sau đó một loạt đạn vang lên, tất cả lại trở nên tĩnh lặng, đoàn người lại đi tiếp. Tất cả tù nhân mới đều nhìn sang bên trái, ở đó có mấy xác người đẫm máu bị hất sang bên đường. Tsanka có cảm giác một cái xác vẫn còn động đậy. Một sự chán nản và im lặng bao trùm. Tsanka cúi gằm mặt nhìn xuống chân, mồ hôi từ trên mặt rỏ ròng ròng xuống ủng, tạo nên những cái phễu nhỏ trên lớp bụi dày.
Đến chiều thì họ tới nơi. Theo danh sách, họ được phân thành từng khối khoảng một trăm người, thẩm vấn gì đó, ghi chép gì đó. Một trong số các sĩ quan đến gần Tsanka. Có thể thấy rõ nếu không phải là người chỉ huy cao nhất thì ít ra người đó cũng nằm trong ban lãnh đạo, vẻ mặt quan trọng, vóc dáng khỏe mạnh. Người chỉ huy quan sát Tsanka từ xa, đứng sang một bên, rồi lại nhìn nữa, sau đó ông đến gần, phả ra mùi vodka và mùi tỏi.
— Quê quán? - Người chỉ huy hỏi.
— Grozny ạ, - Tsanka đáp.
— Họ tên, bao nhiêu tuổi rồi?
— Arachaev ạ, ba mươi tuổi.
Chỉ đến lúc này người chỉ huy mới nhận ra giọng của Tsanka.
— Dân tộc nào? Có phải Chechnya không?
Tsanka chỉ cắn môi, gật đầu đáp lại.
— Tôi không biết Chechnya lại có những người như thế này.
Một người đàn ông đeo kính, nhỏ con, gầy gò, mặc quần soóc thường phục, đi đi lại lại bên người sĩ quan. Ông ta cầm trên tay một cuốn vở to, sờn cũ, ố vàng, khi cần thiết lại mở ra, ghi chép gì đó.
— Xin lỗi đồng chí Bezuglov. - Ông ta lắp bắp. - Tôi đọc trong từ điển bách khoa toàn thư, người Chechnya phần lớn tóc sáng, mắt xanh, đó không phải là do bạch tạng mà là một đại diện cổ xưa của người miền núi Chechnya.
— Phải, một người miền núi khỏe mạnh, - người sĩ quan nói rồi đi dọc theo hàng người.
Chỉ mãi đến nửa đêm, Tsanka và những người đồng hành với anh mới đến được khu vực được quây bằng dây thép gai. Người ta giải thích cho họ biết, đây là trại tập trung. Gần đấy có giếng, nước hơi lợ một chút nhưng uống được.
Vì quá mệt mỏi, hai chân như rũ ra, mắt díp lại, mọi người nằm la liệt trên mặt đất ẩm ướt, lạnh lẽo dưới bầu trời rộng mở. Tuy nhiên tai họa lớn nhất lại từ những con muỗi: chúng bay từng đàn, châm đốt trên tất cả phần da thịt hở ra - từ tai đến gót chân. Tsanka nằm xuống đất. Mặt đất phả lên làn hơi lạnh, những ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời thăm thẳm. “Tại sao? Tại sao mình lại bị nhạo báng đến thế này? Mình đã làm gì?” - Tsanka nhìn lên bầu trời tối đen thầm nghĩ. Những ý nghĩ nặng nề, buồn bã choán ngợp tâm trí. Anh nhớ đến mẹ, những người thân yêu ruột thịt, những rặng núi và ngôi nhà của mình. Tsanka cảm thấy một nỗi đau trĩu nặng trong lòng, có cái gì như đè lên ngực, anh nhắm mắt lại và thiếp đi lúc nào không hay. Tsanka mơ những giấc mơ khủng khiếp, người ta siết cổ anh, lấy những vật nặng gì đó đè lên lưng, giữa cơn mơ anh khát nước kinh khủng, đồng thời lại muốn đi vệ sinh. Đúng lúc ấy, những tiếng la hét, chửi rủa vang lên xung quanh, ai đó giẫm mạnh lên tay. Tsanka hét lên vì đau, tỉnh giấc, ngồi dậy, không hiểu mình đang ở đâu và có chuyện gì đang xảy ra. Trong khi Tsanka đang tỉnh lại thì xung quanh lặng dần. Hóa ra là có kẻ nào đó định cướp chiếc ba lô đựng toàn bộ lương thực, thực phẩm của Tsanka và các bạn tù ở Gudermes.
Trời sáng hẳn. Một buổi sáng trong trẻo và tươi tắn. Tsanka đứng lên, vươn vai. Phía đông mặt trời đang ló dạng. Anh nhìn thấy rất rõ trên cái nền đen của mặt đất bắt đầu hiện lên một số nhánh sông màu lam thẫm, còn xa hơn một chút là khoảng không màu xanh tím trải dài đến vô cùng.
— Đây là dòng sông Volga vĩ đại của nước Nga, còn phía bên phải là biển Caspi. Cậu đã bao giờ nghe nói chưa? - Ông Aleksandr Petrovich Shapovalov đứng bên cạnh nói.
Ông Shapovalov, cũng như Tsanka từng là chủ tịch nông trang, nhưng ở huyện Grozny. Ông nhận ra Tsanka là nhờ vóc dáng của anh trong một cuộc họp ở Grozny. Số mạng của ông cũng giống như Tsanka. Ông lớn tuổi hơn Tsanka nhiều, và có thể thấy, sức khỏe không được tốt lắm.
— Cậu biết không, Tsanka, tất cả những dòng sông lớn nhỏ chảy trên vùng đất Chechnya đều đổ vào cái biển này. Từ cái biển này có thể bơi thẳng đến nhà cậu. Cạnh nhà cậu cũng có con suối hay con sông nhỏ chứ?
Tsanka gật đầu. Mặc dù chưa bao giờ anh nhìn thấy một lượng nước khủng khiếp như thế và thậm chí cũng không biết bơi nữa, nhưng đột nhiên Tsanka bỗng muốn biến thành một con cá tung tăng trong cái biển nước mênh mông này, rồi bơi theo những dòng sông lớn nhỏ cho đến tận nguồn nước quê hương, đến ngôi nhà ruột thịt. Thậm chí Tsanka còn hình dung ra, mình sẽ bơi theo dòng nước mát lạnh, bơi rất lâu, rất khó nhọc, nhưng thật dễ chịu và thoải mái, vì đó là con đường về nhà, dẫu gian nan nhưng hạnh phúc. Với sự nỗ lực của mình, Tsanka có thể vượt qua bất cứ trở ngại nào, sẵn sàng không ăn, không uống, miễn là về tới nhà, về tới quê hương! Tsanka bị cuốn hút đến mức, bắt đầu nhẩm tính sẽ mất bao nhiêu ngày để về đến nhà, bắt đầu ước lượng vận tốc bơi tương đương như cá hồi bơi trong nguồn nước quê hương. Anh đắm mình trong mộng tưởng với những hồi ức tươi đẹp tràn ngập trong lòng, anh lại muốn sống, muốn về nhà. Tsanka mở mắt ra đón ánh bình minh đang chiếu thẳng vào mặt, cầu nguyện Thượng đế cứu giúp. Anh muốn sống, muốn sống ở nhà, sống tự do.
Chỉ đến khi ông Shapovalov chạm vào người, Tsanka mới thoát khỏi cơn mê sảng. Ông nắm lấy khuỷu tay Tsanka, nói:
— Chúng ta sẽ ở đây trong bao lâu, không rõ. Chúng ta sẽ được nuôi như thế nào, mà nói chung có được cho ăn uống hay không, cũng không rõ. Chính vì vậy phải giữ gìn cẩn thận chiếc ba lô, rất có thể những con chó núi ấy sẽ quay lại... Thêm một điều nữa, chuyện đấm đá và thái độ bất cần ở đây là không được. Người ta bảo, từ trên tháp canh, họ có thể bắn thẳng bằng súng máy, không phân biệt đúng sai. Chính vì vậy phải hết sức thận trọng. Chúng ta phải luôn sát cánh bên nhau. Cậu hãy cảnh báo cho những người Chechnya của mình.
Một lát sau họ ngồi xuống ăn. Thay cho lũ muỗi khát máu, bây giờ là lũ ruồi cũng khát máu và lì lợm không kém. Chúng trơ tráo bay vào mọi ngóc ngách và cắn rất đau, nhiều đến mức, nếu không cẩn thận chúng sẽ bay luôn vào mồm cùng với thức ăn.
Tsanka và các đồng hương của mình chỉ vừa mới chuẩn bị ăn thì có hai người xuất hiện: một người nhỏ bé, vai so, khuôn mặt méo mó, người kia cao ngồng, tóc hung, khuôn mặt đờ đẫn.
— Bọn trấn lột đến đấy. - Ông Shapovalov đẩy vào khuỷu tay Tsanka.
Không ai đứng dậy, thậm chí cũng không nhúc nhích, tất cả đều chờ sự phản ứng của Tsanka. Anh cẩn thận lấy từ trong ba lô ra gói mỡ cừu, mở lớp giấy báo thấm đầy mỡ ra.
— Phải nộp tất cả những thứ đó cho ông chủ. - Tên nhỏ con nói. - Nhanh lên. Ông chủ sẽ phân chia công bằng trên tình đồng chí.
Nói xong, hắn cười nham hiểm rồi nhìn lên tên tóc hung cao kều.
— Đúng thế! - Tên kia phụ họa theo.
Một tràng chửi rủa, văng tục, cả tiếng Nga và tiếng Chechnya vang lên nhằm vào những kẻ vừa đến. Có thể thấy rõ là chúng chỉ chờ có vậy, liền quay người, lầm bầm cái gì đó rồi bỏ đi. Nhưng không lâu, vài phút sau, năm, sáu tên khác xuất hiện, dáng vẻ tự tin, thậm chí xấc xược. Đi đầu là một tên da ngăm, giống như người Digan, vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh, tóc quăn màu đen. Nếu không tính đến cái bụng thì vóc dáng của hắn có thể coi là lý tưởng, nhìn vẻ ngoài, khoảng ba lăm - bốn mươi tuổi. Chẳng thèm khách sáo, hắn bước qua một người, lấy chân đạp một người khác, đứng ngay ở giữa. Mọi người bất giác đều đứng cả lên, chỉ trừ Tsanka và ông Shapovalov. Một khoảng im lặng.
— Có lẽ tốt hơn là nên chia cho họ. Chẳng nên gây rắc rối làm gì, ở đây hầu hết là người Nga. - Một người Chechnya dè dặt nói bằng tiếng mẹ đẻ.
— Không ba hoa nữa. - Thủ lĩnh mới đến cắt ngang bằng một giọng sặc mùi thuốc lá. - Gom tất cả lại rồi bỏ vào đây. - Vừa nói hắn vừa lấy chiếc ủng to láng bóng đá cái ba lô về phía Tsanka.
Tsanka vẫn ngồi im, cúi đầu. Vì quá tức giận nên cổ và mặt anh đỏ bừng lên rồi tái đi, các mạch máu hai bên thái dương và trên trán như phồng lên, hai cánh tay bắt đầu run lên. Cảm giác hoảng sợ, đau đớn, căm giận choán ngợp tâm trí Tsanka, đứng trước mặt là kẻ thù, cái bóng dáng cao lớn của hắn như trùm lên khắp người anh. Tsanka thầm nghĩ, chính cái bóng này đã đưa mình tới đây, đến vùng thảo nguyên xa xôi và rộng lớn này, và giờ đây đang tiếp tục nhạo báng anh, không cho anh ăn uống, không cho anh được sống tự do... Như một tia chớp, Tsanka bật dậy, giận dữ điên cuồng giơ hai cánh tay dài nổi đầy gân xanh túm vào cái cổ to tướng của tên kia, lấy hết sức vừa siết chặt hai tay vừa hét lên một tiếng man rợ, mắt nhắm lại, mặt biến dạng. Tsanka nhấc kẻ thù lên khỏi mặt đất, vừa bóp vừa rung lắc dữ dội theo nhịp đập. Một cơn run nhẹ chạy khắp cơ thể cao ngồng của Tsanka, từ chân lên tới đỉnh đầu, qua đôi tay và truyền vào người kẻ thù. Tên kia đưa hai tay bóp vào cổ Tsanka, muốn đẩy ra, nhưng chân hắn bị nhấc lên khỏi mặt đất, bất lực giẫy đạp trong không khí. Vì đau hay vì lý do nào khác, hắn cũng tuyệt vọng hét lên bằng một giọng khàn khàn, sau đó thở khò khè, khuôn mặt méo mó trong cơn đau đớn khủng khiếp, hai tay tuột xuống, buông thõng, rồi lặng im, lịm đi. Đúng lúc ấy, đôi chân của Tsanka cũng khụy xuống, ngã đè lên người tên kia. Tsanka thở nặng nhọc, khạc nhổ ra khỏi miệng cả máu lẫn dãi, đau đớn từ từ rút tay ra, chệnh choạng đứng dậy. Các bạn xúm lại đỡ anh, dìu sang một bên. Tất cả nhanh chóng tản ra, chỉ còn lại tên thủ lĩnh nằm dưới đất, cặp mắt đen lồi ra của hắn phản chiếu ánh nắng mặt trời...
Một ngày sau, mọi người trong trại bị gọi tên điểm danh từng người theo danh sách. Một không khí sôi động bao trùm khu trại. Sự lo lắng, tất bật lan từ những người bảo vệ sang cả phạm nhân. Không hiểu tại sao, tất cả mọi người đều có cảm giác hưng phấn, thậm chí hội hè nữa. Hóa ra, vào cái ngày hè đẹp trời ấy, tất cả mọi người đều đi đến một sự hiểu biết lẫn nhau, dung hòa với nhau một cách trọn vẹn. Những người tù bật cười thoải mái, ôm chầm lấy nhau, có người bật khóc, ôm hôn nhau, thậm chí còn trao đổi địa chỉ với nhau nữa.
Tsanka là một trong số những người đầu tiên bị gọi lên. Họ gọi theo từng nhóm khoảng một trăm, trăm rưởi người, bắt xếp hàng, kiểm tra theo danh sách. Ông Shapovalov và Tsanka ở cùng một đội. Hai người đứng cạnh nhau. Không hiểu tại sao tất cả mọi người đều đứng rất nghiêm. Hóa ra mọi người như muốn bày tỏ sự khâm phục, hối lỗi. Tất cả đều muốn về nhà. Họ có tội tình gì đâu!
Có một sự trục trặc gì đó đang diễn ra, mọi người lo lắng chạy ngược chạy xuôi, chỉ có một người tỏ ra dửng dưng với tất cả mọi chuyện. Người đó chậm rãi đi qua đi lại trước hàng người, mắt nhìn xuống đất. Đến cuối hàng, ông ta xoay một vòng trên gót ủng bốc-can như trong điệu nhảy. Đó là một người đàn ông mập mạp, thấp bé, đầu tóc gọn gàng, hàng ria mép màu đen chải dầu láng bóng và đôi kính gọng tròn, tay cầm chiếc gậy nhỏ bằng nhựa ebonit. Chiếc gậy này có thể thay cho cây gậy chống hoặc cây roi, và theo thói quen, ông ta cứ đập đập chiếc gậy vào ủng, trông rất điệu nghệ.
— Ionych, - ông Shapovalov nhìn ông kia rồi nói với Tsanka.
— Là sao? - Tsanka cúi xuống hỏi lại.
— Cậu đã đọc truyện ngắn “Ionych” của Chekhov chưa?
Tsanka, mặc dù chẳng hiểu gì cả nhưng vẫn gật đầu, ông Shapovalov mỉm cười.
Tất cả đều phải đứng nghiêm và báo cáo cho “Ionych”. Ông béo chậm rãi đi về phía cuối hàng. Giờ đây, ông tỏ ra quan tâm hơn khi ngắm nhìn các tù nhân. Ông nhẹ nhàng, thậm chí dịu dàng, chọc chọc chiếc gậy đen của mình vào ngực các tù nhân, rồi vừa đi dọc theo hàng người, vừa nói:
— Rừng là vàng, là củi, rừng là vàng, rừng, củi, vàng, vàng.
Tùy thuộc vào cách ông nhấn mạnh từ nào trong dãy từ ấy thì tù nhân bị phân ra thành ba hàng. Những từ được ông nhắc đến nhiều nhất là “rừng”, từ ít nhất là “củi”. Cuối cùng, “Ionych” đến trước mặt Tsanka. Ông gõ chiếc gậy vào ngực Tsanka mạnh hơn bình thường, rồi thích thú gõ nhẹ một cú nữa, nói:
— Vàng, vàng ròng!
Người tiếp theo là ông Shapovalov. Một thoáng im lặng. Ông béo nâng cặp kính lên, ngắm nhìn ông Shapovalov từ đầu đến chân.
— Anh bao nhiêu tuổi rồi? - Ông béo hỏi.
— Bốn tám.
— Khỏe mạnh chứ?
Ông Shapovalov im lặng nhún va