Con người
Auguste Comte cho rằng “nhân khẩu là số mệnh”. Sợi dây liên kết giữa mâu thuẫn chính trị và sự cân bằng về số lượng các nhóm đấu tranh quen thuộc với các nhóm sinh viên có mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo và những mâu thuẫn, khác xảy ở nhiều nơi trên thế giới. Ở bắc Areland, sự suy yếu dần của Đạo Tin lành là do đạo Cơ đốc ngày càng lớn mạnh, đó là một khía cạnh quan trọng về cuộc chiến giữa hai cộng đồng này cuối thập niên 1960. Ở Liên Xô cũ, sự gia tăng số lượng người nước ngoài, nhất là những người đến từ các nước không phải châu Âu nhanh hơn cả người Nga chính thống, phản ánh sâu sắc đời sống chính trị của Liên Xô trong những năm cuối. Ở Lebanon, từ năm 1943 - 1975, các chức vụ trong bộ máy chính trị được chỉ định theo số tín đồ của các nhóm tôn giáo khác nhau, điều đó chứng tỏ không thể tổ chức việc điều tra dân số vì như vậy tình trạng chính trị sẽ bị xáo trộn bởi những thay đổi về nhân chủng. Cuối cùng, số tín đồ Cơ đốc giáo giảm rõ rệt và sau cuộc nội chiến 15 năm đau thương, một chế độ mới xuất hiện trong đó sức mạnh chính trị của người Cơ đốc bị giảm bớt.
Vấn đề bắt buộc về nhân khẩu lý giải cho mâu thuẫn chính giữa người Israel và Palestine. Năm 1900, dân số Palestine không vượt quá nửa triệu người; nhưng đến năm 2000 đã có gần 10 triệu người Palestine sống trong khu vực giữa Địa Trung Hải và sông Jordan. Việc tăng dân số gấp 20 lần chỉ trong một thế kỷ có thể nói là một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới.
Sự thay đổi đó không chỉ đơn thuần về mặt con số mà còn làm thay đổi cả kết cấu của nó. Năm 1900, ở Palestine (một phần của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman bị người Hồi giáo thống trị) đạo Hồi chiếm đa số chỉ khoảng 1/5 dân số không theo Hồi giáo, khoảng 10% theo đạo Cơ đốc giáo và 10% là người Do Thái. Năm 2000, người theo đạo Cơ đốc chỉ chiếm một phần nhỏ và người Do Thái chiếm đại đa số, sự chiếm ưu thế đó phản ánh quyền thống trị và chủ quyền trong nước. Việc gia tăng dân số với tỷ lệ cao bất thường một phần do gia tăng tự nhiên, đặc biệt là người Arab theo Hồi giáo, nhưng nguyên nhân chính là sự nhập cư ồ ạt của người Do Thái.
Người Do Thái ban đầu buộc phải tiến về phía lãnh thổ của người Palestine. Họ được gọi là những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái (còn gọi là người Xion). Thực ra, qua toàn bộ giai đoạn nhập cư của người Do Thái hiện đại từ năm 1881, chỉ một thiểu số dân nhập cư là người theo chủ nghĩa Xion ở quê hương của họ. Trong suốt giai đoạn Anh thống trị Palestine từ năm 1917 tới 1948, sau này là nước Israel, người Do Thái nhập cư không còn phải cam kết theo chủ nghĩa Xion. Giống như tất cả các phong trào nhập cư, đây là một sự pha trộn giữa nước cũ và nước mới. Nhưng nếu khảo sát làn sóng aliya (người Do Thái nhập cư vào Palestine) diễn ra liên tục ta sẽ dễ dàng hiểu rằng đại đa số trường hợp nhập cư là do bị ép buộc hơn là tự nguyện. Chỉ một thiểu số dân nhập cư Do Thái là thành viên tích cực trong phong trào Xion trước khi họ đến Palestine/Israel. Thực ra, hầu hết họ tới đó chỉ vì những quốc gia khác không cho phép họ nhập cư.
Điều này đúng với hầu hết người Do Thái ở vùng miền trung châu Âu và Đức đã bỏ trốn tới Palestine sau khi Hitler lên nắm quyền lực năm 1933. Trước chủ nghĩa phát xít Đức, chủ nghĩa Xion ở Đức là một trong những đơn vị hoạt động yếu và người theo chủ nghĩa Xion đã tạo thành một cộng đồng thiểu số người Do Thái ở Đức. Rất đông người Do Thái bỏ trốn khỏi các nước Arab sau khi nhà nước Israel ra đời năm 1948. Trong những năm gần đây, Israel không ngừng nỗ lực tạo ra thế hệ Xion cho các cộng đồng dân Do Thái phương Đông. Hầu hết người Do Thái ở các vùng đất Arab tỏ ra thù địch hoặc vô cùng thờ ơ đối với chủ nghĩa Xion cho tói khi tình thế bắt buộc phải hành động. Vì thế, sau năm 1988, hơn một triệu người Do Thái từ USSR (Liên Xô cũ)/CIS (khối liên hiệp các quốc gia độc lập đối với Xô Viết) đến Israel. Hầu hết họ là dân nhập cư vì lý do kinh tế chứ không phải lý do chính trị, tạo thành làn sóng nhập cư người Nga gốc Do Thái giữa những năm 1971 và 1979. Tuy vậy hai điểm đến chính (cũng thường được yêu thích hơn) là Mỹ và Đức, nhưng hai nước này giới hạn số người nhập cư, do đó mới có làn sóng nhập cư vào Israel.
Tuy nhiên, nếu số người Do Thái tới Palestine và sau đó tới Israel không bị kết tội là người Do Thái theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái (chủ nghĩa Xion) thì hầu hết làn sóng nhập cư này được tái hư cấu là người Do Thái theo chủ nghĩa Xion.
Trong những năm gần đây, lịch sử đã chứng kiến nguồn tăng trưởng dân số chính ở Palestine không phải là do gia tăng tự nhiên mà là do nhập cư, người Arab không ít hơn người Do Thái. Những chuyên gia xã hội và kinh tế xác nhận tình trạng chậm tiến của Palestine trước khi người Do Thái nhập cư trong thập niên 1980 và nhấn mạnh rằng thời kỳ đó đất đai ở Palestine rất khô cằn và dân cư thưa thớt. Tranh luận do các nhà truyền giáo khởi xướng bùng nổ. Trong một cuốn sách bán chạy của Joan Peters xuất bản năm 1984, đề cập đến việc người Do Thái nhiều hơn tín đồ Hồi giáo ở Palestine vào cuối thế kỷ XIX và sự nhập cư của người Do Thái từ năm 1880 và 1948 song song, thậm chí nhiều hơn sự nhập cư của người Arab từ các vùng đất Arab xung quanh. Peters đã đi quá xa khi dựng lên lý thuyết “về âm mưu của các quan chức chính phủ Anh” ở Palestine, giữa giai đoạn cuối của thế chiến thứ nhất và 1948, giấu biệt dòng người Arab này trong khi hạn chế nghiêm ngặt sự nhập cư của người Do Thái. Các sử gia đễ dàng khám phá ra giả thuyết bóp méo sự thực này là do lạm dụng tài liệu [ịch sử và hiểu sai tài liệu điều tra dân số.
Diễn biến thực sự về tình hình nhân khẩu ở Palestine trong thời kỳ cuối của đế chế Ottoman được ghi chép rất khác nhau. Trong khi dữ liệu lưu lại rằng dân số Palestine trong những năm trước chiến tranh thế giới thứ nhất có thể được ước lượng một cách tin cậy với sai số hợp lý. Tuy nhiên chỉ có các công dân Ottoman mới được tính, còn người Do Thái và cộng đồng Thiên Chúa giáo (đạo Cơ đốc) thì không. Ngoài ra, còn có dân Beduin du canh du cư và dân Gipxi (Ấn Độ) được các lãnh sự quán nước ngoài cung cấp số liệu nhưng cũng chỉ là con số ước tính.
Những con số do Arthur Ruppin, lãnh tụ chủ nghĩa phục quốc Do Thái ở Jaffa từ 1908 tới 1914 cung cấp, được chấp nhân rộng rãi. Ông sinh ra ở Đức, là một trong những người sáng lập ngành nghiên cứu xã hội học hiện đại của người Do Thái. Ông có kiến thức sâu sắc về đất nước Do Thái và là một điều tra viên cẩn thận. Từ dữ liệu của chính phủ Ottoman cũng như những nguồn tin khác, ông tính rằng có 85.000 người Do Thái ở Palestine năm 1914, chiếm khoảng 12% trong tổng dân số khoảng 689.000 người, những con số sau này được nhà cầm quyền Anh đánh giá cao. Tuy nhiên, nhà nhân khẩu học của Ottoman là Justin McCarthy lại có cách tính khác. Ông tính dân số Do Thái năm 1914, dựa trên tất cả những cứ liệu sẵn có, nhỏ hơn con số của Ruppin đưa ra, chỉ khoảng 60.000, trên tổng dân số là 798.000. Kết quả của ông cũng khác với U.O.Schmelz quá cố, người đề xuất tổng dân số trong năm 1914 thấp hơn và số người Do Thái cao hơn, như vậy chúng ta phải lấy ước tính của Ruppin.
Do đó không có gì ngạc nhiên khi ấn phẩm của McCarthy được xuất bản ở một loạt Viện nghiên cứu Palestine (một chi nhánh của Tổ chức Giải phóng Palestine). Cựu thủ tướng Israel là ông Binyamin Netanyahu cũng không chỉnh sửa gì thêm và trong một cuộc họp của những người ủng hộ ông, ông đã hãnh diện khi trả lời phỏng vấn với đài CNN rằng cho tới khi người Do Thái bắt đầu quay lại thì nơi đây “không có một bóng người nào sinh sống cả”. Không có dữ liệu chính xác hơn các con số của Ruppin, đặc biệt là về số dân Do Thái, cho nên những con số ông đưa ra có lẽ được chấp nhận là sát với thực tế nhất.
Cuối thế kỷ XIX, chỉ có một thiểu số người Do Thái ở Palestine, thậm chí những người khai hoang thuộc chủ nghĩa dân tộc cũng chỉ chiếm một con số nhỏ bé, chủ yếu là người tị nạn từ nước Nga và từ Romania sau năm 1881. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong đó có một số người theo chủ nghĩa Xion như nhà văn Russo - Jewish (người Nga gốc Do Thái) và nhà tư tưởng Ahad Ha - am (Asher Ginzberg). Chỉ sau khi có quỹ tài trợ của Tổ chức Xion do Theodor Herzl sáng lập năm 1897 triển vọng của người Do Thái mới được cải thiện bằng sự động viên nhập cư một cách có hệ thống.
Sự vượt trội về nhân khẩu và sự lớn mạnh của chủ nghĩa Xion ở Palestine có thể xem là điều kiện cần thiết nhằm kiểm soát chính trị, là động lực thúc đẩy bản tuyên ngôn Balfour ra đời năm 1917, trong đó chính quyền Anh đảm nhiệm việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Nhà nước Do Thái ở Palestine. “Không xâm phạm các quyền về tôn giáo và dân sự của các cộng đồng không phải người Do Thái đang cư ngụ trên mảnh đất Palestine hoặc các quyền và tình trạng chính trị của người Do Thái ở bất cứ quốc gia nào”. Tại Hội nghị vì hòa bình ở Paris năm 1919, nhà lãnh đạo chủ nghĩa Xion là Chaim Weizmann, đã phát biểu về việc thu hút 70 hoặc 80 ngàn người Do Thái một năm. Mục đích tạo ra một cộng đồng người Do Thái đông đúc, lớn mạnh, từ 4 tới 5 triệu người. Kế hoạch đầy tham vọng của Weizmann ban đầu nhận được sự hỗ trợ của Winston Churchill - Bộ trưởng thuộc địa năm 1921 - 1922 và của Cao ủy Anh - Herbert Samuel, người điều hành Palestine từ năm 1920 đến 1925. Trong một lá thư riêng khi mới bắt đầu nhiệm kỳ, ông mong rằng mình có thể đảm nhận một nhiệm kỳ dài trong chính quyền Do Thái ở Palestine:
“Hiện thực thì như vậy, nhưng những biện pháp thực thi lại dẫn đến một tương lai khác, đó là nhập cư hạn chế và một kế hoạch thực dân hóa cẩn trọng. Trong 5 năm, lãnh thổ đã được mở rộng và tốc độ ngày càng tăng lên. Trong vòng 50 năm, số dân Do Thái có thể chiếm đa số. Sau đó bộ máy chính quyền phần lớn sẽ nằm trong tay người Do Thái, thế hệ sau có thể làm chủ vận mệnh đất nước Do Thái. Viễn tưởng đó, tương lai đó tiếp thêm sức mạnh, sự nhiệt tình, khiến tôi sẩn sàng hy sinh bản thân để hoàn thành công tác”.
National Home được thiết lập dưới sự bảo vệ của Hoàng gia Anh từ năm 1920 - 1948. Nó đóng vai trò quan trọng và nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Hoàng gia để đạt được chủ quyền bằng cách cho nhập cư nhằm tạo ra cộng đồng Do Thái đông đúc.
Nếu Weizmann đạt được các mục tiêu thì số nhân khẩu người Do Thái sẽ chiếm đa số trong vòng một thập kỷ. Samuel cũng không chậm trễ trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cư. Năm 1920, chính quyền thuộc địa Anh cấp 16.500 giấy chứng nhận (mỗi giấy chứng nhận cấp cho một chủ gia đình như một giây thông hành) đảm bảo cho 70.000 dân nhập cư có thể đến nơi này. Nhưng như Moshe Mossek chứng minh, người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái nhận thấy họ chỉ có thể đáp ứng một phần. Đầu tháng 10 năm 1920 họ yêu cầu kế hoạch giảm xuống chỉ còn 1.000, nhưng sau đó họ tự thấy cần thích nghi với một chính sách nhập cư chọn lựa nghiêm ngặt. Samuel thất vọng và phàn nàn với Weizmann rằng: “Ở đây rất cần một nhu cầu lao động đáng kể”. Năm 1922, người Anh giới thiệu các tiêu chuẩn “khả năng thu hút kinh tế” như là một nguyên tắc điều hành ảnh hưởng tới con số nhập cư của người Do Thái.
Giữa thập niên 1920, chính sách nhập cư có chọn lọc của người Xion nhanh chóng bị loại bỏ, khi một làn sóng dân nhập cư thuộc giai cấp tiểu tư sản từ Phần Lan chạy trốn cuộc khủng hoảng kinh tế ở quê hương đổ vào Palestine. Họ đã đến với tư cách là chính họ chứ không phải là “những nhà tiên phong theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái”. Việc chọn Palestine làm điểm đến do hệ quả của đạo luật Johnson ở Mỹ có hiệu lực từ năm 1924, hạn chế sự nhập cư ồ ạt tới Mỹ. Kết quả, năm 1929, số dân nhập cư không đạt được như phát biểu trong Hội nghị hòa bình của Weizmann và chính sách nhập cư ban đầu của Samuel. Chỉ có 100.000 dân nhập cư Do Thái đến đây, nâng số dân Do Thái lên 156.000, chiếm 16% tổng dân số của cả nước. Điều này khiến chủ nghĩa Xion thất vọng. Jewish Agency (cơ quan hoạt động hợp pháp của người Xion ở Palestine) tính rằng cả sự gia tăng tự nhiên lẫn nhập cư trung bình hàng năm của người Do Thái là 15.000. Đến năm 1949 số dân Do Thái sẽ đạt con số nửa triệu. Nhưng khi đó, dân số Arab, chỉ tính theo kết quả tăng tự nhiên cũng đã là 1,1 triệu. Tỷ lệ người Do Thái/Arab lúc đó là 30/70. Ông Haim Arlosoroff, trưởng Phòng chính trị của Jewish Agency, nhận xét: “Nếu chúng ta có thể đạt đến con số này trong vòng 20 năm tới, chắc chắn tất cả chúng ta có thể kỳ vọng”. Mặc dù ông nói thêm: “Thực tế, theo quan điểm của tôi, tỷ lệ như thế giữa hai nhóm sẽ thể hiện ưu thế thực sự về kinh tế, xã hội, văn hóa”. Tuy nhiên, ông Arthur Ruppin khi chia sẻ quan điểm về triển vọng nhân khẩu của Arlosoroff đã chỉ ra rằng muốn đạt tới con số như ông Arlosoroff nói phải mất từ 30 đến 40 năm nữa và đồng thời người ta hoài nghi phải chăng người Do Thái sẽ tiếp tục dựa dẫm vào sự giúp đỡ như thế từ chính phủ Anh.
Không lâu sau, khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu ảnh hưởng đến việc gây quỹ của chủ nghĩa Xion trong cộng đồng Do Thái. Năm 1931 doanh nghiệp của người theo chủ nghĩa Xion có phần suy yếu. Sau năm 1932, một làn sóng nhập cư khổng lồ do chạy trốn chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu, đặc biệt là ở Đức và Phần Lan, dẫn đến tỷ lệ dân số bất ngờ tăng đột biến (hình 1).
.