← Quay lại trang sách

- 2 -

Mặc dù chính quyền thuộc địa Anh không giống như đế chế Ottoman, đưa ra nhiều con số thống kê dân số tương đối đáng tin cậy và đó là những con số cao ngất ngưởng. Điều tra dân số hiện đại đầu tiên được thực hiện vào năm 1922, tổng dân số lúc đó là 757.000, trong đó có 84000 người Do Thái, chiếm 11% dân số (hình 2). Điều này đã làm cho những người theo chủ nghĩa Xion thất vọng. Nhưng cuộc điều tra dân số đó cũng có thiếu sót, vì người Beduin ở quận Nam từ chối tham gia cuộc điều tra dân số, vì họ lo ngại bị cưỡng bách tòng quân và bị đánh thuế như trước đây. Kết quả chỉ có “trưởng thôn cung cấp thông tin”, đó là con số 73.000 dân, một con số sau này chính quyền thuộc địa khẳng định là con số phóng đại. Thực tế nó chỉ khoảng 45.000.

.

Nguồn tin duy nhất đáng tin cậy về nhân khẩu học của Palestine dưới thời Anh cai trị là báo cáo điều tra dân số năm 1931 gồm hai tập. Đây là cuộc điều tra dân số có tính khoa học, đáng tin cậy. Nó được thực hiện trong giai đoạn tình hình chính trị căng thẳng đang kìm nén, sắp bùng phát ở Palestine và các hồ sơ chính thức cho thấy chính phủ phải tế nhị vì e đụng chạm đến tính nhạy cảm của các thành phần khác nhau trong dân số.

Để đảm bảo công việc, chính quyền quyết định thiết lập một ủy ban tư vấn phi chính thức. Nhưng những nhà lãnh đạo chủ nghĩa dân tộc Arab nhất quyết rằng họ sẽ tham gia chỉ khi số người đại diện trong ủy ban tương ứng tỷ lệ người Arab/Do Thái là 4/1. Người Do Thái cũng giáng trả những đòn phản hồi không kém trong ủy ban hỗn hợp bao gồm cả người Do Thái và Arab này. Do đó chính quyền buộc phải thành lập hai ủy ban, một của người Do Thái và một của người Arab. Giám đốc cuộc điều tra dân số, Eric Mills, một quan chức Bộ thuộc địa, được Cao ủy John Chancellor tiến cử nhờ khả năng giải quyết các vấn đề của ủy ban.

Chẳng hạn, ủy ban Arab nhấn mạnh nên đếm cả số dân Palestine đang sống lưu vong ở nước ngoài, vì trước đó đã có rất nhiều người di cư sang Nam Mỹ. Người Arab cũng yêu cầu khi tiến hành điều tra dân số nên phân biệt theo tiêu chí quốc tịch và tôn giáo. Trong một báo cáo ngắn gọn của ông về vấn đề điều tra dân số, Mills ghi chú như sau:

Thực tế, cộng đồng Do Thái là một “dân tộc”. Ý thức về sự tồn tại của “dân tộc” này đẫn các cộng đồng tôn giáo không phải là người Do Thái tới một khái niệm mơ hồ về “dân tộc” Arab.

Người Arab yêu cầu việc điều tra dân số phải nêu ra một câu hỏi xác định dân tộc Arab và chính phủ cuối cùng như Mills nói: “Nên tạo cơ hội trong cuộc điều tra dân số cho tất cả những người tham gia để khẳng định quyền “dân tộc” nếu họ muốn”.

Về phần người Do Thái, họ đề xuất đưa vào bất kỳ câu hỏi nào có liên quan đến “tình trạng không có ruộng đất” hoặc “thất nghiệp”. Họ e rằng việc mua đất đai của họ đang dẫn đến kết quả thay thế người nông dân Arab. Trong khi đó, Vladimir Jabotinsky và phong trào Xion xét lại chủ nghĩa dân tộc cực đoan, kêu gọi người Do Thái tẩy chay cuộc điều tra dân số trên nền tảng mục tiêu của cuộc điều tra là “chứng tỏ rằng người Do Thái chỉ là một thiểu số không đáng kể”, nhằm chuẩn bị cho việc thiết lập chính phủ “ để đàn áp chủ nghĩa Xion”.

Trong bối cảnh đó, đông đảo dân chúng tham gia cuộc điều tra dân số, ngoại trừ người Beduin, cho rằng số dân của họ một lần nữa chỉ được ước lượng. Đây là cuộc điều tra dân số được dự định là cuộc điều tra đầu tiên trong loạt điều tra 5 năm một lần. Nhưng cùng với nó là mối lo ngại của chính phủ về cuộc nổi dậy quy mô lớn của người Arab từ năm 1936 tới 1939, theo sau là cuộc chiến tranh và sau nữa là cuộc nổi loạn của người Do Thái thời hậu chiến, ngăn ngừa việc tổ chức bất kỳ cuộc điều tra dân số nào nữa trước khi kết thúc thời kỳ thuộc địa lệ thuộc. Do vậy, cuộc điều tra dân số năm 1931 là cuộc điều tra có tính khoa học duy nhất được thực hiện ở Palestine trong thời kỳ thuộc địa. Thực ra, với sự chia cắt sau đó của đất nước, một cuộc điều tra dân số duy nhất như thế đã từng được thực hiện trên toàn vùng phía tây của Jordan.

Một trong những phát hiện quan trọng nhất là bộ dữ liệu có liên quan đến tỷ lệ sinh tử. Sau cuộc điều tra dân số, cuối năm 1931 người ta phát hiện dân Palestine có khả năng sinh sản bất thường (hình 3). Tỷ lệ sinh của dân Hồi giáo Palestine năm 1931 là 53/1000, cao hơn nhiều so với người Do Thái là 32/1000. Cả hai đều rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế thời đó. Người Hồi giáo Palestine trong giai đoạn này có tổng tỷ lệ sinh cao hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thậm chí tỷ lệ người Do Thái trong giai đoạn 1926 - 1935 vượt trội hơn so với bất kỳ quốc gia châu Âu nào, ngoại trừ Romania và Bồ Đào Nha. Trong một bản ghi nhớ do Mills chuẩn bị năm 1934, ông đã cảnh báo về vấn đề này. Trung bình trẻ sinh ra còn sống sót trong một gia đình Hồi giáo là hơn 8,5; người theo đạo Cơ đốc là 8 và người Do Thái là 6,7. Sự tăng trưởng dân số giảm phần nào do tỷ lệ trẻ tử vong cao (tỷ lệ trẻ tử vong bằng với Ấn Độ). Sự gia tăng tự nhiên của người Do Thái có thể sánh với sự gia tăng tự nhiên của người Arab tới một mức độ nào đó, vì tỷ lệ tử vong ở người già và trẻ sơ sinh Do Thái thấp hơn. Tuổi thọ của người Hồi giáo năm 1931 là 42, có thể so với người Anh và người xứ Wales ở thập niên 1870, trong khi của người Do Thái Palestine là 60, tương tự ở Anh năm 1931.

.

Người Xion được đặc biệt quan tâm trong thập niên 30, đây là thời kỳ số dân Do Thái giảm sút vì xu hướng giảm sinh, cùng lúc ở các nước Tây Âu xuất hiện hiện tượng “quá độ nhân khẩu”. Vì vậy một trong những nguyên nhân chính của người Xion về chính sách nhập cư có chọn lựa của họ là ưu tiên cho những người đang trong độ tuổi sinh nở.

Chính phủ cũng tham gia vào những tính toán như vậy cụ thể là sau khi cuộc khởi nghĩa của người Arab bùng nổ. Sau cuộc họp của Hội đồng Hoàng gia năm 1936 về vấn đề Palestine, ông Mills chuẩn bị biểu đồ dự kiến tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên hiện tại, cộng với các mức độ nhập cư của người Do Thái. Kết quả (hình 4) cho thấy tỷ lệ dân số Arab/Israel khi ấy là khoảng 7/3, số dân nhập cư là người Do Thái hạn chế xuống còn 12.000 người một năm. Cuối năm 1938, ông Mills được đề nghị tính toán lại để nâng mức nhập cư lên khoảng 15.000 người mỗi năm. Do đó, con số 75.000 người là do chính phủ đưa ra vào tháng 5 năm 1939 để giới hạn số dân Do Thái nhập cư trong 5 năm tiếp theo. Mặc dù một quan chức có tên J.S.Bennett, - Một người rất nhiệt tình ngăn chặn người Do Thái rời khỏi châu Âu, đã lo lắng về “việc có thể kế hoạch hoá gia đình của người Do Thái đang tạm thời ngưng lại”. Những kế hoạch của Mills vạch ra với mục đích phát triển nhân khẩu cho thập niên tiếp theo. Nhưng dân số Do Thái cũng chỉ tăng, khoảng 1/3 tổng dân số (khoảng 2 triệu) vào cuối thời kỳ thuộc địa.

.

Tất nhiên, những sự kiện kịch tính của cuộc chiến giành độc lập của người Israel giai đoạn 1947 - 1949 đã làm biến đổi sự cân bằng nhân khẩu. Người Do Thái dần dần mua đất đai của người Arab, sau đó là sự trở về hàng loạt của những người Do Thái sống sót ở châu Âu thời Hitler và người Do Thái tị nạn từ các quốc gia Arab. Chỉ khoảng 150.000 người Arab ở lại, phần còn lại đã trốn thoát dưới áp lực của Israel. Ít nhất có 700.000 người tị nạn đã rời Palestine để tới Transjordan, Syria, hay Lebanon. Nhưng phần lớn chọn dải Gaza do người Ai Cập chiếm đóng và ở vùng CIS - Jordanian được gọi là Bờ Tây. Năm 1952, dân Do Thái ở Israel là 1,4 triệu, hơn số dân Arab ở Palestine thời thuộc địa trước đó khoảng 1,2 triệu.

Trong thập niên 50 và đầu 60, các nhà lãnh đạo Israel có xem xét đến khả năng chiếm đóng Bờ Tây. Năm 1954, Thủ tướng Israel Moshe Sharett từng bày tỏ quan niệm như sau: Chúng ta hãy giả sử rằng chúng ta chinh phục mảnh đất còn lại của người Palestine tới sông Jordan, tôi cho rằng một cuộc chiến tranh như thế sẽ không dẫn đến sự di cư tương tự như người Arab trước đó... Tôi chắc chắn việc thôn tính Bờ Tây với khoảng 1 triệu dân sẽ đồng nghĩa với việc cải thiện đáng kể ở các biên giới của chúng ta, chúng ta có khả năng tự bảo vệ.

Năm 1967 Israel đã chiếm đóng những vùng đất này sau chiến thắng chớp nhoáng. Một sự di cư nữa xảy ra với quy mô khoảng 200.000 dân từ Bờ Tây sang Bờ Đông. Kết quả là cuối năm 1967, còn khoảng 1,2 triệu người Arab sinh sống ở Bờ Tây và dải Gaza dưới ách thống trị của người Do Thái. Khi đó, dân Do Thái chiếm khoảng 2/3 tổng dân số trong vùng đất đặt dưới quyền cai trị của người Israel. Năm 1985 tỷ lệ đó thu hẹp còn 63/37. Ông Ya Arafat, lãnh tụ Tổ chức giải phóng Palestine đã nói về một “quả bom nhân khẩu”. Sari Nusseibeh, một trí thức Arab ở Jerusalem theo đường lối chính trị ôn hòa nói thêm: “Sinh thêm em bé vẫn chưa đủ... Quả bom nhân khẩu sẽ không bao giờ nổ nếu không có kíp nổ. Kíp nổ sẽ là điều kiện đòi quyền bình đẳng”. Lời phát ngôn này vào tháng 10 năm 1987, nhiều tuần lễ trước khi bùng nổ cuộc chiến Intifada (cuộc chiến ném đá hay dùng đá làm vũ khí) đầu tiên của người Palestine.

Năm 2004 dân số Palestine ở Bờ Tây và dải Gaza là 3,4 triệu, dân số Arab tăng lên 1,3 triệu, người Do Thái khoảng 5,2 triệu, tổng cộng dân số ở đây khoảng gần 10 triệu.

Tuy nhiên, người ta vẫn thích việc tăng trưởng dân số một cách tự nhiên. Từ năm 1988, hơn 1 triệu người Do Thái từ Liên Xô cũ nhập cư ồ ạt, nhưng tỷ lệ tăng tự nhiên trung bình từ 16% (1980) tới nay là 19%, tỷ lệ sinh trung bình của mỗi phụ nữ Do Thái gốc Israel đã giảm khoảng 2,5; phụ nữ Hồi giáo gốc Israel là 4,7. Mặc dù tỷ lệ gia tăng tự nhiên của người Arab gốc Israel cao hơn người Do Thái gốc Israel, nhưng người Palestine trong các lãnh thổ bị chiếm đóng còn cao hơn nữa. Trong thập niên 30, phụ nữ Palestine là một trong số những đối tượng có khả năng sinh nở lớn nhất trên thế giới, gần một nửa trong số họ ở Bờ Tây và dải Gaza không sử dụng bất cứ phương tiện ngừa thai hiện đại nào. Trung bình, mỗi phụ nữ có sáu đứa con. Ngày nay mức độ tử vong ở trẻ và tuổi thọ đã gần đạt đến tiêu chí của người Tây Âu. Do đó người Do Thái Israel phụ thuộc chủ yếu vào sự nhập cư đột biến nếu muốn duy trì tình trạng dân số hiện nay.

Nhưng từ đầu thập niên 1990 đến nay, làn sóng nhập cư vào Israel đã giảm. Lý do chính không phải là hệ quả của Intifada mà do người Do Thái tiếp tục ở lại Iran, nguồn nhập cư tiềm năng trong tương lai của người Do Thái vào Israel đã thực sự cạn kiệt. Gần nửa triệu người Do Thái vẫn ở lại các nước cộng hòa thuộc Xô Viết trước đây, con số nhập cư cao ngất ngưởng vào Israel đầu thập niên 90 đã giảm xuống. Sự khủng hoảng kinh tế ở Argentina năm 2002 mang lại sự nhộn nhịp thú vị về aliya (người Do Thái bắt đầu định cư ở Palestine) tuy chỉ xảy ra trong thời gian ngắn với 235.000 người Do Thái của đất nước này. Jewish Agency, một người Do Thái cùng chính phủ Israel đã nỗ lực thuyết phục họ quay về Israel. Trước tình thế đó, hầu hết dân Do Thái không chịu di chuyển chỗ ở; những người còn lại thì thích tới Bắc Mỹ hay Tây Ban Nha hơn là quay lại Israel.

Hơn nữa, Israel cũng giống như mọi quốc gia nhập cư khác tỷ lệ dân Do Thái di cư sang nước khác cũng là con số đáng kể. Việc có người thân ở nước ngoài, mong muốn được hưởng nền giáo dục hiện đại tiên tiến... khiến cho việc quyết định di cư của họ trở nên dễ dàng hơn. Vào tháng 11 năm 2003, một quan chức của Bộ kêu gọi nhập cư nói với ủy ban hội đồng lập pháp của Israel rằng ước tính có khoảng 760.000 người Israel sống ở nước ngoài so với 210.000 người vào năm 2000. Theo báo cáo, có khoảng 60% dân di cư tới Bắc Mỹ. Có lẽ báo cáo này có phần phóng đại, nhưng ít nhất có 200.000 người Israel hiện sống ở Mỹ và 10.000 người sống ở các quốc gia khác như Đức, Hà Lan, Nam Phi. Hầu hết họ di cư vì lý do kinh tế. Từ năm 2000 tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp ở Israel gia tăng, nhất là trong khu vực kỹ thuật cao, dẫn đến có nhiều người đi tìm việc làm ở xứ khác. Nếu tình trạng suy thoái tồi tệ hơn thì số người đi di cư sẽ còn tăng, mức độ bạo động chính trị vì thế cũng sẽ tăng lên.

Tương phản với bối cảnh này, nhà nhân khẩu học Israel, giáo sư Arnon Soffer thuộc đại học Haifa, đã gióng lên hồi chuông báo động, ông gọi đó là “ngày tận thế nhân khẩu”. Vào tháng 7 năm 2001 ông cảnh báo với ủy ban quốc phòng và đối ngoại Knesset (Hội đồng lập pháp người Israel) rằng vào năm 2020 người Do Thái có thể chỉ chiếm 42% tổng dân số ở Israel, Bờ Tây và dải Gaza. Thậm chí, ông tiên đoán người nước ngoài sinh sống ở Israel sẽ chiếm gần 1/3 dân số, hiện Israel đang đứng trước “mối đe dọa tồn vong”.

Những tiên đoán như vậy đã nuôi dưỡng chương trình chính trị của cả phe cánh tả và cánh hữu ở Israel. Ran Cohen, một thành viên của Hội đồng lập pháp Do Thái, đại diện cho phe cánh tả Đảng Meretz, nhận xét những con số của Softer mang “yếu tố quá khích”. Nhưng ông tranh luận rằng chính những con số này chứng minh: “Quan điểm về một Đại Israel về nền dân chủ là mối nguy hiểm cho Israel”. Một thành viên Hội đồng lập pháp người Arab lên án việc thảo luận như vậy là “phân biệt chủng tộc” và một tờ báo Ai Cập có tên Al - Ahram đề nghị cuộc tiếp xúc như vậy có thể là một khúc dạo đầu cho “sự di chuyển” của người Arab ra bên ngoài Jordan.

Ý tưởng này do cựu thiếu tướng Affi Eitam đưa ra trong một cuộc thảo luận với nhóm chuyên gia cố vấn chiến lược ở Herzliya vào tháng 12 năm 2001, trong đó có sự tham gia của ông Soffer. Eitam là một thành viên của Đảng Tôn giáo Quốc gia, sau đó trở thành lãnh tụ và Bộ trưởng cơ sở hạ tầng Quốc gia trong nội các Ariel Sharon năm 2002. Là một người hay lớn tiếng với quan niệm “chuyển đổi” theo cuộc trưng cầu dân ý tháng 3 năm 2002 ông được không ít hơn 46% dân Do Thái Israel yêu mến. Soffer không đơn độc một mình. Sergio Della Pergola thuộc đại học Jerusalem của người Hebrew, có thể nói là nhà nhân khẩu hàng đầu Israel cũng có những suy đoán như Soffer. Õng Sergio tính toán thậm chí nếu Israel rút lui khỏi mọi lãnh thổ chiếm đóng, thì vẫn có một số lượng lớn dân số không phải là người Do Thái nhập cư trong vòng 50 năm tồn tại. Điều này có thể dẫn đến mâu thuẫn chính trị, nội bộ lủng củng nghiêm trọng và chia rẽ Israel.

Tất nhiên, các nhà nhân khẩu cảnh báo rằng: Hầu hết dự đoán về dân số, nhất là những dự đoán tầm xa có tính mạo hiểm và được xem xét về khía cạnh lịch sử đều chưa chính xác, nhưng không vì thế mà ngăn chặn những lời nhận xét này. Những tiên đoán được đưa ra dựa trên các yếu tố khá ổn định: Sự nhập cư ồ ạt của người Do Thái vào Israel là một hiện tượng của quá khứ, đại đa số cộng đồng người Do Thái bây giờ sống trong nền dân chủ tự do và ôn định với thu nhập quốc gia tính trên đầu người cao hơn nhiều so với Israel. Mặc dù vậy người Palestine vẫn đông hơn rất nhiều so với người Do Thái ở Palestine/Israel.

Nói cách khác, chủ nghĩa Xion đang trong quá trình vận động chạy đua nhân khẩu. Chương sau chúng ta sẽ xem xét sự thất bại của nó trên diện rộng về bối cảnh kinh tế - xã hội, địa lý - sinh thái, văn hóa - chính trị.