← Quay lại trang sách

- 3 -

Năm 1967 chiến tranh giữa Israel - Arab đã đẩy mạnh vấn đề chia cắt chương trình nghị sự chính trị một lần nữa. Vào ngày 19 tháng 6, một tuần sau khi kết thúc chiến tranh, chính phủ “thống nhất quốc gia” (trong đó có ông Menahem Begin), Israel nhất trí quyết định đề nghị rút lui khỏi Sinai và Cao nguyên Golan. Ngay từ lúc đầu, thái độ Israel về Bờ Tây là khá nước đôi. Giai đoạn đó Israel nắm giữ phía Đông Jerusalem. Đầu năm 1968, thủ tướng Levi Eshkol tổ chức một loạt các cuộc đàm phán với những nhân vật Arab đến từ Bờ Tây, trong đó ông bắt đầu từ ý tưởng tự trị của người Palestine, nhưng không dám hành động độc lập tách rời Jordan hay Tổ chức tự do Palestine có tiếng nói ngày càng tăng.

Hiệp ước quốc gia của Palestine năm 1964 đã bác bỏ mọi ý niệm về sự chia cắt đất nước. Palestine tuyên bố: “Biên giới Palestine trong thời thực dân Anh là một đơn vị lãnh thổ không thể chia cắt” (lấy các biên giới được đế quốc Anh vẽ lần đầu tiên trên bản đồ). Hiệp ước bổ sung thêm: “Việc chia cắt đất nước Palestine năm 1947 và việc thành lập nhà nước Israel là hoàn toàn bất hợp pháp, vì chúng trái với ý nguyện của dân Palestine và quyền lợi tất yếu của họ trên quê hương mình và mâu thuẫn với những nguyên tắc trong hiến chương của Liên hiệp quốc, nhất là quyền tự quyết”.

Mặc dù vẫn dựa vào các lãnh thổ chiếm đóng như là một vật làm tin trong cuộc đàm phán với các nhà nước Arab nhưng chính phủ Israel sau năm 1967 đã đề ra một chính sách định cư rất cẩn trọng mà Allon là người khởi xướng (bản đồ 14). Đề xuất này được trình bày lần đầu vào ngày 27 tháng 7 năm 1967 trước nội các, đã ảnh hưởng đáng kể đến tư duy về mặt địa lý của người Israel. Yigal Allon, khi còn là phó thủ tướng, đã đặt ra kế hoạch chia cắt đất nước với hai nguyên tắc cơ bản; nguyên tắc thứ nhất là tạo ra một vùng đệm phòng thủ do bất hòa với Jordan. Thứ hai là điều chỉnh lại biên giới phía Đông của nước này, đặc biệt là sát nhập Đông Jerusalem, mở rộng vành đai Jerusalem. Ý thức về những nguy hiểm liên quan đến bất kỳ yêu cầu sát nhập nào của các khu vực có phần Đông dân Palestine, nên Israel vạch ra quyền tự quyết của Palestine theo phần lớn khu vực đồi núi có dân cư ở Bờ Tây. Tuy vậy, người Palestine sẽ không chấp nhận một kế hoạch như thế mà không có sự tán thành của PLO nên Allon đành phải sửa lại kế hoạch. Khu vực này ban đầu đánh dấu quyền tự trị sẽ được quay lại với Jordan, sau đó là dải hành lang nối với phía Đông và Tây sông Jordan. Tháng 9 năm 1968 ông Allon và Bộ trưởng ngoại giao Israel là Abba Eban đã bí mật diện kiến vua Hussein xứ Jordan ở London và bắt đầu đề cập kế hoạch, nhưng quốc vương Jordan phản đối thẳng thừng.

.

Tuy nhiên, Allon vẫn duy trì chính kiến của chính phủ Israel về Bờ Tây mãi tới thập kỷ tiếp theo. Việc xây dựng các quận dân cư Do Thái mới bị hạn chế nhiều đối với khu vực phía Đông Jerusalem và các khu vực đánh dấu sự sát nhập của Israel trong tương lai. Nó bao gồm một phần lớn khu vực thành Jerusalem và thung lũng Jordan. Ngoài Jerusalem chỉ có 24 khu có tổng số dân là 5.000 người được thiết lập ở Bờ Tây trong suốt thập kỷ đầu tiên chiếm đóng, những khu khác được thiết lập ở bán đảo Sinai và trên cao nguyên Golan.

Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn này có một sự chuyển đổi hồi sinh, đó là sự đoàn kết giữa chủ nghĩa Xion xét lại và chủ nghĩa Xion tôn giáo (bị khích động do chiếm bức tường phía Tây và ngôi thành cổ Jerusalem). Hai dòng tư tưởng liên kết với nhau tạo thành vùng đất gọi là “phong trào Israel” (mang tư tưởng một “khối trung thành”). Từ năm 1968 trở đi một số nhóm nhỏ mộ đạo “Đại Israel” cố gắng thiết lập các vùng định cư ở Bờ Tây, cụ thể là ở những nơi tôn giáo đóng vai trò quan trọng và được nhận diện là “những vùng đất thánh” của người Do Thái (mặc dù khái niệm này xa lạ với đạo Do Thái). Kết quả chỉ trong vòng vài năm số vùng đất như thế “mọc nhanh như nấm sau cơn mưa rào”. Hebron là một phong trào cụ thể, thứ nhất vì nó là một trong bốn thành phố thánh truyền thống của vùng đất Israel, thứ hai vì ký ức của cuộc tàn sát người Do Thái năm 1929 và sự kiện gây tổn thương là thu hồi quyền thừa kế của cộng đồng Do Thái định cư từ lâu đời. Tháng 4 năm 1968 Rabbi Moshe Levinger, người theo chủ nghĩa dân tộc tín ngưỡng bạo lực và một nhóm nhỏ các thành viên định cư ở Hebron từ chối việc di dời. Cuối cùng, chính phủ đầu hàng và đồng ý thiết lập khu định cư Do Thái Kiryat Arba gần thành phố. Nhưng quyết định quan trọng này đã bị lãng quên một cách cay đắng và bất công.

Sau cuộc tuyển cử năm 1977 của chính phủ thống trị đầu tiên Israel do Menahem. Begin lãnh đạo, việc định cư được đẩy mạnh hơn (bản đồ 15). Lúc này, vấn đề thiết thực là chính sách lôi kéo các khu định cư Do Thái ở tất cả các lãnh thổ chiếm đóng, chủ yếu được những người đóng thuế Israel tài trợ và họ khích lệ thanh niên đến với họ.

.

Tuy nhiên sự phát triển của các khu định cư Do Thái trong thập niên 80 ở trung tâm của Bờ Tây vẫn không thể so sánh với các khu gần Tel Aviv và Jerusalem (là cộng đồng ngoại ô do doanh nghiệp đầu tư phát triển chứ không phải là khu định cư nông nghiệp được tạo ra bởi phong trào do hệ tư tưởng “khối trung thành” định hướng). Cư dân trong cộng đồng này đầy năng lực sáng tạo, họ quan tâm đến kinh tế nhiều hơn là chính trị, chẳng hạn như vấn đề nhà ở rẻ, đi đến các trung tâm thành thị lớn thuận tiện, họ luôn quan tâm đến các mục quảng cáo trên báo, mục cung cấp những căn hộ rẻ tiền “chỉ cách Kfar Saba 5 phút” (một thị trấn Israel gần “đường biên giới xanh” - Đường biên giới đình chiến trước năm 1967).

Thỏa thuận “Oslo II” giữa Israel và Palestine năm 1995 biến đổi bản đồ của Bờ Tây thành “cái thớt dùng để cắt phó mát” hay một “bản đồ chống lại chủ nghĩa hiện đại, phân chia bừa bãi các vùng đất Palestine và Israel, các vùng này bị các vùng đất khác, các con đường vòng và các nút lãnh thổ gián đoạn bao quanh”(bản đồ 16). Thỏa thuận này được cả hai bên công nhận như là một giai đoạn chuyển tiếp và suy đoán Israel sẽ rút lui, từ đó nhà nước Palestine sẽ ra đời. Tuy nhiên, theo kế hoạch của Israel thì chỉ phát triển các khu định cư mới, chứ không phát triển các khu định cư đang tồn tại. Phe cánh hữu Binyamin Netanyahu trong những năm từ 1996 đến 1999 quyết định không giới hạn các khu định cư mới ở Jerusalem, trên cơ sở đó phát triển vấn đề nhà ở được thiết lập trong phạm vi biên giới thành thị (được mở rộng sau Cuộc chiến sáu ngày). Chính phủ do Đảng Lao động của Ehud Barak đứng đầu trong giai đoạn 1999 - 2001 tiếp tục mở rộng khu định cư với tốc độ chóng mặt và duy trì thuế cùng những động cơ khác khuyến khích người định cư.

.

Thậm chí sau khi chiến tranh Intifada thứ hai bùng nổ, vân đề định cư tiếp tục phát triển mặc dù tốc độ có phần chậm lại. Dân Do Thái tiếp tục di chuyển vào khu định cư, thậm chí những người sống trong các vùng xa xôi hẻo lánh hơn của Bờ Tây vẫn thường được kỳ vọng là sẽ sơ tán để trở thành thành viên của nhà nước Palestine. Một ví dụ là sự định cư tôn giáo của Shavei Shomron (“những người quay lại Samaria’” phía Bắc Nablus, lần đầu thiết lập theo hệ tư tưởng “khối trung thành” năm 1978), những cư dân mới tới đó trong năm 2002 gồm một số dân nhập cư gần đây từ CIS, trong số những người chuyển sang đạo Do Thái trước năm 2002 có gần 200.000 người sống ở 242 khu định cư ở Bờ Tây (không tính Jerusalem) và 19 khu định cư ở dải Gaza cũng như những nơi khác ở Cao nguyên Golan.

Tạm thời chúng ta hãy bỏ qua một bên các định kiến và đặt câu hỏi với tư cách là người theo thuyết duy thực chính trị: Liệu có khả thi không khi một nhà nước có thế mạnh quân sự chiếm đóng lãnh thổ của một nước láng giềng bất chấp dư luận, bất chấp luật pháp quốc tế? Trong một số tình huống điều này là có thể. Năm 1974 Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng hơn 1/3 lãnh thổ Cyprus. Khoảng 200.000 dân Cypriot Hy Lạp bị trục xuất khỏi phía Bắc Cyprus. Điều tất yếu là Thổ Nhĩ Kỳ phải gánh chịu những bất lợi ngoại giao trong khi vấn đề Cyprus vẫn chưa được giải quyết. Tháng 12 năm 2002, lần đầu tiên Liên hợp quốc đưa ra các đề xuất về một nhà nước liên bang, một viễn cảnh thỏa thuận nghiêm túc nhưng bị các Cypriot Hy Lạp phản đối trong một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 4 năm 2004. Chẳng có quan sát viên nào dám đề xuất việc dân định cư trước năm 1974 quay trở về Thổ Nhĩ Kỳ.

Liệu Israel có thể hy vọng vào sự thành công tương tự trong vấn đề định cư? Trường hợp Cypriot cho thấy về nguyên tắc nó có thể thực hiện được. Nhưng khi xem xét cẩn trọng những khác biệt chính giữa hai trường hợp về nhân khẩu, địa lý và xã hội sẽ dẫn tới một kết luận khác. Cyprus chứng kiến một quá trình mà bây giờ chúng ta gọi là thanh lọc sắc tộc. Hầu như không có người Thổ Nhĩ Kỳ nào hiện còn sống ở phần bán đảo Thổ Nhĩ Kỳ hay người Thổ Nhĩ Kỳ ở phần đất Hy Lạp. Người Thổ Nhĩ Kỳ cũng không bị hạn chế về mặt dân số. Trong khi đó ở Bờ Tây và dải Gaza có khá đông người Palestine cư ngụ (hơn 99% ở dải Gaza và hơn 90% ở Bờ Tây).

Tuy nhiên, sự phân bổ dân Do Thái ở Bờ Tây và dải Gaza không cân bằng (bản đồ 15). Đại đa số dân định cư sống ở khu vực mở rộng phía Đông Jerusalem (khoảng 175.000) hoặc trong các khu định cư trung tâm Jerusalem (73.000) hoặc trong các vùng đồi núi phía Tây Bờ Tây (khoảng 85.000). Do đó, hơn 80% dân định cư sống ở hoặc xung quanh Jerusalem hoặc phía Tây Bờ Tây. Đại đa số dân định cư Do Thái ở Bờ Tây, thậm chí cả khu ngoại ô Do Thái mới ở Jerusalem là khu thị tứ, cũng chỉ một thiểu số, chủ yếu sống trong thung lũng Jordan, họ sống bằng nông nghiệp. Nhiều dân định cư, nhất là quanh Jerusalem và ở các khu phía Tây Bờ Tây làm việc ở Israel.

.

Các khu định cư nằm rải rác trong các vùng đất nhỏ bị bao quanh bởi nhiều vùng đất của người Palestine. Riêng dải Gaza có 19 khu định cư Israel với tổng số dân là 6.500 người, bị bao bọc bởi 1 triệu người Palestine (bản đồ 17). Khu định cư Do Thái nằm trên một số đảo của Bờ Tây. Cạnh Jenin với dân số 42.000 người có hai khu định cư Do Thái với dân số là 300. Gần Nablus, tổng dân số (bao gồm những ngôi làng ngay kế bên và các trại tị nạn) là 158.000, vùng này cũng có các khu định cư Do Thái ít hơn 7.000 dân. Và ở trung tâm Hebron có dân số khoảng 140.000, trong đó khu định cư Do Thái có khoảng 400 dân. Ngoài ra các vùng đồi núi trung tâm của Bờ Tây có khoảng 34.000 người Do Thái.

Phong trào “Hoà bình” ở Israel tạo ra một sự phân biệt rõ ràng và hữu ích giữa 8 loại khu định cư khác nhau (bảng 1)

.

.

Sự thành công trong việc thiết lập khu định cư không chỉ phụ thuộc vào dân số, mà còn phụ thuộc vào sự kiểm soát đất đai và tài nguyên, ở dải Gaza, người Do Thái ít |hơn 1% dân số, nhưng kiểm soát 19% đất đai. Khu định cư Netzarim ở phía Bắc của dải Gaza với không quá 50 gia đình Israel cũng chiếm số đất bằng trại tị nạn Nuseirat gần đó với hơn 60.000 người. Còn tại khu vực Bờ Tây, một báo cáo vào tháng 5 năm 2002 của tổ chức dân quyền Israel B”Tselem cho biết mặc dù các khu vực có nhà cửa mọc san sát trong các khu d chỉ chiếm 17% vùng đất Bờ Tây nhưng các đường biên giới thành phố chiếm tới 6,8%. Hơn nữa, các hội đồng của vùng gắn liền với các khu định cư chiếm thêm 35,1%. B”Tselem kết luận điều này có nghĩa là các khu kiểm soát hiệu quả không dưới 41,9% tổng diện tích của Bờ Tây. Người ta cho rằng chính phủ Israel (trong suốt và sau cuộc họp thượng đỉnh năm 2000 tại trại David) đã đưa lên bàn đàm phán phần trăm diện tích lớn hơn nhiều, đây chính là quan điểm lâu dài của Israel đối với việc duy trì quyền kiểm soát tất cả các khu định cư.

Khả năng tồn tại của các khu định cư phụ thuộc nhiều vào vân đề an ninh như các sự kiện từ tháng 9 năm 2000 đã chứng minh. Một lần nữa, Netzarim và Hebron được ghi vào sử sách về những điều gây nhức nhối. Trong hai năm đầu tiên của cuộc chiến Intifada thứ hai, 17 lính Israel tử trận trong khi đang bảo vệ Netzarim. Ở Hebron, theo thỏa thuận giữa Israel và Palestine trong năm 1997, 20% diện tích với khoảng 400 dân Do Thái đành được là nhờ Israel bảo vệ. Diện tích do người Israel nắm giữ có khoảng 30.000 dân Palestine là những người vẫn sống dưới quyền kiểm soát an ninh của Israel. Tuy nhiên, dù Israel đầu tư mạnh vào quân sự ở Hebron như tại Netzarim, nhưng vẫn không đạt được tình trạng an ninh tuyệt đối. Tháng 11 năm 2002, 3 lính gác và 9 lính khác, kể cả viên chỉ huy của lực lượng an ninh Israel trong thành phố bị bắn gục trong một cuộc phục kích thánh chiến Hồi giáo gần mộ của giáo trưởng (nơi một dân định cư Do Thái tên là Baruch Goldstein tàn sát 29 người Arab trong năm 1994).

Nói chung, số dân nhiều hay ít trong các khu định cư không tỷ lệ thuận với quyền kiểm soát đất đai cũng như về hệ tư tưởng. Những khu định cư Do Thái cô lập nhất và ít dân nhất là những khu kiểm soát diện tích đất lớn nhất, do hầu hết các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan chiếm giữ. Đây là những khu định cư nông nghiệp ở dải Gaza và các vùng đồi Judaea và Samaria do Gush Emunim và thuộc cấp của ông sáng lập.

Trong những năm gần đây phần lớn người dân nắm quyền chính trị của Israel ở dải Gaza và hầu hết dân chúng đã đi đến việc chấp nhận rằng các khu định cư Do Thái không thể phòng thủ về lâu dài và không sớm thì muộn cũng sẽ bị bỏ trống. Trong cuộc tổng tuyển cử tháng 1 năm 2003 cương lĩnh của Đảng Lao động kêu gọi sơ tán các khu định cư. Tương tự một bộ phận dân Israel ở vùng đồi trung tâm của Bờ Tây không có khả năng tồn tại mãi mãi. Đây là những cộng đồng dễ bị tổn thương nếu không được Israel quan tâm trong bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào trong tương lai hay khi Israel rút lui đơn phương. Trái lại, các khu đất nhỏ tập trung dày đặc người Do Thái ở Jerusalem hay quanh đó và ven phía Tây của Bờ Tây có nền tảng và luật lệ riêng giúp họ tồn tại vững chãi.

Do đó, Israel có lẽ đang tiến tới giai đoạn cuối trả lại lãnh thổ cho người Plestine do áp lực về nhân khẩu, xã hội và kinh tế. Hiện nay vị trí chính xác của biên giới Israel -Palestine vẫn còn được xác định nhưng đó không phải là vấn đề duy nhất. Quan trọng hơn là đặc trưng của đường biên giới đó sẽ là đường biên giới loại “Schengen”, nơi người ta vẫn có thể qua lại? Hay là biên giới loại chiến tranh lạnh với các hàng rào điện có gai, ụ súng và các trạm kiểm soát? Theo ảnh hưởng của cuộc khủng bố, phần lớn dân Israel ngày nay thích loại “tường sắt” giữa hai dân tộc. Nhưng “sự chia cắt” như thế liệu có khả thi, khi mà cả hai dân tộc cùng cư ngụ trên một dải lãnh thổ hẹp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn?