- 2 -
Theo các đề xuất của Uỷ ban, nhà nước Do Thái sẽ chỉ kiểm soát một phần nhỏ đất nước, mặc dù người Do Thái đòi hỏi phần lớn đất nông nghiệp màu mỡ nhất. Những đề nghị của Ủy ban chủ yếu dựa trên dân số Do Thái và quyền sở hữu đất của họ. Từ đầu thập niên 30, người Xion đã mua đất một cách có chiến thuật với mục tiêu xây các vùng đất tiếp giáp lớn thuộc quyền sở hữu Do Thái, đặc biệt là vùng đồng bằng duyên hải, Emek (thung lũng của Jezreel), và tới tận mé trên của sông Jordan. Sự phân phối đất đai cho người Do Thái (bản đồ 2) minh chứng mối quan hệ giữa quyền sở hữu đất của người Do Thái và các đề nghị về mặt lãnh thổ của Ủy ban.
Một yếu tố khác trong việc xác định biên giới của ủy ban là sự phân bố dân số. Những đề xuất của họ sẽ tạo ra một nhà nước Arab với tối thiểu 1.250 người Do Thái, nhưng ngược lại nhà nước Do Thái sẽ có tối thiểu là 225.000 người Arab, tất nhiên đó là điều được mong đợi để tăng nhanh lượng người nhập cư với quy mô lớn. Vì vậy, Uỷ ban đưa ra một đề xuất thứ hai thậm chí còn quyết liệt hơn: “Trao đổi đất và dân số” nhờ đó môt thiểu số người Do Thái ở Arab có thể về nhà nước Do Thái và thiểu số người Arab ở nhà nước Do Thái sẽ trở về nhà nước Arab, kể cả Transjordan. Uỷ ban này dự tính tương tự cho Hy Lạp và Thổ nhĩ kỳ năm 1923 là “trong tình thế cuối cùng việc trao đổi sẽ mang tính bắt buộc”.
Benny Morris lập luận rằng ý tưởng “chuyển nhượng” Arab từ Palestine sang Transjordan là theo truyền thống lịch sử và người Xion đưa ra nhiều suy nghĩ gây ngạc nhiên hơn hầu hết các sử gia Israel trước đây đã thừa nhận. Ông trích dẫn lời nhận xét nổi tiếng của Zangwill (người Israel) năm 1905 rằng người Arab nên “cuốn lều của họ và chuồn đi trong im lặng”; năm 1911 ông Ruppin cũng đề xuất “sự chuyển nhượng dân số hạn chế”; trong khi Weizmann năm 1930 lại cho rằng “một sự trao đổi dân số tương tự có thể thuận lợi và được khuyến khích” và câu nói của Ben - Gurion trong quốc hội Xion năm 1937: “Chuyển nhượng... là điều sẽ giúp cho chương trình toàn diện có thể thực hiện”. Ngoài ra còn nhiều phát biểu tương tự của các nhân vật đại diện từ các khu vực khác nhau trong phong trào Xion. Các sử gia khác như Neil Caplan, Anita Shapira, Yosef Gorni và Nur Masalha đã thảo luận vấn đề này trong bối cảnh rộng lớn hơn liên quan tới thái độ của người Xion về “vấn đề Arab” ở Palestine và đã đi đến một vài kết luận khác nhau. Ông Morris đã nhận định đúng rằng chuyển nhượng là “một trong những luồng tư tưởng chính trong hệ tư tưởng của chủ nghĩa Xion từ khi khởi đầu phong trào”.
Một trong những bài phê bình đanh thép nhất về đề xuất của Ủy ban từ quan điểm Xion do cựu Bộ trưởng Bộ chính trị của tổ chức Xion. Ông Leonard Stein, viết trong một bản ghi nhớ tháng 8 năm 1937:
Sự nhạo báng của nhà nước Do Thái; các biên giới dễ bị xâm phạm; việc cắt giảm thành Jerusalem; ủy trị tạm thời ở Haifa và ba thị trấn khác; thiết lập nhà nước Do Thái loại trừ hơn 1/3 dân số hiện tại, bao gồm gần 1/2 người Arab; bàn giao Negev; các công trình chất khoáng Biển Chết và những công trình chính của tập đoàn điện tử Palestine cho nhà nước Arab.
Còn về vấn đề chuyển nhượng dân số theo đề nghị dường như đã rõ ràng, thậm chí trên quan điểm lạc quan nhất là bất kỳ sự chuyển nhượng nào như thế trong thực tế không chắc được thực hiện trên quy mô lớn, hay với tốc độ dự tính như báo cáo của Peel. Nếu không được thực hiện nhanh chóng và trên quy mô lớn thì nhà nước Do Thái sẽ phải đối đầu với một số vấn đề hết sức khó khăn.
Ngược lại, nếu được thực hiện nhanh chóng và trên quy mô lớn thì dù cho nhà nước Do Thái chính thức chịu trách nhiệm hay không thì sự rắc rối khi sơ tán hàng loạt người nông dân Arab ra khỏi nhà cửa của họ vẫn xảy ra; kết quả đã làm bối rối không chỉ cho nhà nước Do Thái mà còn đối với người Do Thái khắp nơi trên thế giới. Sự coi thường thậm chí sẽ lớn hơn mặc dù Ủy ban Hoàng gia đã nói khác đi, nhưng thực chất sự việc chỉ là chuyển nhượng đơn phương không “trao đổi” gì cả.
Lời phê bình của ông Stein là một lời tiên tri.
Mặc dù ban đầu chính quyền Anh xác nhận nguyên tắc chia cắt nhưng Anh nhanh chóng chùn bước, nhất là với những đề xuất chuyển nhượng dân số bắt buộc. Bản ghi nhớ của Eric Mills tháng 12 năm 1937 thu hút sự chú ý đối với một số khó khăn từ quan điểm của người Anh. Ông lập luận: “Muốn đề nghị này có hiệu lực thì trước tiên cần kiểm tra phong trào giải phóng áp lực dân số ở vùng đồi núi; thứ hai là tăng mạnh áp lực dân số trong vùng đó”. Căn cứ theo phần nhỏ đất đai không được canh tác ở vùng đồng bằng ven biển và sự kiện chuyển từ nông nghiệp mở rộng sang chuyên sâu.
Mills xem xét khả năng mở rộng khu vực canh tác trong các vùng đồi là chuyện quá xa xôi, ông nghi ngờ viễn cảnh đưa nông nghiệp thâm canh ở đó. Hệ quả là tốc độ phát triển ở nhà nước Arab sẽ “không theo kịp tốc độ phát triển của các doanh nghiệp Do Thái ở nhà nước Do Thái”. Với cái nhìn bi quan tương tự về viễn cảnh định cư ở Transjordan và Negev, ông kết luận:
Nếu định cư ở các vùng này không thực tế và nếu dân số được chuyển nhượng không thể tìm thấy kế sinh nhai ở các vùng đồi núi như kết luận của bản phân tích này, thì đề nghị chuyển nhượng bắt buộc đối với người Arab không thể có hiệu lực. Thực sự, người Arab không được phép di cư sang nhà nước Do Thái, thì sau này việc mưu sinh của thế hệ tương lai trong các vùng đồi sẽ bấp bênh.
Ta có thể nhận thấy rõ ràng người Arab tỏ thái độ thù hằn như thế nào đối với kế hoạch di dân và trao đổi đất qua những nhận xét nêu trên, do đó chính phủ phải từ bỏ việc chia cắt đất nước năm 1938. Tuy nhiên sự chia cắt và thậm chí chuyển nhượng dân số vẫn được duy trì trong chương trình nghị sự đối với việc lập kế hoạch tầm xa của Anh trong các buổi thảo luận bí mật của các bộ trưởng về tương lai đất nước.
Rất lâu trước khi nhà nước Do Thái được thành lập vào năm 1948, dân Do Thái đã mong muốn giành đất đai và phân bổ dân số. Việc cai trị Palestine trong thập niên 30 báo hiệu trước sự chia cắt sắc tộc. Từ đầu thời kỳ thuộc địa và cụ thể là sau năm 1936 việc bổ nhiệm các quan chức Do Thái vào các vị trí liên đới với dân Do Thái giảm xuống, tương tự việc bổ nhiệm các quan chức Arab vào các lĩnh vực liên đới với dân Arab cũng giảm. Trong công tác hành chính của các quận xu hướng này trở thành xu hướng chung.
Năm 1939 chẳng hạn, chính phủ tái tổ chức việc quản lý Palestine, tuyên bố rằng mục tiêu của nó là “Phân chia đất nước thành hai khu vực riêng biệt: Khu vực thành thị và khu vực nông thôn”. Căn cứ theo mức chênh lệch giữa người Do Thái và tỷ lệ thành thị hoá người Arab thì đây là một hình thức ngụy trang của sự chia cắt mới (bản đồ 10). Những thay đổi này dẫn đến việc người Xion không thích quận Nam bị đặt lại tên là quận Lydda. Cơ quan Jewish Agency chỉ ra tỷ lệ người Do Thái/Arab là 3/2, chủ yếu là thành thị, bao gồm cả thành phố Tel Aviv chiếm hơn 1/3 cư dân của quận mà theo cơ quan này nhận thấy thì “chỉ chiếm 2% dân số của quận”. Tất nhiên, sự tự vệ thực sự trong mắt người Xion là số dân của quận Lydda nhưng sự thật là người Arab chứ không phải người Do Thái là những cư dân trong thị trấn.
.
Chính phủ nắm giữ quyền lực nhưng Jewish Agency vẫn kiên quyết tiếp tục nhấn mạnh quan điểm của mình. Năm 1945, Sở phát thanh Palestine do chính phủ điều hành đã thực hiện chương trình Công dân muốn biết trên sóng vô tuyến, chính phủ đề nghị phát thanh viên đài PBS phát rõ ràng những lời đáp khéo léo sau (mặc dù rất không chân thật):
Người Anh lấy tên của các thành phố ở Anh để đặt tên cho các thị xã nhỏ của Palestine.
Có một vấn đề phát sinh liên quan đến khu vực nông thôn Do Thái trong các quận chủ yếu có người Arab cư ngụ. Ví dụ, Jewish Agency phản đối sau khi Haifa và quận Samaria bị tách thành hai, Jewish Agency chỉ ra rằng: “Chính phủ nên chỉ định các quan chức Do Thái hỗ trợ Ủy ban quận Nablus trong việc giải quyết các công việc liên quan của người Do Thái”. Cơ quan này thúc giục xúc tiến phân chia ranh giới giữa các quận. Chính phủ giải quyết vấn đề theo kiểu gần như chia cắt khu biệt. Người Do Thái vẫn ở quận nhỏ Tulkarm dưới sự phụ trách của Quan chức Do Thái tại Netanya. Năm 1941 người của Uỷ ban quận đề nghị rằng văn phòng quận nên sát nhập với văn phòng thu thuế, nếu thực hiện việc này thì “Các khu định cư Do Thái sẽ là một quận nhỏ mặc dù không có các biên giới riêng biệt”.
Một ủy ban đặc biệt của Liên hiệp quốc đặt ở Palestine, đã xem xét vấn đề đường biên giới đựợc đề xuất trong năm 1947 cùng một số tiêu chuẩn theo kế hoạch ban đầu của Anh, cụ thể là việc phân phối dân số và quyền sở hữu đất đai. Họ thận trọng vì e ngại tình trạng lãnh thổ đan chéo nhau với “những điểm trùng nhau” giữa nhà nước Arab và Do Thái sẽ khiến cho cả hai bắt buộc phải hợp tác với nhau. Tuy nhiên, cuối cùng vào tháng 11 năm 1947 Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã phê duyệt kế hoạch chia lãnh thổ theo kiểu chắp vá (bản đồ 11). Mặc dù kế hoạch của Liên hiệp quốc tạo cho nhà nước Israel sự hợp pháp quốc tế nhưng cuối cùng biên giới của Israel năm 1949 (bản đồ 12) phải xác định bởi chiến thắng quân sự. Tuy nhiên, nền tảng thiết yếu vững bền thực tế của họ là dựa trên nhân khẩu và sự phát triển kinh tế - xã hội.
.
.
Hãy xem bản đồ 13: Các lãnh thổ chiếm đóng năm 1967. Trong tình hình đó Israel cố gắng tạo nền tảng vững chắc về mặt nhân khẩu và kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo việc kiểm soát lâu dài của Israel ở những khu vực này.
.