← Quay lại trang sách

- 2 - (tt)

Lễ Vượt qua ở Jerusalem là thời gian gây hoang mang cho những người nước ngoài không quen. Lễ hội kéo dài cả tuần ăn Bánh Không Men để tưởng niệm cuộc xuất hành của Con cái Israel khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và lập nên nhà Israel là một dân tộc riêng. Nó cũng là lễ theo luật ăn chay khó hiểu của Do Thái.

Israel sống theo nhịp sống riêng của lịch Do Thái. Lễ Giáng sinh không có, ngày Đầu Năm của phương Tây là ngày bình thường không tiệc tùng say sưa. Các ngày lễ của họ liên tiếp nhau không ngớt vào mùa thu.

Lễ Vượt qua là biến cố của quốc gia, bao hàm tất cả. Các kệ của siêu thị bỗng nhiên được bao trong những miếng giấy lớn để che hết các sản phẩm bị nghi là chứa men (hametz). Nghĩa là hầu như mọi thứ: không có mì, bánh quy, bánh bao, bột mì, các loại ngũ cốc ăn điểm tâm, bánh quy giòn, bánh sừng bò. Trong các gia đình có đạo, ngay cả gia súc cũng ăn những thứ không men. Mọi sản phẩm được dán tem có hàng chữ "đồ ăn dùng cho lễ Vượt qua" (kasher le-pessach). Người nước ngoài muốn mua chỉ có nước lén xé góc tờ giấy báo bên ngoài lấy hàng rồi ra quầy thanh toán.

Hàng ngàn người tới Sinai, nơi Moses và dân Israel lang thang trong hoang mạc bốn mươi năm trước khi đến vùng Đất Hứa.

Sau một ngày ních đầy bánh không men, tôi quay lại khách sạn năm sao Vua David để gọi rượu gin và nước khoáng pha hương vị quinin, nhưng người hầu bàn nói, "Xin lỗi, thưa ông. Đang lễ Vượt qua".

Lệnh ăn bánh không men được ghi trong Sách Xuất hành: “Các ngươi phải ăn bánh không men bảy ngày; ngay ngày đầu các ngươi phải loại bỏ men khỏi nhà của các ngươi; vì ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy sẽ bị loại ra khỏi Israel”. (Exod. 12:15). Đơn giản là: không có bánh có men trong một tuần.

Bột nhào có men được xác định là bột của năm loại ngũ cốc: lúa mì, lúa mạch, lúa mì spenta, lúa mạch đen, và yến mạch-được hòa với nước lâu, quãng 18 phút. Nhưng vì nguy cơ có thể một người Do Thái phạm tội do tình cờ, các giáo sĩ đã tạo ra khoản gần gũi nhất trong luật Do Thái làm pháo đài vững chắc. Trước hết, các giáo sĩ khai triển định nghĩa về men bao gồm cả gạo, kê, các loại đậu, đậu lăng, ngô, và lạc, mà nếu có giọt nước nhỏ vào túi bột của những thứ ấy thì không hẳn là bị nhiễm men rồi. Rồi, bất kỳ sản phẩm ngũ cốc nào không được giám sát kỹ và bảo đảm là bánh không men đều bị cấm. Trong các văn bản của giáo sĩ, men trở thành ẩn dụ của sự hư nát và ô uế, khái niệm được các soạn giả Tân ước diễn giải "men của ác tâm và đồi bại".

Loại trói buộc nhiều tầng luật này là mối dây quan trọng của rào chắn tôn giáo mà các giáo sĩ thấy rằng phải dựng lên để giữ cho "Israel tách khỏi dân ngoại". Thế nhưng, nỗ lực bảo toàn luật và bản sắc Do Thái lại tạo ra một số vấn đề. Chẳng hạn, một năm giáo sĩ được kêu gọi thành tâm không uống nước máy vào dịp lễ Vượt qua vì người Ả Rập thả bánh sandwich xuống Biển Galilee, hồ nước của Israel hẳn là nhiễm thứ men ấy.

Các nhà sản xuất cho thấy tài làm ra đủ thứ sản phẩm là "đồ ăn dùng cho lễ Vượt qua" nhưng trông chẳng khác những sản phẩm có men; và đó cũng là phương sách để những người không phải Do Thái mua bán mà không thắc mắc gì.

Bữa ăn lễ Vượt qua là dịp hội họp gia đình quan trọng nhất theo lịch Do Thái. Đó là thời gian người Do Thái cùng nhau tái xác định bản sắc của họ. Nghi thức của bữa ăn, từ mỗi miếng thực phẩm, mỗi bài ca và tụng ca, là hành động biểu tượng, cột trụ trong dinh thự ký ức được thể chế hóa đã bảo tồn người Do Thái qua các thế kỷ. Nuôi dưỡng ký ức về quá vãng là công việc hàng ngày của người Do Thái.

Vượt qua được giả định là kỷ niệm của sự tự do, nhưng hay hơn là nó được coi là kỷ niệm của sự tồn tại. Sách Haggadah-trình thuật câu chuyện Xuất hành, lời hứa của Chúa về Đất Canaan, phúc lành của Người và tai họa mà Người giáng lên Pharaoh, việc ngâm vịnh các thánh thi và hát các bài ca tạ ơn-qua nhiều thế kỷ vẫn không thay đổi. Nó không chỉ là giáo lý mà còn là lịch sử của tổ tiên; người Do Thái cảm thấy họ là huyết thống trực tiếp của bộ tộc thuộc Israel, những người trốn khỏi Ai Cập, và thuộc về Abraham, Isaac, và Jacob. Haggadah viết: "Mỗi thế hệ, bổn phận của con người là nghĩ mình là một trong những người đã thoát khỏi Ai Cập".

Việc mừng lễ Vượt qua ở Jerusalem có một tiếng vang khác thường. Bao thế kỷ, trong các cộng đồng rải rác từ Nam Mỹ tới Trung Hoa, người Do Thái chỉ mừng sự cứu thoát của quá khứ nhưng cũng cầu xin cho người Do Thái sớm phục hồi ở Đất Hứa, bằng những lời của sách Haggadah:

Lạy Đấng Duy nhất ngự trên Trời, xin nuôi nấng đoàn dân đông đảo của Người! Xin sớm dẫn đưa họ-được triệu tập dưới cây nho của Người-hân hoan tiến vào Zion. Chớ gì năm tới Jerusalem được tái thiết!

Đối với người Do Thái, việc ngâm nga những lời này một cách tự do ở Jerusalem là sự đáp ứng khát vọng ngàn năm. Đối với người Do Thái, việc lập quốc là một phép lạ của thời đại, sự hoàn tất lời hứa của Chúa, chậm tới, nhưng cuối cùng sẽ tới. Giao ước với Abraham mãi còn giá trị.

Lễ Vượt qua được gắn bó phức tạp với ý tưởng về vùng Đất Hứa; nó đánh dấu cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập và lần đầu được Joshua và dân Israel kỷ niệm sau khi vượt qua Sông Jordan. Tự bản năng, người Do Thái đã là người theo chủ nghĩa phục quốc trước khi Herzl biến ý tưởng ấy thành phong trào chính trị hiện đại. Trong cuốn Vùng Đất Tân Cựu, những anh hùng của Herzl mừng lễ Vượt qua trên bờ biển của Biển Galilee và tìm cách tạo lập một "Xã hội Mới" ở Palestine. Ông trình bày một Haggadah hiện đại thay cho một Exodus hiện đại, không phải sự vội vã trốn khỏi Pharaoh và một loạt dịch bệnh, mà là sự tiến vào có trật tự sự đồng thuận tự nguyện của người Turk, những người được may mắn vì được những người Do Thái có lòng biết ơn và giàu có kính trọng.

Ở bất cứ bàn ăn mừng lễ Vượt qua nào ở Israel bạn cũng thấy rất nhiều thứ do họ sản xuất ra đều được họ đưa về. Một năm nọ tôi mừng lễ tại nhà Dennis Diamond ở Jerusalem. Ông là nhà trang trí nội thất và là nhà văn, ông được sinh ra ở Nam Phi trước khi di cư tới Israel hồi thập niên 1970. Con gái ông ta đưa người bạn trai sinh ở Nga về. Những vị khách khác là vợ chồng Rabbi David Rosen, được sinh ra ở Anh, và ba cô con gái. Vợ tôi và tôi là hai người không phải Do Thái, mà vào thời trước thì chúng tôi, những người nước ngoài, đâu được ngồi cùng bàn để ăn thịt cừu trong lễ vượt qua như vậy, theo đúng huấn thị trong sách Xuất hành (12:43): "Đây là quy định về thịt cừu lễ Vượt qua: không người dân ngoại nào được cùng ngồi ăn".

Rabbi Rosen cầm đĩa thức ăn theo nghi lễ lên, trong đó có quả trứng, tiêu biểu của lễ ở đền thờ; cây cải ngựa, được dùng như loại rau đắng mà người Do Thái thích ăn như để nhắc nhớ tình cảnh nô lệ của họ; một nhánh ngò tây được nhúng trong nước muối nhắc nhở những giọt nước mắt của dân Israel; một cái bánh ngọt nhân quả hạnh, trái cây, và rượu nhắc nhớ vôi vữa mà các nô lệ Israel đã làm.

Quá nhiều thảm kịch đã đổ trên đầu dân Do Thái khiến ngay cả lễ hội vui vẻ như lễ Vượt qua cũng đượm vẻ sầu muộn. Cầm ba miếng bánh không men lên, Rosen đọc những lời mở đầu của sách Haggadah bằng tiếng Syria:

“Đây là bánh ưu phiền mà cha ông chúng ta đã ăn ở Ai Cập. Hãy để những ai đói tới để ăn. Hãy để những ai thiếu thốn tới dự tiệc chiên vượt qua! Năm nay chúng ta ở đây; năm tới-ở Đất của Israel! Lúc này chúng ta là những nô lệ; năm tới-là những người tự do!”

Chúng tôi uống bốn tách rượu truyền thống và ăn bánh không men, đọc lời chúc tụng: “Chúc tụng Người, Chúa là Chúa của chúng con, Vua của Vũ trụ, Người đã sinh ra bánh từ đất..”. Rượu, bánh, và ân phúc. Những ký ức về biết bao nâng đỡ của nhà thờ hồi còn trẻ trở lại với tôi... hãy cầm lấy Bánh và khi đọc lời chúc tụng, Ngài đã bẻ bánh và đưa cho các môn đệ của Ngài và bảo: “Hãy cầm lấy, hãy ăn, đây là Mình của tôi ban cho anh em: Hãy làm việc này để nhớ tôi... đây là Máu Tân ước của tôi, máu đổ ra vì anh em..”. Tôi chẳng bao giờ hiểu được lễ Thánh thể của người Do Thái cho đến khi tôi tới Israel. Đối với tôi, những lời thân quen của Jesus là một loại lời từ biệt, một nghi lễ mà Ngài đã ứng biến khi gặp tình cảnh khó khăn. Đối với tôi, chất Do Thái của Jesus không khác nào văn hóa dân gian. Cuộc Khổ nạn đã có thể xảy ra ở bất kỳ đâu trong thế giới Roma. Do ngẫu nhiên, nó đã xảy ra ở Palestine. Giờ, được thấy trong bối cảnh Do Thái của nó, cảnh một linh mục Công giáo Roma đứng ở bàn thờ mặc áo lễ, giơ lên tấm bánh tròn nhỏ và nhúng nó vào rượu xem chừng như trò nhái lại, một trò khôi hài của tín đồ sùng đạo. Tôi đoán chắc rằng chẳng ai trong các bà con của tôi, những người đã đưa tôi tới nhà thờ lúc tôi còn nhỏ, có được bất kỳ khái niệm nào về lễ Vượt qua cửa người Do Thái mà Jesus kỷ niệm cùng mười hai môn đệ của Ngài-mười hai, không phải mười một, vì mười hai biểu thị mười hai bộ tộc Israel.

Các Kito hữu ban đầu mừng lễ Phục sinh như bữa tiệc Vượt qua của Do Thái. Họ tuân thủ ngày Sabbath và thờ phượng ở đền thờ. Nhưng như các dân không phải Do Thái bước vào nhà thờ dưới sự ảnh hưởng của thánh Phaolô, Kito giáo bắt đầu tách khỏi đạo Do Thái và sớm trở thành một tôn giáo không phải Do Thái tinh ròng sau khi đền thờ bị phá hủy. Lễ Phục sinh được sắp xếp vào ngày Chủ nhật cho khác với lễ Vượt qua.

Khi Kito giáo hấp thu triết học Hy Lạp, nó cũng thấm đượm nét bài-Semite của Hy Lạp. Một trong những bài công kích chống Do Thái tiếng tăm đầu tiên được Manetho, sử gia Ai Cập gốc Hy Lạp thế kỷ thứ III, tung ra. Ông khẳng định rằng người Do Thái là con cái của nhóm 80.000 "người phong hủi và ô uế" đã từng nổi lên chống lại Ai Cập.

Theo nhà tu từ học thế kỷ thứ I là Apion, được Josephus, sử gia viết về vụ nổi dậy của Do Thái chống lại Roma, trích dẫn, thì người Do Thái hàng năm bắt cóc một người Hy Lạp, nuôi anh ta béo lên trong đền thờ bất khả xâm phạm, rồi "dẫn anh ta vào một cánh rừng nào đó, giết anh ta, và cúng tế theo những nghi thức trang trọng quen thuộc của họ, ăn bộ lòng của anh ta, rồi thề trên tế vật ấy là họ sẽ mãi thù địch với người Hy Lạp"

Phần cốt lõi của sự tố cáo này hòa vào các thế kỷ sau đó với hình ảnh máu của Jesus và khái niệm về tội giết Chúa của người Do Thái trong lễ Vượt qua để bày ra chuyện được gọi là sự bôi nhọ máu-tin rằng người Do Thái cúng tế một người Kitô giáo, thường là trẻ con, để trộn máu với bánh Vượt qua. Sự tố cáo ban đầu như thể diễn ra ở Norwich năm 1144 khi một cậu bé tên là William bị coi là đã biến mất. Sự bôi nhọ này lan tới Pháp, Tây Ban Nha, Đức, và viễn đông, thường nổi lên vào thời gian của lễ Phục sinh và lễ Vượt qua. Nó khích động những cuộc tàn sát và trục xuất người Do Thái mặc cho một số giáo hoàng và vua chúa cố chấm dứt trò tố cáo độc địa ấy. Được các nhà truyền giáo mang theo, nó nổi lên ở Damacus năm 1840. Đức Quốc xã tận dụng sự bôi nhọ này trong chiến dịch tuyên truyền bài-Semite.

Qua nhiều thế kỷ, Lễ Vượt qua của sự tự do biến thành lễ của khiếp sợ. Nhưng Haggadah bảo: "Không phải chỉ một kẻ khủng bố nổi lên hủy diệt chúng ta mà mỗi thế hệ nổi lên tiêu diệt chúng ta. Nhưng Chúa luôn cứu chúng ta khỏi bàn tay của họ".

Khi vào tiệc, Rosen mặc chiếc áo choàng trắng được gọi là kittel nó được coi là áo lễ hội, nhưng Rosen còn thêm vào ý nghĩa ảm đạm: "Áo được mặc vào giống như vải liệm tang lễ. Lễ Vượt qua cũng là thời gian hiểm nghèo như thế để người Do Thái chuẩn bị đi vào cõi chết"

Vào cuối bữa ăn, ly rượu thứ năm được rót ra dành cho tiên tri Elijah, người báo trước về Đấng Cứu thế và là người bảo vệ người Do Thái. Cửa được mở ra để đón Elijah, một truyền thống mà theo giải thích của Rosen là tìm kiếm để cho những người không phải Do Thái biết rằng người Do Thái "chẳng có gì mà phải giấu mặt". Một minh họa ở bàn là nắm tay của Elijah đang nghiền nát Đức Quốc xã. Chúng ta đọc những lời báo thù:

“Hãy trút cơn thịnh nộ của Người trên những dân không nhận biết Người và trên các vương quốc không kêu cầu danh Người. Vì chúng đã giày vò Jacob và tàn phá chỗ ở của ngài. Hãy trút sự căm phẫn của Người trên chúng, và hãy để cơn giận dữ dội của Người ập xuống chúng. Hãy đeo đuổi chúng bằng sự thịnh nộ và hãy tiêu diệt chúng, từ dưới gầm trời của Chúa.”

Nhưng rồi Rosen lại hào phóng đọc: "Hãy rủ lòng thương xót của Người trên những dân không nhận biết Người..."

Hình ảnh chính trong cuộc đối thoại liên tôn với các Ki tô hữu được Rosen lập luận là mức độ bài-dân ngoại nơi người Do Thái tùy thuộc vào mức độ áp bức của dân ngoại. Nhưng hơn nửa thế kỷ sau khi lập nhà nước Israel, nó trở nên khó chấp nhận như một lời giải thích đủ để tạo thành vết sẹo không khoan dung trong truyền thông Do Thái. Sự diễn giải Thiên Chúa là vị thần bè phái của nó, thế giới quan của nó phân cách Do Thái với dân ngoại, mô tả dân ngoại là kẻ thù và là những kẻ áp bức, những diễn cảm báo thù như "Hãy trút cơn thịnh nộ của Người" và những lời nguyện hàng ngày chống lại các dị giáo bằng đoạn văn:

"Chúc tụng Người, Lạy Chúa, Chúa của chúng tôi, Vua của Vũ trụ, Đấng đã không biến tôi là dân ngoại (goy)... không biến tôi thành nô lệ... không biến tôi thành phụ nữ". Các giáo sĩ cố giải thích sao cho thân thiện đoạn văn này, nhưng bị gọi là dân ngoại quả là sự xúc phạm. Các giáo sĩ có thế lực trong Israel còn tranh luận những vấn đề như những hoàn cảnh mà ở đó một người Do Thái có thể vi phạm ngày Sabbath để cứu đời sống của một dân ngoại. Phần lớn người Do Thái ở Israel không cưới dân ngoại, mà nếu họ có cố cưới thì cũng bị các giáo sĩ ngăn cấm. Nếu hai người khác tôn giáo lấy nhau, hoặc một người phải cải đạo hoặc phải cưới nhau ở nước ngoài.

Từ khi chấm dứt Thế chiến II, các giáo hội phương Tây đã tiến xa trong việc tìm sự hòa giải với người Do Thái. Giáo hội Công giáo Roma đã bỏ thuật ngữ: "Quân Do Thái bất trung" khỏi phụng vụ Phục sinh, tính chất Do Thái của Jesus đã được thừa nhận, chủ nghĩa bài-Semite đã bị lên án như một tội chống lại việc tạo dựng con người theo hình ảnh của Người và Vatican đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel cho dù có sự phản kháng của người Ả Rập Palestine. Đứng ở thế thượng đẳng, Kitô hữu đúng là càng phải xem xét lại niềm tin của mình, nhất là sau nạn thảm sát người Do Thái. Tuy nhiên, ở Israel ngày nay, người ta cố tìm những giáo sĩ Chính thống để tạo sự đánh giá lại tương đương các quan niệm của họ về dân ngoại. Các phong trào Cải cách và Bảo thủ đã cố gắng giải trình bộ niềm tin Do Thái hiện đại, nhưng họ bị loại trừ khỏi đời sống công cộng ở Israel, nơi tổ chức Chính thống coi họ chỉ khá hơn dân ngoại một chút.

Trong những năm tôi ở Israel thỉnh thoảng tôi có dịp đụng độ sự phân biệt chủng tộc nhắm thẳng vào tôi, mặc dầu tôi chứng kiến tình trạng này nhắm vào những người khác, nhất là người Ả Rập. Ngược lại, tôi đã nhận được sự ấm áp thật nhiều, như từ chủ nhà mời tôi dự tiệc Vượt qua, "Người khách ăn mừng lễ với anh có thể may ra là một trong những Thiên thần ăn mừng lễ với Abraham."

Lửa Thánh là một trong những nghi thức cổ xưa nhất thế nhưng phần lớn dân ngoại đã cử hành nghi lễ này. Nó là cao điểm trong năm đối với các giáo hội phương Đông, còn quan trọng hơn lễ Giáng sinh. Nó là phép mầu hàng năm cho phép cộng đồng đang suy yếu của người Ả Rập Kitô giáo ở Palestine cảm thấy họ còn đứng cao hơn các giáo hội phương Tây giàu có hơn.

Lòng thành của các giáo hội phương Đông là thứ làm cho Mộ Thánh sinh động. Sự nối kết lòng nhiệt thành tôn giáo và hiểm nguy thể lý hằng hiện diện của những thứ như sự tiêu diệt, dấy loạn hay hỏa hoạn đã tạo ra sự náo động đe dọa mỗi khi tôi tham dự lễ kỷ niệm.

Vào ngày thứ Bảy trước Chủ nhật Phục sinh, theo lịch phương Đông, Lửa Thánh được cho là xuống từ trời tới mồ của Chúa Kito, nơi Thượng phụ Hy Lạp đợi để nhận nó và chuyển nó tới các tín hữu.

Các đám đông Kito giáo người Palestine, được bổ sung bằng các khách hành hương từ Hy Lạp, Cyprus, Ai Cập, và Nga, bắt đầu tụ tập từ sáng sớm, đôi khi ở lại qua đêm vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Những cụ bà mặc đồ đen đổ nước hay dầu thơm trên phiến màu hồng ở lối vào nơi được tin là thân thể của Jesus được xức dầu trước khi chôn. Chất lỏng, được thấm đượm sự linh thánh, được người ta lấy bọt biển hay khăn tay nhúng vào và giữ trong chai để vẩy ở nhà, hoặc uống như một phương thuốc. Một số phụ nữ còn chùi áo lót mới lên tảng đá, để dành mặc vào ngày chôn cất họ. (Các du khách thuộc thế kỷ XIX than rằng các khách hành hương có thể biến nhà thờ thành nhà thổ vì họ tin rằng đứa trẻ được sinh ra khu vực này sẽ được chúc phúc).

Vào cuối buổi sáng, đám đông lộn xộn được nhét vào từng chỗ nứt nẻ của nhà thờ. Giàn giáo được dùng để sửa chữa liên tục oằn xuống đáng sợ dưới sức nặng của các chàng trai leo lên để trông rõ hơn. Đám đông được phân chia cẩn thận: Người Hy Lạp ở bên phải, người Armenia, Copt, và những nhóm nhỏ hơn khác được dồn về bên trái. Những người trong ban tổ chức cố mở lối từ cổng vào tới phiến ngọc đỏ dùng để đóng mộ.

Điện thờ thiêng nhất trong giới Kito giáo nằm xa khỏi cảnh hùng vĩ. Nó tối đen, chật hẹp, giống cái động của tu sĩ hơn là các thánh đường sừng sững của châu Âu. Nó nằm khuất trong khu chợ Hồi giáo, lối vào chính của nó giống như lối thoát hiểm của rạp chiếu bóng tồi tàn. Bên trong nhà thờ ngổn ngang các đồ thảm, đèn, hình tượng, và các bức tranh thánh của các giáo phái đua nhau dàn ra để chiếm chỗ. Những ghi chép của Herman Melville đã có lý khi nói: "Mộ Thánh (không người Do Thái nào được phép ở trong nhà thờ của Mộ Thánh)-cái vòm để nát-cây cột gần hư... các bậc thang của những hang động, mồ mả và điện thờ mốc meo. Mùi bốc lên như nhà mồ". Jerome Murphy O'Connor, tác giả cuốn Vùng Đất Thánh, không hơn cuốn sách hướng dẫn khảo cổ, viết: “Tính bạc nhược của con người thì không đâu rõ ràng hơn ở đây; nó là hình ảnh thu nhỏ của phận người. Người ta đến để được đong đầy nhưng sẽ thất vọng [....]”

Nhưng tôi không thể nói khác đi. Công trình kiến trúc thích hợp khung cảnh của nó, tạo ra bầu khí tối tăm, ủ ê hợp với tình trạng suy sụp của Kito giáo ở vùng Đất Thánh. Sự lộn xộn của nó giống như ngôi nhà mốc của người hưởng trợ cấp mất trí khư khư giữ di vật hào nhoáng nhưng vô giá trị của cuộc sống trước kia cả khi các bức tường đang rệu rạo. Có tàn tích của thời đã mất: những cây thập giá nhỏ được các khách hành hương xưa kia khắc vào tường, nhưng cái cột bị lạng mỏng và sử dụng lại của nhà thờ Constantine và thanh gươm của Godfrey de Bouillon, ông vua của thời Thánh chiến đầu tiên. Chính vẻ xấu xí của nhà thờ có sức lôi cuốn của lối kiến trúc gothic thời trung cổ, và cảm nhận huyền bí ban sơ đầy khiếp sợ.

Trong khi bồn chồn chờ đợi, các khách hành hương giơ lên bó nến 33 cây, biểu tượng những năm của cuộc sống của Jesus. Những chàng trai nhảy múa trên vai các bạn bè và lắc trống theo nhịp Ả Rập rối mù, hát vang câu "Đây là mồ của Chúa chúng ta!" (Hada qaber saidna!). Nó có cùng nhịp điệu dữ dội và điệu của những bài hát của cuộc nổi dậy của người Palestine, còn những viên sĩ quan cảnh sát Israel có nhiệm vụ giữ trật tự hầm hầm nét mặt trước đám đông thù địch. Trở lại thế kỷ trước, những bài thánh ca được ưa chuộng còn có những ca từ như "Hỡi người Do Thái, Hỡi người Do Thái, Chúng ta là máu của Đức Kito, còn các ngươi là máu của loài khỉ" hay "Hỡi người Do Thái, Hỡi người Do Thái! Lễ hội của các người là lễ hội của lũ dã nhân". Thỉnh thoảng xảy ra những cuộc ẩu đả với cảnh sát Israel, hoặc những cuộc xô xát giữa các Kito hữu Hy Lạp và Armenia.

Chút gì là dữ dội và lộn xộn là một phần vui thú của nghi lễ Lửa Thánh. Đó là nạn càn quấy bóng đá khoác lốt nhiệt tình tôn giáo, và qua nhiều thế kỷ các biến cố đã từng kéo dài mà không kiểm soát nổi. Lính Thổ Nhĩ Kỳ thường phải khám xét các khách hành hương xem họ có giấu dao hay dùi cui. Có lẽ sự cố đẫm máu nhất đã xảy ra hồi năm 1834 được du khách người Anh, Robert Curzon, mô tả:

Binh lính trang bị lưỡi lê đã giết nhiều kẻ khốn khổ ngất choáng và các bức tường vấy máu và óc của những người bị giết chết bằng súng như những con bò. Mọi người cố vùng vẫy để tự bảo vệ [và] trong cuộc hỗn chiến, những ai ngã xuống liền bị đạp cho chết [...].Tôi thấy đến bốn trăm cả kẻ chết lẫn người còn sống bị chất đống lộn xộn với nhau, có khi cao tới mét rưỡi.

Đỉnh cao của lễ hội được báo hiệu là Thượng phụ Chính thống Hy Lạp sắp tới. Đám đông vây quanh ông ta. Cuối cùng ông ngừng trước lối vào mộ đã được bít kín bằng đống sáp và được các tăng lữ Hy Lạp và Armenia canh giữ. Vị Thượng phụ cùng giám mục Armenia bước vào. Sau sự tạm lắng đầy kịch tính để đám đông rơi vào thinh lặng như mong đợi, ô cửa sổ ở bên mộ rực ánh vàng. Tiếng gầm như sâm vang lên trong vòm, và hàng trăm bàn tay háo hức đưa về phía ánh hồng xuất hiện từ ngôi mộ. Lửa chuyển từ ngọn nến này tới ngọn nến khác, lan qua đám đông như vết dầu loang bao quanh mộ, tràn qua các lối đi hẹp và đổ qua lối vào. Một đám mây khói lơ lửng bên trên che mờ biển ánh sáng. Những người trẻ nắm tay nhau tạo thành các lối cho những người chạy đưa vội lửa tới những nhà nguyện khác. Thời trước đây còn có con tàu đậu chờ ở Haifa để nhận lửa chuyển tới Nga.

Người ta không biết rõ nguồn gốc của nghi lễ Lửa Thánh. Một số người cho rằng đó là ảnh hưởng của nghi thức lửa của Bái Hỏa giáo, những người khác lại cho rằng đó là âm vang của các nghi lễ mùa xuân điên cuồng của Dionysus. Một trong những trình thuật sớm nhất về nghi lễ Lửa Thánh là của Bernard the Monk, một khách hành hương thế kỷ thứ X, viết là, "một thiên thần tới thắp sáng những cây đèn treo bên trên mộ". Tu viện trưởng thế kỷ XII, Daniel, viết: "Ánh sáng Thánh không như lửa trần gian vì nó chiếu sáng thật khác và thật diệu kỳ. Lửa của nó đỏ giống như son và nó chiếu tỏa rất mơ hồ."

Nghi lễ Lửa Thánh được coi là sự nhắc nhớ sự lạ về sự phục sinh của Đức Kito. Jesus ở đây là một Kito hữu phương Đông;

Ngài thực hiện các phép lạ vào thời của giáo hội Chính thống. Những người tham gia cuộc Thập tự chinh kỷ niệm nghi lễ Lửa Thánh, nhưng theo Daniel, chỉ những ngọn đèn của các giáo hội phương Đông được nhóm lên. Còn những ngọn đèn do Công giáo Roma "Frankish" bị Chúa khinh miệt.

Đã có thời Giáo hội Công giáo Roma tán thành nghi lễ Lửa Thánh nhưng sau này loại bỏ tính xác thực của nó, cho đó là sự hiềm khích giữa các giám mục Hy Lạp và Armenia.

Vòm Đá rực lên một cách ấm áp với những tia bình minh đầu lấp lánh khắp Mount of Olives. Ở quảng trường lớn Haram al- Sharif các tín đồ vội vã giành chỗ khi có tiếng chuông báo giờ cầu nguyện. Cả những con chim hót cũng nhập vào lời mời gọi khi chúng bay lượn giữa những cây bách.

Thánh ca vang lên từ cộng đoàn. Nó bao gồm một phần của Shehadah, sự tuyên tín trầm trầm, rên rỉ của các tín đồ Hồi giáo: "Chúa thật Cao cả. Chúa thật Cao cả. Không có Chúa nào ngoài Chúa " (Allahu Akbar, Allahu Akba. La Ilaha illa-llah...). Giọng hát của đám đông thấm vào các ngõ ngách của cổ Thành.

Nhà thuyết pháp nhắc các tín đồ Hồi giáo dâng hy lễ theo lệnh của Chúa giống như niềm tin của Abraham đã cứu sống Ishmael. Họ phải độ lượng với người nghèo, người tật nguyền, trẻ mồ côi, và phụ nữ. Đấy quả là bài thuyết giáo lạ tai đối với những người không phải tín đồ Hồi giáo, vì người Do Thái và người Kitô giáo xác định chính xác chỗ Abraham dâng hy lễ là dưới Vòm Đá, nhưng các tín đồ Hồi giáo tin rằng nó diễn ra ở xa, ở Mecca. Hồi giáo, tự cho nó là mạc khải sau cùng, đã bồi đắp lại truyền thông của Do Thái và Kito giáo, kết tội những người đi theo họ làm sai lệch thông điệp của Chúa.

Một số Dân của Sách muốn làm bạn lầm đường lạc lối; nhưng họ chẳng khiến ai lầm đường ngoài chính họ, dù họ không nhận ra điều ấy. Hỡi Dân của Sách! Sao các người chối bỏ những mạc khải của Chúa khi các ngươi biết đó là thật? Hỡi Dân của Sách! Sao các ngươi lẫn lộn thật và giả, và cố tình che giấu sự thật? (Coran 3: 65-71)

Hồi giáo tin đó là đức tin tinh tuyền của Abraham. Solomon, Moses, và Jesus là những tiên tri, nhưng người Do Thái và Kito giáo không tuân theo lời dạy của họ. Các học thuyết của Kito giáo về thần tính của Jesus và Chúa Ba Ngôi là cố ý xuyên tạc, như câu chuyện về Jesus chịu chết trên thập giá. Theo truyền thống Hồi giáo sự đóng đinh trên thập giá hoặc là ảo tưởng, hoặc Chúa đã thay Jesus bằng một người khác trên thập giá.

Vào thời của Muhammad, cũng như ngày nay, những kẻ không tin luôn có mưu đồ chống lại Hồi giáo. Vào thời lịch sử cuộc đấu tranh chống lại các Kito hữu, quân Thập tự chinh và sau này là chống lại chủ nghĩa đế quốc phương tây. Giờ là chống lại người Do Thái.

Khái niệm về siêu nhiên, đấng cứu thế như Messiah không quan trọng đối với Hồi giáo. Người Ả Rập, nhất là người Palestine, khao khát đấng cứu chuộc trần gian sẽ khôi phục sự thống nhất của Hồi giáo và trục xuất các dân ngoại: một Saladin mới đánh bại quân Thập tự chinh (Do Thái) mới. Vị lãnh tụ Hồi giáo nói trong bài thuyết giảng ở lễ hội Id al-Adha: "Hãy trung thành với đức tin, và Allah sẽ công nhận ngươi là đại lãnh tụ, người sẽ khôi phục chân giá trị của các tín đồ Hồi giáo".

Haram al-Sharif, nơi mà cho tới sự giải phóng của Ottoman hồi thế kỷ XIX bị những người không phải Hồi giáo bỏ quên, vẫn nằm ngoài phạm vi của các ngày thứ Sáu. Nhiều năm rồi, biết bao lần tôi đã bò trên các mái nhà của cổ Thành, trốn tránh cảnh sát Israel và xin tha cho các gia đình, tìm chỗ cao trên bức tường để nhìn các tín đồ. Cuộc hành trình của tôi thường là nỗ lực phí phạm theo nghĩa của một phóng viên-những bùng phát bạo động ở Jerusalem hiếm khi có thể đoán trước-nhưng tôi chẳng bao giờ ân hận những giờ phút trôi qua để nhìn người mộ đạo bên dưới. Quyền năng thu gom vào những lời cầu nguyện của tín đồ Hồi giáo là một cảnh uy nghi.

Haram al-Sharif vẫn thanh bình cả khi thành phố bị nêm chặt với hàng mươi ngàn người sùng bái. Quảng trường mở của nó làm cho những nẻo đường của cổ Thành bít kín, quanh co bớt căng. Những đài kỷ niệm của nó nổi bật lên, không bị chắn bởi những tòa nhà khác. Cảnh đặc khít của những hàng người cúi rạp trên đất như một khối duy nhất thật ngớ ngẩn nhưng là sự tuyền tín mạnh mẽ nói lên sự đồng nhất của Hồi giáo trước Thiên Chúa.

Vào cuối giờ cầu kinh, tín đồ Hồi giáo nhanh chóng tản đi, hòa vào nhóm các nữ tu Ý mang máy ảnh và quyển kinh thánh ở Via Dolorosa. Theo truyền thống cầu nguyện kính cẩn trước thi hài của Chúa vào những ngày lễ lớn, đám đông tiến tới nghĩa trang nằm trước cổng được đóng hai lần thật lạ kỳ dẫn vào Haram al-Sharif. Đây là chủ đề của những truyền thuyết xung đột, bao gồm những xác quyết cho rằng hoặc Elijah hoặc Jesus sẽ vào thành phố qua chỗ này vào ngày Tận thế. Các tín đồ Hồi giáo bị cáo buộc (bởi các Kito hữu và Do Thái) là đã đào nghĩa trang tại chốn này để ngăn không cho Đấng Cứu thế trở lại vì khi tiếp xúc với nghĩa trang sẽ làm Ngài mất tính chất thiêng liêng. Tuy nhiên, việc định vị của nó có nhiều điều hơn nữa có liên quan với sự thể là các tín đồ Hồi giáo, giống như người Do Thái và Kito giáo, đặt chỗ của Ngày Phán xét ở hẻm bên dưới, Thung lũng Kidron. Truyền thống Hồi giáo bảo rằng một thanh gươm, một cây cầu hẹp, hay một lối đi sẽ xuất hiện giữa Hararn al-Sharif và Núi Olives. Những người tin sẽ đi qua bình yên, trong khi những kẻ tội lỗi sẽ rơi xuống lửa Địa ngục.

Bà con của người phụ nữ mới qua đời dâng tặng cà phê và đường cho các khách qua đường. Tang lễ nơi người Palestine là một việc có liên quan với mọi người; truyền thống bảo rằng khi người Hồi giáo thấy đám tang đi qua, họ sẽ gia nhập vào đám người đưa đám, cùng hát Al-Fatiha, câu xướng mở đầu của kinh Coran, hoặc tra tay vào khiêng quan tài một đoạn.

Các tín đồ Hồi giáo bày ra những ngày lễ hội như Id al- Adha là phương cách tái phân phối của cải. Việc phân phát của bố thí là giáo lý chính của Hồi giáo và các giáo đường trở thành nơi thu gom của bố thí để phân phát cho những gia đình nghèo túng. Giống như lễ Vượt qua, lễ Id al-Adha là lễ của gia đình, hay đúng hơn là gia tộc. Họ bỏ ra tới ba ngày để đi thăm bà con, đem tiền và quà tới các gia đình.

Đối với người Palestine, mỗi ngày lễ nghỉ là một nhắc nhớ rằng họ còn nằm dưới sự chiếm đóng, chưa có quê hương; như người Do Thái đã gặp, họ vẫn còn là nô lệ của Pharaoh. Trong những hoàn cảnh này, tôn giáo trở thành phương tiện phản kháng.

Trong thời còn bị người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị, khi không có những ranh giới nội địa ở Levant, đoàn người hành hương đông đảo trở về từ Haj thường đi vòng qua Jerusalem. Đây là "cuộc đi viếng" và trên đường đi lên từ Thung lũng Jordan, khách hành hương sẽ dừng lại ở khu liên hợp hình vòm trong sa mạc được gọi là Nebi Musa, nơi người Hồi giáo tin là nơi chôn cất Moses. Nó là khu dành cho khách hành hương.

Ở đây, sau khi Hồi giáo tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Thập tự chinh, Saladin xây ngôi đền Hồi giáo mới làm đối trọng với các du khách Kito giáo tới Jesusalem. (Một số trình thuật cho rằng đấy là Vua Hồi Baybars khoảng một thế kỷ sau). Không như các lễ hội Hồi giáo khác rải qua các mùa, Nebi Musa kéo dài cả tuần phù hợp với thời gian Tuần Thánh của Chính Thông giáo, nhằm giữ khối Hồi giáo trung kiên sẵn sàng đánh bật bất kỳ sự phá hoại nào của các Kitô hữu. Vì thế một khối Palestine được phát sinh như một thách thức chính trị đối với người nước ngoài. Claude Regnier Conder, một sĩ quan quân đội Anh, thuật lại cảnh đe dọa năm 1875:

Các phe Hổi giáo cuồng tín diễu hành trên các đường phố Jerusalem, mang cờ xanh có hình lưỡi liềm và hàng chữ Ả Rập. Một đội vệ sĩ mang rìu chiến, giáo và súng dài hộ tống, đi sau là cặp trống lớn với những cái chũm chọe.

Hai năm sau khi Anh chiếm Jerusalem, Nebi Musa trở thành điểm nóng của cuộc nổi dậy lớn đầu tiên của người Palestine chống lại sự bảo trợ phong trào phục quốc Do Thái của Anh. Quân Anh phải mất ba ngày để dẹp tan cuộc bạo loạn hồi tháng Tư 1920 ấy, bỏ lại vài thi thể Do Thái và Ả Rập cùng hàng trăm người bị thương ở Jerusalem.

Chẳng phải sự trùng hợp ngẫu nhiên mà trong bầu khí sục sôi của cuộc đấu tranh chính trị sau này ở Jerusalem, gần đây người Palestine làm sống lại lễ hội Nebi Musa.

Năm 1998, những ông đồng bà cốt (Hồi giáo) đứng thành vòng tròn, nhảy múa cùng những tiếng chũm chọe và trống phách chói tai dưới rừng cờ viết lên những câu kinh Coran. Các quầy hàng bán thực phẩm, nước, trứng màu, đồ chơi trẻ con rẻ tiền (nhất là súng ống). Các nhóm gia đình rải khắp các bụi cây, che nắng bằng những tấm bạt cùng tiếng xèo xèo của thịt và khoai rán. Lễ hội dân gian chấm dứt ở đây. Cái còn lại là hoạt động chính trị.

Bên trong công thự hình vòm màu trắng, chính quyền. Palestine tổ chức mít tinh hát ca tụng chủ tịch Yasser Arafat. Abu Ammar được tôn lên làm Saladin mới; ở Tikrit, sinh quán của Tổng thống Saddam Hussein ở Iraq, các viên chức tung ra cuốn sách mỏng mô tả Saddam được Saladin xức dầu. Trong khi đó, người Syria đã chiếm hữu nơi chôn cất Saladin ở Damacus và gần đây phục chế ngôi mộ gần giáo đường Omayyad. Sự khiêm nhu huyền thoại của Saladin từ lâu đã bị các vua chúa và các vị đứng đầu nhà nước của thế giới Ả Rập quên khuấy. Chiến binh cao nhã đã được thay thế bằng những kẻ đàn áp đi những chiếc xe Mercedes đen bóng.

Giáo sĩ Hồi giáo của Jerusalem, Ekrima al-Sabri ngồi gần mặt tiền giải thích, "Điện thờ không nhất thiết là phần mộ thật, nhưng là biểu tựơng. Theo trình thuật lịch sử của chúng ta, Moses đã không vào Palestine". Khu vực truyền thống Mount Nebo, nơi Moses nhìn về vùng Đất Hứa trước khi qua đời, nằm ở rìa khu đối diện của Thung lũng Jordan, nhưng theo sách Đệ nhị luật, "không có người nào có mộ chôn ở đây vào ngày ấy".

Vị giáo sĩ nói: "Trong Hồi giáo không có sự phân cách tôn giáo và chính trị. Nebi Musa biểu tượng sự giải phóng Jerusalem khỏi sự chiếm đóng của quân Thập tự chinh (franj). Nó vào cùng lúc mừng lễ Phục sinh để quân Thập tự chinh không thể lợi dụng lễ mà tấn công vùng Đất Thánh". Nhưng tôi hỏi, tại sao người Hồi giáo giữ vững truyền thống khi mà quân Thập tự chinh đã tàn tạ từ lâu? "Không còn quân Thập tự chinh, nhưng vẫn còn phương Tây. Phương Tây đã thế chân quân Thập tự chinh và phương Tây ủng hộ Israel chiếm đóng đất nước chúng tôi. Chúng tôi coi đây là một hình thức Thập tự chinh khác".

Đối với người Hồi giáo, Palestine là quà tặng của Hồi giáo (waqf), tài sản thánh được trao ban vĩnh viễn. Không thể nào có một chủ quyền khác, và người Hồi giáo buộc lòng phải đánh Israel. "Người Do Thái có thể sinh sống ở đây như những công dân chứ không phải là những nhà cai trị" Al-Sabri nói.

Hồi giáo coi Moses là tiên tri ưu việt. Đâu là bằng chứng bảo rằng Chúa ban vùng Đất Hứa cho người Do Thái? Al-Sabri bảo, người Do Thái không còn quyền do bác bỏ lệnh đầu tiên của Chúa để vào vùng Đất Hứa. Theo sách Dân số, những tay do thám được gửi tới để trinh sát vùng đất báo cáo rằng "đó là vùng đất bị các cư dân ở đó chiếm sạch; và tất cả dân mà chúng tôi thấy ở đó là những người có vóc dáng to lớn. Chúng tôi thấy những tên khổng lồ..." (Num. 13: 32-3).

Kinh thánh và Kinh Coran viết rằng, vì sự hoài nghi của chúng, dân Israel bị buộc phải lang thang bốn mươi năm trong hoang mạc. Moses không được vào vùng Đất Hứa, và đã chết ngay ngưỡng của nó. Theo quan điểm Hồi giáo qua diễn giải của Al-Sabri: "Lời hứa của Chúa bị hủy bỏ. Điều chúng ta có hiện nay là kết quả của Tuyên bố Balfour, không phải lời hứa của Chúa. Anh đã cắm Israel ở đây và Mỹ đã giúp Israel".

Kinh Coran lên án cả Do Thái và Kito hữu không biết lắng nghe lời Chúa, coi thường Tiên tri Muhammad, khước từ chấp nhận đức tin mới-cũ của Hồi giáo và biến nó thành "lời chế nhạo trò giải trí". Người Do Thái đáng bị nguyền rủa:

Các ngươi phải biết rằng những kẻ cứng lòng nhất trong đám thù địch là người Do Thái và dân ngoại, và ảnh hưởng gần nhất với họ là những người bảo rằng: “Chúng tôi là Kito hữu”. Ấy là vì có các linh mục và các tu sĩ ở giữa họ, và vì họ không có lòng tự trọng. (5: 82)

Còn nữa, phần lớn các thế kỷ bách hại trong thế giới Kito giáo, đất của Hồi giáo không để cho người Do Thái làm nơi trú ẩn cho tới những năm đầu của phong trào Phục quốc, khi những người trốn tránh những cuộc thảm sát ở Nga chạy vào phần đất Palestine do người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị. Như các Kito hữu, người Do Thái là "Dân của Sách" được đối xử như công dân hạng hai (dhimmi) và phải đóng thuế thân. Tấm thẻ màu vàng phát xuất ở Baghdah thời trung cổ. Người Do Thái bị phân biệt đối xử, nhưng hiếm khi bị hành hạ.

Do Thái giáo và Hồi giáo có nhiều điểm chung. Cả hai đều là tôn giáo chỉnh đốn các mặt của cuộc sống, hơn là chỉ vấn nạn về niềm tin cá nhân. Họ thường được cho là theo thuyết độc thần nghiêm ngặt hơn Kito giáo, chối bỏ học thuyết về Chúa Ba Ngôi, và áp đặt các luật ăn chay. Họ đặt ra các hệ thống luật tôn giáo tương tự và phải phụ tùy vào giáo sĩ (Do Thái) cũng như lãnh tụ (Hồi giáo). Ở Byzantine và thời Thập tự chinh, người Do Thái thường đứng về phía người Hồi giáo.

Sự xuất hiện chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đánh đổ sự khoan nhượng nhau, và người Palestine đương đầu với thanh gươm ý thức hệ hai lưỡi, lý tưởng hóa giai đoạn cộng sinh của Hồi giáo với Do Thái tìm lại những bài luận chiến cũ chống lại Do Thái giáo.

Mặc dầu các sử gia Do Thái phân trần việc Omar Ibn al- Khattab nhận ra là ông đã xây nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa đầu tiên trên phần nền nơi đã có đền thờ Do Thái, các nhà lãnh đạo Hồi giáo đương thời quyết liệt phủ nhận là đã có bất kỳ đền thờ nào bên dưới Al-Aqsa hay Vòm Đá. Giáo sĩ Hồi giáo khẳng định: "Không có sự liên quan giữa Al-Aqsa và đền thờ. Đó là ảo tưởng".

Al-Sabri thừa nhận có đền thờ Do Thái ở Jerusalem, nhưng xác quyết là không ai biết nó ở đâu. Tại sao không ở Haram al- Sharif, như người Do Thái và các nhà khảo cổ xác nhận? Al- Sabri đưa ra lập luận xác đáng: "Thiên Chúa lệnh xây nhà thờ Hồi giáo. Chúa thì công minh; Người sẽ không bảo xây để gây thiệt hại cho một tôn giáo khác".

Trên đỉnh Núi Gerizim, người Samaria bị lãng quên quanh vùng lõm hẹp, thuật lại những câu thơ thánh của họ viết theo thứ ngôn ngữ đã mai một:“Trăng tròn rực sáng ở phía đông khắp Jordan. Bồn chồn với sự đề phòng, trẻ con giữ chặt con cừu, mỗi nhà một con. Chúng mặc áo choàng trắng và đội mũ đuôi seo đỏ, và được đi giày không thích hợp.”

Khi cất cao bài thánh ca của tổ tiên, những con cừu bị lật bật ngửa ra và lưỡi dao sát tế lướt qua họng của chúng. Những con vật đá lung tung một cách yếu đuối vài phút cho đến khi hết hơi rồi chết. Những người đàn ông giương đôi mắt đờ đẫn, bôi máu lên trán những người thân đứng gần đó và reo hò vang lên. Thi thể những con vật được lột da và rửa sạch, được xiên vào những cọc gỗ và đưa vào bếp được đào dưới đất.

Lễ kỷ niệm là một trong vài dịp để cả người Do Thái và Palestine đứng gần thân ái với nhau, cả vào lúc căng thẳng.

Trình thuật truyền thống cho rằng người Samaria là tàn dư của mười "bộ tộc đã mai một" của vương quốc Israel ở phía bắc đã bị hủy diệt; đối với người Palestine họ là "những người Do Thái Palestine" vô hại, ý nói là người Palestine không bài-Semite, chỉ chống lại chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Người Samaria được hưởng quyền trở thành công dân Israel và có đại biểu trong hội đồng lập pháp Palestine. Đó là vị thế ưu tiên đặc biệt đối với một cộng đồng nhỏ xíu mà có thời suýt bị diệt vong.

Người Samaria, được nổi tiếng nhờ dụ ngôn của Jesus về người Samaria Tốt lành, bị người Do Thái, người Kito giáo, và người Hồi giáo đàn áp vào những lúc khác nhau. Lúc bắt đầu sự cai trị của người Anh ở Palestine, họ chỉ còn 146 người bám quanh Núi Gerizim thánh. Năm 1998 họ tăng lên được 604 người.

Vào lúc lập nước Israel, người Samaria bị phân làm đôi. Một phần định cư ở nước Do Thái mới, trong khi phần còn lại ở lại Nablus, ở chân Núi Gerizim, dưới sự thống trị của người Jordan. Việc đánh chiềm Bờ Tây của Israel năm 1967, một tai họa cho người Ả Rập, lại là điều may đối với người Samaria vì họ có thể tái thiết lập quan hệ với nhau. Nhưng hòa ước năm 1993 giữa người Israel và người Palestine, hòa ước bắt đầu phân chia lại Bờ Tây, có khi họ lại bị phân cách. Người Samaria tự điều đình với các viên chức Mỹ và Anh nhằm bảo đảm quyền lợi của họ được cứu xét. Binyamin Tsedaka, chủ bút các bản tin của cộng đồng người Samaria nói: "người Samaria phải đi giữa các giọt mưa của người Israel, Jordan, và Palestine."

Hy lễ của người Samaria trong lễ Vượt qua là nền tảng của niềm tin của giáo phái. Niềm tin vào sự thánh thiêng của Núi Gerizim nằm ở trung tâm của cuộc luận chiến kéo dài giữa người Samaria và người Do Thái. Phần lớn sự kiện thánh mà người Do Thái đặt trên Núi Moriah ở Jerusalem, như sự chuẩn bị sát tế Isaac của Abraham, thì người Samaria gán cho là trên Núi Garizim. Ở đây người Samaria đã xây một đền thờ đối nghịch.

Kinh thánh đồng nhất hóa núi là biểu tượng phúc lành của Chúa, đối nghịch Núi Ebal đáng nguyền rủa. Trong thung lũng sâu giữa những ngọn núi ở Nablus, sát khu vực thuộc Schechem theo kinh thánh, cửa ngõ tự nhiên tới Palestine nơi Kinh thánh bảo là chỗ Abraham lần đầu tiên đi vào đất Canaan và là nơi Joseph được chôn.

Kinh thánh vẽ chân dung người Samaria là dòng giống Israel ô uế, hỗn tạp và là những dân bên ngoài được người Assyria đưa vào sau khi họ tiêu diệt vương quốc của Israel. Trong khi thừa nhận tôn giáo của Israel, các tác giả Kinh thánh viết, người Samaria vẫn là "những hình ảnh được tạc khắc."

Người Samaria lại bảo người Do Thái là những người tái phạm, còn họ mới là Con cái Israel thật. Họ quả quyết người Do Thái đã bỏ trốn vào thời các Án quan, khi Thầy cả Thượng phẩm Eli thiết lập điện thờ mới ở Shiloh. Người Samaria chỉ thừa nhận trình thuật của sách Torah, năm quyền đầu của Kinh thánh, là sách thánh. Từ khi có niềm tin thật của dân Israel, người Samaria bảo rằng họ tuân thủ các quy tắc thanh tẩy theo nghi thức nghiêm ngặt hơn người Do Thái. Họ bảo, tên của họ không phát xuất từ lên vùng nơi họ sống là Samaria (tiếng Hebrew:Shomron), nhưng phát xuất từ shomerim, “những người giữ niềm tin chân thực”.

Thầy cả Thượng phẩm cuối cùng, Josef Ben Ab-Hisda

Ha'abta'ai đã nói với tôi ở Nablus khi tôi thoáng gặp ông trước khi ông qua đời ở tuổi 79, "Chúng tôi là tôn giáo cổ xưa nhất Irên thế giới". Theo sự tính toán của người Samaria, ông ta là thầy cả thượng phẩm thứ 124 chính thức tính lui lại Ithamar, con của Araon và là cháu của Moses.

Đây là dân có thể, theo lý thuyết, tranh luận quyền sở hữu của Israel về vùng đất dựa trên nền tảng lập luận tôn giáo của chính người Do Thái. Nhưng lịch sử được kẻ thắng viết ra chứ đâu phải từ kẻ thua. Một trong những đồng sự của Thầy cả Thượng phẩm, Hosni Wasef đã giãi bày: "Người Do Thái thì tinh ranh, còn người Samaria thì không. Khi bị tấn công, người Do Thái chạy trốn và phân tán. Người Samaria tin rằng núi là thánh nên ở lại đó. Bất cứ khi nào có chiến tranh là số người của chúng tôi giảm đi".

Người Samaria khẳng định tài liệu cổ xưa nhất của họ trên thế giới, cuộn sách Torah có niên đại từ thời dân Israel vào đất Canaan, nhưng vấn đề này còn được các chuyên gia tranh cãi. Năm 1955, hai cuộn sách cổ bị đánh cắp khỏi nhà thờ của người Samaria ở Nablus. Những kẻ đánh cắp lúc đầu đòi tiền chuộc là 7 triệu mỹ kim nhưng sau hạ xuống còn 2 triệu. Nhưng cộng đồng quá nghèo không có tiền để chi, còn những nỗ lực của các viên chức Israel, Jordan, và Palestine, trong chừng mực nào đó, thất bại không tìm ra tội phạm và các cuộn sách.

Thầy cả Thượng phẩm vẫn bị bọn đánh cắp quấy rầy. "Chúng tôi không có lực, chỉ còn biết cầu Chúa soi sáng để họ trả chúng lại". Khi tôi ra về, ông ta trịnh trọng nhắc lại câu chuyện người đàn bà Samaria cho Jesus nước uống ở Giếng của Jacob. Rồi ông nói thêm: "Món nợ này mỗi người Kito giáo phải trả".

Một vài nguồn thu nhập của người Samaria ở Nablus là hành nghề bói toán và thầy phù thủy cho người Palestine. Điều lạ là có rất nhiều người Palestine tìm đến để tìm giải pháp cho những rắc rối của họ, xin bùa ngải, hoặc lời nguyền giáng xuống kẻ thù của họ. Người Samaria xác nhận rằng bí quyết tiên đoán tương lai của họ là được Joseph, người đã giải mộng cho Pharaoh và tiên đoán nạn đói xảy ra ở Ai Cập, ban cho.

Vị Thầy cả này tỏ thái độ trung lập với người Israel và Palestine, nhưng thừa nhận lòng tốt của những nhà cai trị Jordan trước đây. Vua Hussein, ông gợi lại, là người đã tìm việc làm cho tất cả người Samaria.

Vị Thầy cả nói: "Chúng tôi yếu; chúng tôi nhỏ bé. Nếu chúng tôi ủng nộ người Palestine hẳn là chẳng giúp gì được cho họ. Nếu chúng tôi ủng hộ người Israel chắc cũng chẳng giúp gì cho họ được. Chúng tôi tự quan tâm lấy chúng tôi bằng cách sống với niềm tin tôn giáo của chúng tôi".