← Quay lại trang sách

- 3 - Mọi người dưới bóng cây nho của ông ta

Nhà máy rượu Rishon Le Zion là một trường hợp kỳ quặc.

Đứng ở giao điểm trung tâm thành phố lớn thứ tư của Israel, tòa công thự bằng gạch sẫm trông giống nhà máy thời Victoria hơn là một lâu đài Pháp. Không có những vườn nho thanh nhã: chúng gợi lại thuở xa xưa về một khu ngổn ngang của thành phố. Ngày nay nho được trồng ở các ngọn đồi xa hơn trong đất liền và được đưa tới nhà máy rượu Carmel Mizrahi. Khi ngôi làng Rishon Le-Zion mở rộng vào thành phố, nhà máy rượu bị bỏ kẹt lại giữa các hàng khối bê tông ngổn ngang vô duyên.

Những người làm vườn nho của Carmel nấu và trộn nho được ủ để dậy hương tỏa thấm vào các bức tường bên ngoài. Trong những hầm chứa có nhiều khoang, được chôn để giữ nước ép dậy men được mát trong những cái chum lớn. Bằng giọng trịnh trọng, người hướng dẫn nói nhỏ với tôi: "Chúng tôi được bảo rằng không được nói to tiếng vì rượu đang ngưng đọng". Nhưng dường như rượu đã quen với tiếng ì ầm của con đường Herzl kế bên.

Người hướng dẫn diễn giải tiếp, "Toàn bộ quá trình được những người Do Thái Chính thống điều hành. Chúng tôi phải nấu rượu tới 55 hay 60 độ bách phân và chúng tôi không được phép ăn uống trong nhà máy rượu. Cứ bảy năm chúng tôi phải để các vườn nho nghỉ".

Carmel là nhà máy rượu lớn nhất ở Israel. Dù có nhiều thương hiệu mới, có thanh thế xuất hiện ở những nơi khác trong nước, Carmel là cơ sở của nhà nước. Khi những người Do Thái Israel tụ họp để kỷ niệm lễ Vượt qua và hát bài thánh ca "Năm tới ở Jerusalem", người ta dùng rượu Carmel. Ngay cả ở các Cộng đồng Do Thái, bốn ly rượu biểu tượng bốn cảm xúc cứu độ về cuộc Xuất hành thường cũng là rượu Carmel. Sự hiện diện của rượu Israel này tại bàn tiệc Vượt qua là bằng chứng sống động nói lên sự tụ họp mong mỏi của những kẻ tha hương.

Rượu Carmel rất giống ngành kinh doanh cam Jaffa hay súng tiểu liên Uzi. Nhà máy rượu do Nam tước Edmond de Rothschild xây nhằm tạo cơ sở kinh tế cho các khu định cư ban đầu, kể cả Rishon Le-Zion, cộng đồng được những di dân của phong trào Phục quốc Do Thái, kiến lập từ năm 1882.

Tình yêu mến và ngưỡng mộ ngài nam tước ở Rishon Le- Zion và các nơi khác ở Israel không hẳn chỉ là sự đền đáp của một số trong các hậu duệ của ông. Vài năm trước, người hướng dẫn đã nói với tôi, nhà máy rượu Carmel giới thiệu loạt rượu chất lượng cao hơn nhưng bị buộc phải bỏ từ "Rothschild" khỏi nhãn hiệu sau những chống đối của các thành viên thuộc dòng tộc Pháp vì sợ nó gây nguy hại cho danh tiếng của các loại rượu Bordeaux tinh tế của họ.

Vào thời của nó, nhà máy được cho là nhà máy lớn thứ hai trên thế giới. Rượu được bán chủ yếu cho các cộng đồng Do Thái dưới các nhãn hiệu cực đẹp như Rượu của các sườn đồi Judea và từng giành giải ở Paris hồi đầu thế kỷ. Thực thế, Herzl đã lạc quan tiên đoán trong cuốn Vùng đất Tân Cựu là, đất của Palestine rồi đây sẽ sản xuất những loại rượu và xì gà ngon. Nghề trồng nho và tính hào phóng của nam tước cho phép các cư dân này thực hiện lời tiên tri: "mọi người sẽ ngồi dưới bóng cây nho của ông ta và dưới cây vả của ông ta" (Micah 4: 4).

Lúc đầu nam tước không muốn lòng tốt của ông được quảng bá mà chỉ được nhắc đến là Nhà Hảo tâm có tiếng (Ha- Nap ha-Yadua). Ông đã sớm đưa vài khu định cư khác dưới trướng của ông và phát triển các khu kiều dân Do Thái ở Palestine, chính nó

đã gây ấn tượng mạnh về lòng tốt của ông, vượt cả sự tài trợ của ông cho Louvre ở Paris. Nó đã giúp những khu kiều dân mới tồn tại., khởi đầu truyền thống ham làm giàu của cộng đồng Do Thái, nâng đỡ những nỗ lực của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Vào cuối đời, nam tước đã phải nói: "Không có tôi, những người trong phong trào Phục quốc Do Thái chẳng làm được gì; nhưng không có những người trong phong trào Phục quốc Do Thái, công việc của tôi đã tiêu tan".

Mỗi năm các cộng đồng Do Thái cung cấp nhiều triệu mỹ kim cho Israel. Khắp đất nước, những chiếc ghế công viên, các tòa nhà ở thành phố, bệnh viện, và cả những chiếc xe cứu thương đều mang tên của những người tặng. Đây là điều lạ vì Israel ít có truyền thống làm từ thiện.

Rishon Le-Zion, "Khu đầu tiên ở Zion" nhắc đến điềm của sách Isaiah về "tin mừng" cho Jerusalem (Isa. 41: 27). Hơn nữa, thành phố là nơi đầu tiên có vườn trẻ và trường tiểu học Do Thái, nơi đầu tiên có dàn nhạc Do Thái và ngay từ đầu, có Quỹ Quốc gia Do Thái. Thành phố khẳng định là nơi đầu tiên cờ Israel tung bay và là nơi sáng tác quốc ca. Thế nhưng, ở Israel hiện đại, Rishon Le-Zion đã mất đi sự nổi trội của nó so với Jerusalem, thủ đô tinh thần và chính trị. So với Tel Aviv, khu trung tâm thương mại và văn hóa; so với Haifa, trung tâm công nghiệp của Israel và là cảng chính của quốc gia. Giờ Rishon Le-Zion chỉ là thị trấn vệ tinh trong vùng mở rộng thủ

đô Tel Aviv.

Nó là thành phố đủ vừa ý, với công viên tuyệt đẹp bên ngoài nhà máy rượu, với đại lộ có hàng cây cọ hai bên từ quần đảo Canary, tàn tích của khu nông nghiệp nơi những cư dân buổi đầu trồng các loại cây như thuốc lá, bông vải, dâu tằm, quả hạnh và bạch đàn. Ở một đầu giao lộ chính được đặt tên là đường Rothschild, có đại giáo đường Do Thái, được xây làm "nhà kho" để đánh lừa các viên chức Thể Nhĩ Kỳ đa nghi, chính diện của nó phô bày vẻ trang nhã giản dị không mấy hợp với kiến trúc của Israel.

Không phải ai cũng vui với sự phát triển của thành phố. Ra khỏi vòm thành phố tôi đến thăm Miriam Atzmon, chắt gái của Aharon Mordechai Freiman, một trong những người sáng lập Rishon Le-Zion, người vẫn còn sống ở một trong những căn nhà đầu tiên. Bà bộc lộ sự pha trộn của tính cương nghị và nỗi buồn thường thấy ở các phụ nữ Israel.

Bà phân trần: "Rishon Le-Zion đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng từ lúc tôi còn bé. Lúc đó mọi người đều biết nhau. Giờ thì thành phố trở thành quá lớn và quá ồn ào với những người nhập cư từ Maroc và Yemen, nay có cả người Nga". Lời phàn nàn của bà là, từ phong trào Phục quốc Do Thái, tai họa của sự phong phú-quá nhiều người Do Thái, quá nhiều sự phát triển. Đối với những nhà sáng lập, việc tới định cư của số ít người Do Thái từ những góc trời xa xăm của thế giới không gây phiền hà, nhưng là điều kỳ diệu: Ký ức của bà nặng về thời gian hai mươi lăm năm đầu của cộng đồng, ắp đầy con số thống kê về sản phẩm nông nghiệp, nay bỗng biến đổi khi những người mới tới đến đây:

Hàng trăm gia đình trẻ, nghèo khó hoặc giàu có, đang đổ về vùng Đất Thánh, để làm việc và để gìn giữ nó, để kiếm cái ăn hàng ngày một cách yên ổn bằng mồ hôi trên mảnh đất của họ [...] Chỉ có ý trời mới đưa vùng đất của cha ông chúng tôi trở về cuộc sống và nâng nó lên khỏi sự tủi nhục-Chỉ điều này hợp nhất [những người] ấy, những con người xa cách và xa lạ với nhau và như thế các cộng đồng mới được sinh ra ở Eretz Israel. Chúng tôi coi đó quả là sức mạnh của ý niệm thánh thiêng để ổn định vùng Đất Israel.

Câu chuyện về Rishon Le-Zion, và là câu chuyện về Israel hiện đại, khởi đầu một thế giới tách khỏi vùng duyên hải Palestine thuộc Địa Trung hải. Nó khởi đầu ở Nga.

Vào thế kỷ XIX, gần nửa người Do Thái trên thế giới sinh sống ở nơi được gọi là Pale of Settlement của Nga, một vạt lãnh thổ rộng phỏng chừng chạy từ Baltic tới Hắc hải. Ngọn gió của sự khai sáng châu Âu và sự giải phóng Do Thái được cảm nhận ở Nga, dù các dòng chảy yếu hơn nhưng xáo động hơn tây Âu. Người Do Thái bắt đầu thoát khỏi chủ nghĩa truyền thông thụ động và tách biệt của các giáo sĩ để theo đuổi nền giáo dục trần thế, tìm cách hòa vào dòng tư tưởng của thế giới.

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp đang đẩy người Do Thái thế tục hóa tới cả hai cực của phạm vi. Chúng sẽ được tìm thấy trong cả hai cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, những ý tưởng về chủ nghĩa dân tộc hiện đại được những người thành công của Ý, Đức, và Hy Lạp gợi hứng đã khuấy động sự mong đợi vị cứu tinh được cất giữ lâu nay cho cuộc trở về vùng Đất Israel.

Hai giáo sĩ, Yehuda Alkalai và Tzvi Hirsch Kalischer, mỗi người đã thách thức niềm tin mà người Do Thái đã kiên trì trông đợi đấng Cứu thế để tập họp họ trở về vùng đất của cha ông.

Alkalai, được sinh ra ở Sarajevo năm 1798, được chọn làm giáo sĩ của tỉnh Semlin, ở Serbia, năm 1825. Ở đây ông thấy cách thế mà người Hy Lạp giành độc lập khỏi tay người Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi những dân tộc khác ở vùng Balkan cũng đang nổi lên chống lại các lãnh chúa Ottoman. Năm 1839, ông bắt đầu xuất bản một loạt sách mỏng bán-huyền bí kều gọi sự trở về trên quy mô lớn. Giống như Jacob, người đã mua một lô đất gần Shechem, những người giàu có Do Thái sẽ thuê đất Israel từ Vua Thổ. Ông tán thành việc phục hồi tiếng Hebrew và lập hội đồng kỳ mục để dẫn dắt cộng đồng.

Bằng cách trích những bí ẩn bằng số huyền bí được cho là gắn với bản văn kinh thánh, Alkalai kết luận rằng ít nhất 22.000 người Do Thái sẽ trở về vùng Đất Thánh "như sự chuẩn bị cần thiết cho sự hạ cố về sự hiện diện Thần thánh giữa chúng ta". Ông đã tổ chức những nhóm nhỏ người tham gia xa xôi như London và định cư ở Palestine như tấm gương cho những người khác, nhưng những nỗ lực của ông ta có ít tác động. Tuy nhiên, những người theo ông gồm ông nội của Herzl, Simon Loeb Herzl, người đã gieo hạt mầm trở về trong tâm trí của người cha tương lai của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái.

Vào khoảng cùng thời gian,ở thành phố Thorn nói tiếng Ba Lan thuộc Đông Phổ, Kalischer đang chứng kiến cuộc đấu tranh, của người Ba Lan giành độc lập khỏi Nga. Năm 1836, ông viết cho thành viên của triều đại Rothschild là sự giải thoát sẽ không đến từ sự can thiệp thần thánh, nhưng "do nỗ lực của con người và ý chí của các nhà nhà cầm quyền". Năm 1862, ông hoàn thành tác phẩm quan trọng Đi tìm Zion (Drishat Zion), với lập luận:

Đấng Toàn năng, vì Danh Người, sẽ không bỗng đến từ trên cao và lệnh cho dân của Người tiến tới. Người sẽ không sai Đấng Cứu thế từ trời trong nháy mắt, để thổi kèn (tập họp) dân Israel tản mát về Jerusalem. Người sẽ không bao vây Thành Thánh bằng bức tường lửa hay làm cho Đền Thánh đến từ trời. [...] Trái lại, vị Cứu tinh sẽ bắt đầu bằng việc đánh thức sự ủng hộ của những nhà hảo tâm và bằng cách tranh thủ sự đồng thuận của các dân nước để tụ tập một số người Israel tản mác về cùng Đất Thánh.

Kalischer ủng hộ việc lập các khu kiều dân nông nghiệp và là phương thế ép buộc khối Liên minh Toàn Israel, trụ sở tự thiện của Do Thái ở Pháp, cung cấp trợ cấp ban đầu để xây trường nông nghiệp Mikvel Israel, "niềm Hy vọng của Israel", ở ngoại ô Jaffa năm 1870.

Cùng năm xuất bản cuốn Đi tìm Zion, trong môi trường của chủ nghĩa thế giới ở Paris, Moshe Hess, một trí thức theo chủ nghĩa xã hội, người cộng tác với Karl Marx và Friedrich Engels, vừa phát hiện lại nguồn gốc Do Thái của ông. Được sinh ra trong một gia đình chính thống ở Cologne năm 1821, Hess bỏ đức tin của ông và cưới một cô gái điếm, để phần nào chuộc các tội lỗi của xã hội tư sản. Trong cuốn sách của ông, Rome và Jerusalem, xuất bản năm 1862, ông tuyên bố: "Sau hai mươi năm ly gián tôi đã trở về với dân của tôi. Tôi lại đang dự phần vào các lễ hội vui tươi và những ngày đau buồn, vào các hy vọng và ký ức của dân tộc tôi".

Bất bình về sự bôi nhọ người Do Thái xảy ra ở Damascus năm 1840, Hess không còn tin là người Do Thái và dân tộc khác có thể hòa hợp thành một nhân loại duy nhất. Giờ đây ông nghĩ rằng các dân tộc có những nét và sứ mạng riêng phải hoàn thành. Ông nói, người Do Thái "vẫn sẽ luôn là những kẻ xa lạ giữa các dân tộc" và ông tin rằng:

Tiếng gọi trọng đại được đặt ra cho người Do Thái: là nguồn sinh động về sự liên lạc giữa các đại lục. Các người sẽ là người mang nền văn minh cho những dân tộc nào còn chưa có kinh nghiệm và thiếu người dạy về các khoa học của châu Âu, các khoa học mà dân tộc của các người đã đóng góp rất nhiều. Các người sẽ là người hòa giải giữa châu Âu và viễn Á, mở ra những con đường dẫn vào Ấn Độ và Trung Hoa-những vùng xa lạ cần được mở vào sự văn minh. Các người sẽ tới vùng đất của cha ông các người đã được gắn triều thiên của đọa đày lâu đời. Và ở đó, rốt cuộc, các người sẽ được chữa lành hết mọi bất hạnh của các người!

Rome và Jerusalem hình dung trước nhiều học thuyết của chủ nghĩa Phục quốc Do thái. Alkalai, Kalischer và Hess, theo những cách khác nhau, đang khóc trong hoang mạc. Họ đã viết vào lúc cực thịnh của chủ nghĩa tự do, khi quan điểm đối với người Do Thái khắp châu Âu xem chừng sáng sủa. Các tác giả buổi đầu của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái cố kéo người Do Thái về vùng đất cổ xưa. Nhưng đối với chủ nghĩa Phục quốc Do Thái để chiếm được sự mường tượng của dân chúng, người Do Thái phải được thúc đẩy bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài-Semite.

Vào ngày đầu tháng Ba 1881, Nga hoàng Alexander không còn vận may nữa. Sau vài lần thoát chết khỏi mưu toan sát hại của những người theo chủ nghĩa vô chính phủ-bao gồm những toan tính bắn ông, làm trật đường rầy xe lửa của ông và cả tấn công Cung điện Mùa Đông ở St. Petesburg-Nga hoàng bị giết chết bằng trái bom ném vào xe ngựa của ông. Quyền hành được chuyển từ Nga hoàng cải cách, người đã giải phóng nô lệ và cất bớt những gánh nặng lên người Do Thái, cho con của ông, Alexander III, người sớm thu hồi những cải cách tự do của cha ông.

Chiến dịch khuất phục tất cả các dân tộc không phải Nga, đặc biệt lưu ý người Do Thái, đã diễn ra sau đó. Những cuộc bạo động chống-Do Thái nổ ra ở vài tỉnh thuộc nam Nga, nơi người Do Thái bị đồng hóa vào nền văn hóa Nga. Bạo lực chủ yếu là cướp bóc, nhưng cũng xảy ra một vài vụ giết chóc và hãm hiếp. Năm sau đó cũng diễn ra sự bạo động như thế. Sự dửng dưng, kể cả sự thông cảm với đám đông bạo động, của nhà cầm quyền Nga hoàng cũng như các trí thức Nga đã làm cho nhiều người Do Thái cấp tiến, những người từng tin rằng sự áp bức của thời Trung cổ đã chấm dứt, sững sờ. Người Do Thái gọi kiểu bạo động tập thể này là sự tàn sát (pogrom). Một loạt chiếu chỉ chống-Do Thái có tên gọi là "Luật tháng Năm" được thông qua năm 1882, phong tỏa các vùng nông thôn của Do Thái, cắt giảm các trường học của họ, và sa thải nhân công Do Thái.

Người Do Thái ở Nga đang ở bước ngoặt. Có những người đánh mất niềm tin của mình, nhưng cũng có nhiều người củng cố thêm niềm tin và dốc tâm với chủ nghĩa Phục quốc Do thái.

Năm sau, Leo Pinsker, thầy thuốc nổi tiếng ở Odessa từng chiến đấu với quân Nga trong trận Crimean cũng không tin vào sự khoan dung của Nga. Trong cuốn sách mỏng của ông, Tự Giải phóng, ông đã lập luận rằng chủ nghĩa bài-Semite là căn bệnh nan y, Do Thái giáo và chủ nghĩa bài-Semite luôn đứng bên nhau.

Giữa những dân tộc đang tồn tại trên trái đất này, dân Do Thái chiếm vị trí của một dân tộc đã chết từ lâu. [...] Sự xuất hiện như ma của dân tộc không có bất kỳ sự hợp nhất hay tổ chức, không có đất hay mối ràng buộc nào khác về sự liên kết, không còn sống, nhưng vật vờ giữa cuộc sống-hình thức kỳ lạ ấy hẳn là không đồng hành với lịch sử, chẳng giống thứ gì trước và sau nó, không thể lơ là để tạo nên một ấn tượng lạ lên sự mường tượng của các dân tộc.

Để tránh sự ngược đãi, người Do Thái phải đi tìm một quốc gia, bất cứ ở đâu trên thế giới, nơi họ có thể có sự an toàn. Tác phẩm của Pinsker gây được cảm xúc một thời. Nó kích thích các giới nghiên cứu tạp nham về chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chẳng hạn như Những người yêu Zion (Hovevei Zion). Được mô phỏng theo các phong trào dân tộc châu Âu khác, các nhóm bán-công khai này xuất hiện hồi cuối thập niên 1870 và đưa ra những khóa học tiếng Hebrew và lịch sử Do Thái. Những nhóm khác tổ chức thành những nhóm tự vệ.

Năm 1884, Pinsker triệu tập hội nghị sáng lập hội Những người Yêu Zion, thành lập các văn phòng trung tâm ở Odessa và tìm cách khuyến khích việc định cư thực thụ ở Palestine. Trong số những đại biểu của hội nghị có Natan Birnbaum, người mà vào năm 1890 là người đầu tiên nghĩ ra từ "chủ nghĩa phục quốc Do Thái", thuật ngữ dựa trên tên của bài thơ về Jerusalem, để mô tả phong trào chính trị nhằm thiết lập nước Do Thái.

Theodor Herzl, sinh viên luật 22 tuổi ở Vienne lúc xảy ra những biến động của Do Thái ở Nga, may mắn không biết gì về Pinsker hay các tác phẩm của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái khác. Một nhà soạn kịch thất chí nhưng bảnh bao, anh cầm cây gậy có cán bằng gỗ mun. Khi còn là một cậu bé, ông đã mơ màng đến việc kiến thiết Kênh Panama. Giờ ông cảm thấy đau nhói trước chủ nghĩa bài-Semite đang đâm chồi ở phương Tây. Năm 1883 ông rút lui khỏi Albia, hiệp hội sinh viên Đức, khi các thành viên của nó quảng bá ầm ĩ chủ nghĩa bài-Semite của Wagner trong cuộc mít tinh kỷ niệm ngày chết của soạn giả ở Venice.

Phải mất thêm vài năm để giúp Herzl thoát khỏi sự tự mãn của ông và thuyết phục ông là chủ nghĩa bài-Semite không thể bị tiệt trừ ở châu Âu, ngay cả ở cộng hòa Pháp. Trong năm xảy ra vụ bê bối Dreytus hồi năm 1895, Herzl xuất bản cuốn Nhà nước Do Thái, kêu gọi người Do Thái đi cư hàng loạt có tổ chức khỏi châu Âu tới quốc gia mới.

Lần đầu tiên Herzl đã đọc cuốn Tự Giải phóng của Leo Pinsker trước khi sắp phân phát cuốn Nhà nước Do Thái do "sự đồng thuận đến ngỡ ngàng" với tác phẩm của ông, ông nhận thấy, "quả là tốt khi tôi không biết gì về điều đó-hay có lẽ tôi quên khuấy công việc mà tôi đã thực hiện".

Chaim Weizmann, Tổng thống đầu tiên của Israel, người đã từng là sinh viên Nga học ở Berlin, nhớ lại rằng từng từ của "nhà nước Do Thái" xuất hiện như tiếng sét ngang tai. Weizmann viết rằng "Về cơ bản, Nhà nước Do Thái không chứa đựng một ý tưởng mới nào cho chúng ta", nhưng người Do Thái ở Nga bị quyến rũ bởi tính cách của Herzl. "Điều được cho là vĩ đại với tên tuổi của ông là vai trò của Herzl là một người hành động, là nhà sáng lập Đại hội Phục quốc Do Thái, và là tấm gương của sự táo bạo và nhiệt thành" Weizmann nhận thấy thế.

Những vụ tàn sát Do Thái dưới thời Nga hoàng trong các năm 1881-82 tạo động lực cho phong trào tìm đường chạy trốn nghèo đói và sự phân biệt đối xử. Giữa thời gian từ 1881 đến khi nổ ra Thế chiến I năm 1914, tổng cộng có đến 2,75 triệu người Do Thái đã di cư, phần lớn từ Nga, nhưng cũng cả từ những vùng phía đông Áo-Hung và Rumania. Phần lớn tới Mỹ nơi có đến 11 phần trăm số người di cư. Năm 1894, cố vấn chính của Nga hoàng, Konstantin Pobedonostsev, đã trình bày cách giải quyết vấn đề Do thái: "Một phần ba sẽ chết đi. Một phần ba sẽ rời đất nước và một phần ba bị đồng hóa hoàn toàn vào dân cư chung quanh".

Cuộc xuất hành mới đã bắt đầu từ vùng đất thống khổ ở Nga, nhưng đối với phần lớn người Do Thái, vùng Đất Hứa là nước Mỹ, không phải Đất Israel. Chỉ một tỉ lệ nhỏ-khoảng 2-3 phần trăm di dân-tới vùng đất của cha ông, điểm đến được ưa thích thứ tư sau Mỹ, Canada và Argentina. Nhưng các lý tưởng của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái rõ ràng không có ảnh hưởng thực tiễn lắm lên những người Do Thái ở đông Ầu.

Trong số 55.000 đến 70.000 người Do Thái định cư ở Palestine trong hai đợt, theo lịch sử Israel là Aliyah thứ Nhất và Aliyah thứ Hai. Nó là dòng người Do Thái lớn nhất tới vùng Đất Thánh từ vụ trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Nhiều di dân ban đầu tới những thành phố thánh truyền thống để sống cuộc sống tận hiến tôn giáo. Nhiều người tái di cư, do chán nản vì những gian khổ tự nhiên và kinh tế của cuộc sống ở Palestine. Nhóm ở lại là hạt nhân trung kiên đi tiên phong trong việc tạo lập các khu kiều dân nông nghiệp mới của Do Thái: những người khai sinh Israel trở thành chất liệu của huyền thoại phong trào Phục quốc Do Thái.

Họ là những người phi thường của thời quá vãng của Israel, cho dù họ thực sự vô danh. Như những thiên anh hùng của Homer, các hành động của họ đã được tiểu thuyết hóa để tạo nên thời quá vãng của sự ngây thơ anh hùng, hòa lẫn cuộc phiêu lưu nguy hiểm của những người tiên phong ở Tân Thế giới với sự mong mỏi xa xưa là khôi phục Israel gần 2.000 năm sau vụ phá đền thờ của đạo quân của Titus.

Đối với Zalman David Levontin, một viên chức ngân hàng ở Kremenchug, ở nơi mà nay là Ukraine, sự lăng mạ cá nhân ở khách sạn tại Kharkov hồi tháng Tư 1881 đã làm thay đổi quá trình diễn biến cuộc sống của ông ta. Một tay phục vụ khách sạn xẵng giọng với ông ta là ông không thể ở đây thêm nữa. "Xin lỗi ông, tôi không thể cho phép ông ở lại đây, lệnh của cảnh sát trưởng về người Do Thái rất nghiêm khắc", Levontin nhớ như in trong đầu như vậy.

Levontin 25 tuổi đầu đáp tàu về nhà, không thể quên được sự việc đã diễn ra. "Những vấn nạn bắt đầu trỗi lên trong lòng tôi và đòi hỏi phải có giải pháp", ông đã viết trong nhật ký như thế. "Điều gì khiến Kharkov lại thiêng như vậy và đâu là tội của tôi khiến tôi bị buộc phải rời thành phố lúc ban đêm trước khi tôi hoàn thành công việc ở đó? Tại sao gã đàn ông to béo, bụng phệ ngồi đốì diện với tôi trong toa tàu lại có thể lưu lại Kharkov bao lâu lâu cũng được, tôi có gì kém cỏi hơn gã nào-có khi còn kém cỏi hơn cả người hầu say rượu ở khách sạn?"

Khi ông bước vào sân ga hít thở không khí trong lành, ông nghe thấy những hành khách cùng đi bàn tán về cuộc tàn sát ở Yelizavetgrad (sau này là Kirovograd), làn sóng bạo động chống-Do Thái khởi phát năm đó. Ồng ta cảm thấy rằng "muối đã xát vào các vết thương của con tim tôi". Trở lại tàu, những người Nga bàn tán về cuộc tàn sát một cách đồng tình.

Về tới nhà, tin tức về cuộc bạo động xảy ra cho cộng đồng Do Thái đã lan tới các tỉnh khác. Nhiều người Do Thái quyết định phải ra đi, nhưng, Levontin bảo, họ bị chia rẽ về việc là liệu có nên tới "vùng tự do" ở Mỹ, hay tới Palestine và "dựng lều giữa con cái của Shem, ở đất nước ấy, nơi chúng ta đã được sinh ra và trở thành người dân".

Ngay khi còn là cậu bé, Levontin, con của dòng tộc Hasid, người dù sao đã được kèm cặp riêng các môn học thế tục và ngôn ngữ, đã tự hỏi tại sao nhưng nô lệ Mỹ được trả tự do đã có thể thiết lập Liberia ở quê nhà châu Phi của họ mà người Do Thái không thể tái tạo vương quốc xa xưa. Có lần ông đã viết trong tờ báo viết bằng tiếng Hebrew là 50 gia đình sẽ sáng lập khu định cư ở Palestine "để đặt viên đá móng cho sự định cư trên Đất Israel". Giờ ông quyết tâm hành động.

Levontin thiết lập sự liên đới giữa 15 gia đình đồng ý tới vùng Đất Thánh. Levontin được đề cử đi Palestine để thăm dò một khu đất thích hợp, và những người khác sẽ đi theo. Ông đã tạo một nhóm tương tự ở Kharkov, nơi những người Do Thái sẽ tuyên bố ăn chay-một lời xin truyền thống để được đoái thương vào những lúc khó khăn-để cầu xin sự giúp đỡ từ "Tảng Đá của Israel và Dâng Cứu tinh".

Mang theo những bức thư giới thiệu và lòng tràn trề hy vọng, ông lên đường đi tới vùng Đất Thánh bằng tiền túi của ông. Mùa xuân năm 1882, tàu của ông buông neo ngoài khơi Jaffa. Ông sững sờ khi khám phá ra rằng ông không thể tìm thấy, như ông đã mong đợi, bất kỳ người Do Thái nào có cùng chí hướng.

Người ta nói rằng Levontin thường đi tìm những thành viên mới bằng cách đứng ở những bến cảng tại Jaffa và gào to Shalom Aleichem với những hành khách đang đi tới. Nếu có tiếng đáp trả Aleichem Shalom, như thế là họ nhận ra nhau là người Do Thái, ông sẽ cố thuyết phục họ tham gia vào dự án của ông. Khi đi thăm Jerusalem, ông khổ tâm khi thường xuyên thấy sự xung đột tôn giáo để rồi lại phải quay về Jaffa, "xa những bãi chiến trường của những kẻ cuồng tín". Sự đối lập nhau của những người theo phong trào Phục quốc và tổ chức tôn giáo đã rõ.

Levontin, giờ có được Yosef Feinberg, con của một gia đình giàu có, kết giao. Anh này đã từng học ngành hóa ở các đại học Thụy Sĩ và Đức. Trước hết, họ mua đất ở vùng Gaza, vì cho rằng nó rẻ hơn và dễ thành lập những khu định cư lớn. Họ đã gặp Christoph Hoffmann, lãnh đạo của các đền thờ, và được biết về vô số khó khăn mà giáo phái Kito của Đức đã phải chịu khi gây dựng bốn cộng đồng riêng biệt ở Palestine.

Vào mùa hè, sau một số giao dịch thất bại, Levontin và nhóm nhỏ những người ủng hộ tìm thấy một vùng đất rộng ở phía nam ngôi làng của Beit Dajan, trong vùng có tên là Ein Kara. Levontin đã do dự mua nó, sợ rằng nó thiếu nước mặc dù theo kinh thánh: ở En-hakkore, "Con Suối của Chúa" đã làm nguôi cơn khát của Samson sau khi ông này tiêu diệt một ngàn quân Philistine bằng xương hàm của con lừa. Tuy nhiên, Levontin đã chịu tương nhượng trước sự hăng hái của các bạn đồng chí hướng.

Với nhóm của ông, Levontin lấy một nửa của gần 3.000- dunam (tương đương 670 mẫu Anh), còn nửa kia cậu ông là Tzvi mua, người đã phân phần của mình cho sáu gia đình nghèo. Các cư dân đã tạo các mục tiêu của họ gồm các khoản tương trợ. Chúng bao gồm lời cam kết "phục vụ là tấm gương cho những anh em Do Thái sẽ tới định cư ở vùng Đất Thánh", "tái thiết những để nát của quốc gia", đi theo con đường của sách Torah,tuân thủ các đòi hỏi tôn giáo liên quan đến cuộc sống ở Đất Israel. Các thành viên thề "cố gắng hết sức không ăn mặc lụa là và thói trang sức lòe loẹt, kể cả vào ngày Sabbath và những ngày lễ nghỉ, và tránh xa hoa làm hao tốn tiền bạc của Israel".

Cuối tháng Bảy 1882, khoảng sáu nhóm bắt đầu lên đường bằng hai con ngựa và một cái xe ngựa chất đầy lều và những thiết bị thiết yếu. "Trong nỗi kính sợ và niềm hân hoan chúng tôi rời tỉnh Jaffa và tiến về phần đất của chúng tôi", Levontin, người tới đầu, đã nhớ lại như vậy. Buổi chiều, khi ông đợi trên đỉnh mô đất nơi có đại giáo đường của Rishon Le-Zion, ông trải áo ra nằm và ngắm các vì sao. Ông vừa cảm thấy phấn chấn vừa cảm thấy nghi nan.

Tôi nhớ lại Samson anh hùng đã đánh nhau với quân Philistine ở đây và đã đánh thắng chúng bằng cái xương hàm, tôi tưởng nhớ máu của cha ông đã đổ ra ở đây, và có lẽ tôi đã trải áo của mình trên các phần mộ của họ. Tôi cảm thấy quá yêu nơi này, tình yêu của đứa con tha hương đã lâu nhưng cuối cùng đã trở về nhà, chỉ để tìm người cha đã khuất. Nước mắt tôi trào ra, tâm hồn và con tim của tôi rộn ràng. Đây là nhà và là nơi an nghỉ của tôi, cái nôi của tôi, cái nôi của thuở ấu thơ-Các anh em của tôi đã ở đâu? Có buổi sớm nào họ tới đây từ các đầu cùng của trái đất? [...] Tôi có sức nào để dốc tâm cho ý tưởng này khi túi tôi rỗng? Liệu bàn tay, cho đến giờ chỉ biết cầm bút và tính toàn những lợi, thua, giờ có thể cày bừa và rút tỉa sự sống từ đất, cho bản thân, cho vợ con của tôi? Liệu tôi có phải hy sinh những gì là quý báu nhất cho lý tưởng này? Liệu tôi có quyền hành động như thế-và nếu tôi đã hành động, liệu nó có làm lợi cho mọi người?

Người hầu của Levontin cắt ngang dòng tư tưởng của ông. Anh ta chỉ một số lều của người Ả Rập du cư ở xa xa và bảo: "Khi ông xây cất những căn nhà của ông và ở lại đây [...] hàng tá người cưỡi ngựa sẽ tới vào lúc đêm khuya [...] để cướp phá và giết chóc".Levontin trả lời rằng người Do Thái không đứng chịu trận như thế đâu:

Chúnq ta đã tới đây và được hưởng các quyền của đất nước này, đất nước không phân biệt đối xử giữa các cư dân của nó, và nếu bất kỳ kẻ nào ác độc giơ nắm đấm về phía chúng ta, chúng ta cũng cho hắn biết rằng chúng ta cũng có nắm đấm, có cả súng, dao găm và giáo.

Hình ảnh cổ điển của đất nước của Amos Elon Người Israel- Những Người sáng lập và Con cái, được xuất bản năm 1971, mô tả những cư dân đầu tiên và những người lãng mạn ngây thơ, "những đứa bé ngây thơ trong gia đình" chỉ biết lơ mơ về sự hiện diện của người Ả Rập mà không hay biết sự thù địch khả thể của họ. Theo câu châm ngôn thường gặp thì Palestine là "đất không người cho con người không có đất". Tuy nhiên, từ sự tính toán riêng của Levontin, rõ ràng là vào ngày đầu của khu kiều dân Do Thái đầu tiên, người Do Thái đã cảm nhận rằng họ sẽ phải đánh nhau để ở lại trên vùng đất này.

Levontin giữ kín sứ mệnh mua đất của mình không để người Ả Rập biết. Và khi nhà cầm quyền Thổ Nhĩ Kỳ cấm người Do Thái tới định cư, việc giải quyết cho Ain Kara được thực hiện nhân danh phó công sứ Anh ở Jaffa, Haim Amzalak, một người Do Thái Sephardi từ Gibraltar.

Đế chế Ottoman rất nhạy với mưu đồ nước ngoài ở Palestine. Từ những báo cáo của nhân viên ngoại giao, Sublime Porte (nhà cầm quyền Ottoman) không hề làm lơ phong trào dân tộc Do Thái sôi nổi. Trong các danh mục của bộ ngoại giao Ottoman, các nhà nghiên cứu thấy một hồ sơ có tựa là: "Tình hình của người Do Thái; vấn đề di dân của họ vào Thổ Nhĩ Kỳ: 1881". Cả trước khi bắt đầu Aliyah thứ Nhất, nhà cầm quyền Ottoman đã quyết định rằng người Do Thái có thể định cư thành những nhóm rải rác khắp đế chế, nhưng không ở Palestine. Nó cố gắng, chẳng tới đâu, hạn chế việc vào và cấm việc buôn bán đất của các cư dân Do Thái. Sau khi lâm chiến bốn lần với Nga chỉ riêng trong thế kỷ XIX, Sublime Porte đương nhiên cảnh giác dòng di dân lớn của người Nga, Do Thái hay những dân khác.

Đó là kỷ nguyên của những Thỏa hiệp, khi các cường quốc châu Âu xâm phạm chủ quyền của Ottoman bằng cách tự cho mình có sứ mạng bảo vệ những người nước ngoài và những dân thiểu số như những người Công giáo Roma, những người Do Thái Chính thống và Druze thông qua các lãnh sự của họ. Palestine đang được vô số ngoại nhân kiến thiết, ổn định, định giá, và khai quật. Điều cuối cùng mà vua Thổ cần là cấy một thiểu số người theo chủ nghĩa dân tộc khác trong lòng đế chế sau khi mất các tỉnh châu Âu trong một loạt cuộc nổi dậy của dân tộc và chiến tranh, cũng như việc người Anh tiếp quản Ai Cập.

Nhà cầm quyền Ottoman đã được tiếp cận trực tiếp vào những thời khác nhau trước đây với các mưu đồ định cư người Do Thái trong lãnh địa của nó, như kế hoạch được nhà văn và là du khách người Anh, Laurence Oliphant, đưa ra năm 1879, để lập vùng đất Do Thái ở bờ đông của Sông Jordan. Năm 1882, Oliphant lại cố gắng thuyết phục được nhà cầm quyền ở Constantinople về kế hoạch của ông, tạo hy vọng trong nhóm những người yêu Zion. Họ được gọi là Bilu, mà theo tiếng Hebrew, đó là từ cấu tạo bằng những chữ đầu của lời cổ vũ trong sách Isaiah, "Hỡi nhà Jacob, hãy đến, và chúng ta hãy bước đi (trong ánh sáng của Chúa)" (Isa. 2: 5). Các thành viên cúa Bilu lên đường tới Palestine vào mùa hè năm 1882, ngay sau khi Levontin tới đó.

Nhóm gồm 14 người giong thuyền từ Constantinople tới Jaffa, nhà cầm quyền Ottoman lệnh cho thủ hiến của nó ở Jerusalem ngăn cấm những người Do Thái Nga, Romanian và Bulgarian không được cập bến Jaffa hay Haifa, kiểu hạn chế mà các cư dân thường có thể tìm lối thoát bằng cách rải tiền cho các viên chức địa phương. Một số thành viên của Bilu được đào tạo ở trường nông nghiệp Mikveli của Do Thái, sau này họ nhập với Levontin ở Rishon Le-Zion là những công nhân làm thuê. Với thời gian, các thành viên của Bilu tìm được chốn định cư riêng.

Zeev Dubnow, một thành viên của Bilu sống ở Jerusalem, năm 1882 viết cho anh mình: "Mục đích tối hậu là thiết lập vùng đất này là của Israel và khôi phục nền độc lập chính trị cho người Do Thái, sự độc lập đã bị tước đoạt hai ngàn năm trước. [...] Người Do Thái, với vũ khí trong tay nếu cần, sẽ hô to lên rằng họ là những chủ nhân của vùng đất xa xưa".

Những người Ả Rập được thuê để cất những căn nhà đầu tiên của Rishon Le-Zion, và những người Do Thái mới tới giật mình khi thấy láng giềng Ả Rập dùng lạc đà kéo xe để chuyển nước từ làng Beit Dajan. Họ tìm cách thử kết thân với người Ả Rập và dùng họ để đương đầu với "những kẻ xâm phạm", nhờ thế không còn xảy ra những sự cố đáng tiếc, và người Do Thái được sống yên ổn và hữu nghị với các láng giềng A Rập. Tuy thế, Haim Hisin nhớ lại: "chuyện đó cũng chỉ được vài tháng rồi chúng tôi cũng phải dùng đến nắm tay thay bút nghiên".

Trong vòng năm năm tạo lập Rishon Le-Zion, chín khu kiều dân đã được thành lập, mặc cho chuyện người Ả Rập phát sinh khắp nơi. Các cư dân Do Thái để lại biết bao câu chuyện về những hy vọng và gian khổ của họ. Nhưng rồi họ cũng vượt qua và tạo được ảnh hưởng, tranh đua với sự xuất hiện của ý thức dân tộc, ít nhất trong số những trí thức Ả Rập.

Dù năm 1882 người Ả Rập ở Palestine chưa phát triển cảm nhận về chủ nghĩa dân tộc theo nghĩa hiện đại của từ này, họ cũng đã ý thức về đặc tính của vùng Đất Thánh. Chủ nghĩa yêu nước cục bộ đang nảy sinh. Những quyển kinh, được gọi là Fada'il al-Quds (Những phẩm chất của Jerusalem), tán tụng các ưu điểm của Thành Thánh và những tỉnh lân cận. Sự trục xuất quân Thập tự chinh khỏi Jerusalem của Saladin vẫn còn niềm kiêu hãnh và ký ức sống động, trong khi mối thù ấy tạo nên sự e dè của người châu Âu, những người thường được cho là vừa nghi ngại vừa kính sợ.

Có thể lạc hậu, bị áp bức, sốt rét, Palestine thuộc thế kỷ XIX chắc chắn không trống rỗng. Sau khi bình định vùng nông thôn trong các thập niên giữa thế kỷ, các nông dân Ả Rập đã bắt đầu đi xuống từ các làng mạc miền núi tới đồng bằng duyên hải khá an toàn. Cùng thời gian, Levontin đã định cư ở Jaffa, dân Palestine đang bành trương nhanh, từ khoảng 350.000 năm 1865 lên đến khoảng 470.000 năm 1882. Cư dân Do Thái có khoảng 24.000.

Hoạt động kinh tế đang phát triển nhanh khi Levant hòa với nền kinh tế thế giới. Trong một thế kỷ thường được cho là sống dở chết dở, bị tàn phá và bị nguyền rủa, Palestine đã tìm cách xuất số nông sản dư-lúa mì, lúa mạch, vừng (mè), dầu ô liu, xà bông, rau trái và, đặc biệt và những thập niên gần đây của thế kỷ, cam Jaffa. Các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất là Pháp, Anh, Ý, và Ai Cập. Thêm nữa, việc buôn bán cho khách hành hương đã mang lại lợi tức và thiết lập ngành dịch vụ địa phương.

Ahad Ha'am, chiến sĩ của một dạng phong trào Phục quốc Do Thái, đã xuất bản một trình thuật sắc bén về tình trạng của các khu kiều dân Do Thái năm 1891. Trong Sự thật về Đất Israel, ông đã viết:

Chúng tôi ở hải ngoại thường tin rằng Eretz Israel hiện nay hầu như hoang vắng hoàn toàn, một sa mạc không được gieo trồng, chẳng ai muốn bám vào đất. Nhưng sự thật không phải thế. Khắp đất nước khó thấy những cánh đồng không gieo trồng... Nhưng nếu đến lúc cuộc sống của các anh em chúng tôi ở Đất Israel phát triển tới mức nào đó để phải xâm lấn một mức nào đó đời sống của người Ả Rập, họ sẽ không nhượng bộ dễ dàng.

Những cải cách của Tanzimat trong các năm 1839-76, tìm đường hiện đại hóa đế chế Ottoman, cũng dẫn tới những thay đổi về sự chiếm giữ đất đai cho phép những gia đình giàu có của các "bậc danh gia vọng tộc" Ả Rập thủ đắc những vùng đất rộng lớn ở đồng bằng duyên hải và các thung lũng.

Những người trong phong trào Phục quốc Do Thái đã gặp khó khăn lớn khi muốn tới cư ngụ ở khu trung tâm lắm núi trước đây thuộc Judea và Samaria, vùng Bờ Tây hiện nay, nơi các dân làng nông nghiệp vẫn quản lý đất đai của họ dưới hệ thống sở hữu tập thể được gọi là musha. Các nhà quản trị người Anh thấy rằng loại nông trại nhỏ là một trở ngại cho sự phát triển nông nghiệp hiện đại, nhưng về lâu dài nó bảo tồn vùng đồi là điểm cốt lõi nói lên sự có mặt của người Ả Rập.

Việc thiết lập các khu định cư Do Thái đã làm đảo lộn các mô hình sử dụng đất truyền thống Ả Rập. Thí dụ: việc được quyền chăn thả súc vật trên đất không được họ thừa nhận chính thức. Với thời gian, việc các địa chủ vắng mặt bán đất cho người Do Thái có nghĩa là những nông dân Ả Rập mướn đất phải dời đi. Tình cảnh khó khăn của họ đã khai sinh chủ nghĩa dân tộc của những người Ả Rập có học trong các thành phố. Ngay đầu năm 1870, những người Ả Rập ở làng Yazur đã phản đối việc bán đất cho Mikvek Israel.

Ý tưởng về đất trống sẵn sàng cho việc chiếm đất của người Do Thái không mấy giống vấn đề của tính vô hại của chủ nghĩa Sôvanh (chauvinism) châu Âu. "Tính vô hình" của Ả Rập đã tự tạo nên. Palestine vào lúc có khu định cư Do Thái đầu tiên không phải là không có người, nhưng là không có người được người châu Âu cho là đáng được quyền kiểm soát đất nước của họ.

Hậu bán thế kỷ XIX có thể đã là thời kỳ mùa xuân cho các quốc gia châu Âu, nhưng ở nơi khác vẫn là thời của đế quốc. Vào lúc thành lập Rishon-Le Zion, sự tranh giành châu Phi chỉ mới bắt đầu, đế chế Nga đang đạt đỉnh điểm của nó trong việc bành trướng vào châu Á, và đế chế Ottoman đang bị chia cắt. Biên giới trong nội địa châu Mỹ đang biến mất.

Chính trong hoàn cảnh này mà Herzl đạt được hiến chương cho sự thực dân hóa của Do Thái được một hay thế lực đế quốc khác của châu Âu bảo đảm. Ghi nhận kinh nghiệm của ông khi đi thăm các khu kiều dân của Do Thái ở Palestine đang nói về những nhận thức của giai đoạn này. Đoàn đại biểucủa ông được đoàn người cưỡi ngựa Do Thái đang hát các bài ca bằng tiếng Hebrew gặp gần Rishon Le-Zion. Họ tới từ khu định cư Rehovot gần đó. Những người tới thăm cảm kích, Herzl thuật lại: "Chúng tôi đã chảy nước mắt khi thấy đoàn người, những kỵ sĩ gan dạ, và bằng chứng cho thấy rằng những người trẻ bán rong quần áo của chúng tôi rồi ra sẽ biến đổi, Hedad! [Hurrah!] Họ hô lên, và lao qua các cánh đồng trên những con ngựa A Rập nhỏ. Tôi nhớ đến các tay cao bồi vùng Viễn Tây của các cánh đồng nước Mỹ mà đã có lần tôi thấy ở Paris."

Tuy nhiên, lý tưởng ban đầu của khu kiều dân về đời sống chung đã bị vứt bỏ vì những tiêu chí kinh tế ngặt nghèo của Nam tước Rothschild. Herzl viết: "Nỗi sợ Ngài Nam tước treo lơ lửng trên mọi người. Những kiều dân nghèo chịu hết nỗi sợ này đến nỗi sợ khác". Ông cũng được nghe sự đánh giá thẳng thắn của một thày thuốc của khu kiều dân:

Sốt! Tất cả các kiều dân đều bị sốt. Chỉ khi nào khai thông nước và lấp các đầm lấy mới có thể ở được. Đây cũng là quan điểm và sự quan tâm của tôi. Việc này hẳn tốn hàng tỉ, nhưng sẽ tạo ra hàng tỉ của cải mới! Có thể thuê những người Ả Rập làm vì họ không bị sốt.

Đó là suy nghĩ của riêng Herzl về người Ả Rập ở Palestine: họ sẽ trở nên, như dân Gibeonite của Thánh kinh, những người đốn củi và kéo nước. Năm sau, Herzl nhận được một trong những phản kháng của Ả Rập qua vị Giáo chủ trưởng của Paris, Zadok Kahn. Đó là thư của Yusuf Diya al-Khalidi, một thành viên tự do kỳ cựu của nghị viện Ottoman.

Ông ta nhất trí, theo lý thuyết, chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chỉ là ý tưởng. "Trời ạ, về mặt lịch sử, nó đúng là tổ quốc của các anh". Ông viết: "Nhưng thực tại thì Palestine là thành phần tích hợp của đế chế Ottoman và được hàng trăm triệu người không phải Do Thái tôn kính. Sự chống đối của họ là không thể tránh được. Người Do Thái dựa vào quyền gì đòi hỏi nó cho họ?" Ông ta bảo của cải không thể mua được Palestine, "Điều duy nhất có thể là dùng lực của đại bác và tàu chiến" và tiên đoán một phong trào quần chúng chống lại Do Thái mà chính quyền Ottoman sẽ không thể đàn áp được. Ông ta kết luận: "Nhân danh Chúa, hãy lặng lẽ rời Palestine".

Herzl đã viết lại, quả quyết là người Do Thái không muốn đuổi người Ả Rập. Trái lại, việc người Do Thái tới đó sẽ làm cho người Ả Rập giàu thêm. "Sự khang an và của cải riêng của họ sẽ tăng qua việc nhập khẩu của chúng tôi".

Herzl nên biết rõ hơn, và có lẽ phải thế. Trong cuốn Nhà nước Do Thái, ông đã lập luận chống lại sự định cư từng bước giả hiệu khởi bằng Aliyah thứ Nhất.

Sự thâm nhập phải được thực hiện triệt để. Nó tiếp tục cho tới lúc hoàn tất, khi mà dân địa phương tự cảm thấy bị đe dọa, và buộc nhà cầm quyền ngưng dòng người Do Thái vào thêm. Sự nhập cư sẽ là vô hiệu trừ khi chúng ta có quyền tối cao để tiếp tục sự nhập cư như vậy.

Nói tóm lại, trước tiên người Do Thái cần có chủ quyền để trấn áp sự kháng cự của Ả Rập. Họ không chỉ cần sức mạnh của ý chí mà cả sức mạnh nhà nước. Khi lần đầu tiên Herzl tiếp xúc với Abdel-Hamid II năm 1896, đề nghị trả nợ cho Ottoman qua trung gian để đổi lấy quyền định cư ở Palestine, Vua Thổ đã trả lời cách tiên tri:

Người Do Thái có thể tiết kiệm hàng triệu. Khi Đế chế của ta bị chia cắt, có lẽ họ sẽ có Palestine mà chẳng tốn đồng xu nào. Nhưng chỉ khi nào thi thể của chúng ta bị phân chia. Ta sẽ chẳng bao giờ thuận kiểu mổ xẻ sống như vậy.

Cùng lúc khi Levontin và những cư dân đi theo ông dựng lều ở Rishon Le-Zion, một trải nghiệm khác về sự khôi phục quốc gia là sẽ xảy ra ở Jerusalem. Ben-Zion Ben-Yehuda chào đời trong căn phòng tối sát khu Núi Đền cổ. Con đầu lòng của Eliezer Ben-Yehuda, người tiên phong trong việc khôi phục tiếng Hebrew, Ben-Zion là đứa con đầu của thời hiện đại lớn lên chỉ dùng tiếng Hebrew. Đứa con mà như cha của nó khẳng định không nghe "những âm nước ngoài".

Sự tái sinh của tiếng Hebrew là một ý niệm không tưởng giống như kế hoạch của các cư dân Rishon Le-Zion đòi phục hồi dân Do Thái vào Palestine Ottoman. Đối với Ben-Yehuda, sự liên kết việc thiết lập Rishon Le-Zion và sự ra đời của đứa con Hebrew đầu tiên là biểu tượng của sự phục hưng đầy ấn tượng, hầu như là huyền nhiệm. Sự phí thời gian của Ben-Yehuda về thách thức ngôn ngữ biểu lộ sự nhiệt tâm duy ý chí giống như bất kỳ người tiên phong nào muốn xóa sạch các đầm lầy.

Tinh thần dân tộc của Ben-Yehuda được kích thích bởi cuộc chiến Nga-Thổ năm 1877-78 đối với những yêu sách đòi độc lập của người Bulgaria khỏi sự thống trị của Ottoman. Ông bỏ việc giới thiệu tác phẩm của đời ông, một cuốn tự điển tiếng Hebrew bao gồm mọi từ được dùng nhưng thường bị bỏ quên: "Trong lúc đó, bỗng dưng-như thể trời mở ra và ánh sáng chiếu tỏa-tia sáng tinh trắng lóe lên trước mắt tôi, và giọng nói quyền năng trong thâm tâm dội vào tai tôi. Sự Tái sinh của Israel trên Đất của Cha ông". Ông rời Nga để học y khoa ở Paris, hy vọng kiếm sống ở Palestine là một bác sĩ. Trong bài báo xuất bản bằng tiếng Hebrew ở Vienna, Ha- Shahar, ông biện luận cho việc tạo lập một trung tâm tôn giáo Do Thái ở Đất Israel. Ông ký tên bài báo là "E. Ben-Yehuda" nghĩa là "Người Con của Judea."

Lúc đầu Ben-Yehuda gạt bỏ xác quyết cho rằng Do Thái không tính đến chuyện trở thành một quốc gia vì họ thiếu ngôn ngữ nói chung, dẫn chứng gương của Thụy sĩ nói nhiều thứ tiếng, nhưng sau này ông đã thay đổi quan điểm.

Tiếng Hebrew bắt đầu mai một trước cả kỷ nguyên Kito giáo, khi người Do Thái vùng Cận Đông thừa nhận tiếng Xyri. Tuy nhiên, cả sau khi người Roma phá đền thờ, tiếng Hebrew vẫn tồn tại trong văn chương tôn giáo, thi ca, và là ngôn ngữ của những cộng đồng bị phân tán, tương đương tiếng La tinh trong thế giới trung cổ và Ả Rập cổ điển giữa những phương ngữ của thế giới Ả Rập.

Đối với những cộng đồng Do Thái truyền thống thuộc đông Âu, tiếng Hebrew là ngôn ngữ thánh thiêng chứ không phải ngôn ngữ sử dụng hàng ngày. Ben-Yehuda nghĩ rằng việc chấp nhận tiếng Hebrew là ngôn ngữ nói chỉ là vấn đề thuộc "ý muốn của cộng đồng".

Herzl nghĩ quốc gia Do Thái nên là đất nước đa ngôn ngữ. Trong Vùng Đất Cũ mới, các nhà hát trình diễn những tác phẩm bằng tiếng Đức, Anh, Pháp, Ý, và Tây Ban Nha. Ông hỏi: "Ai trong chúng ta đủ biết tiếng Hebrew để hỏi mua vé xe lửa bằng ngôn ngữ ấy?"

Cuộc tranh cãi của họ bất phân thắng bại cho tới gần Thế chiến I. Trong cái được gọi đại khái là "Chiến tranh ngôn ngữ", những người ủng hộ tiếng Hebrew năm 1914 buộc Tổ chức Cứu tế người Do Thái ở Đức (Hilfsverein der Deutschen Juden), tổ chức bảo trợ hầu hết thầy giáo ở cộng đồng Do thái qua hệ thống 50 trường, rút lui khỏi kế hoạch lấy tiếng Đức làm ngôn ngữ giảng dạy ở Học viện Kỹ thuật Haifa (Technion). Học viện được cho là kỳ tích của nền văn hóa Đức ở phương Đông, đặc bịêt vì tiếng Hebrew có quá ít thuật ngữ kỹ thuật.

Ben-Yehuda giận đỏ mặt về kế hoạch ấy, cảnh báo Hilfsverein là "máu sẽ chảy trên các đường phố". Các thầy giáo ở các trường Hilfsverein đình công còn các sinh viên biểu tình bên ngoài tòa lãnh sự Đức ở Jerusalem. Tháng Hai 1914, Technion đã đấu dịu và đồng ý dạy các môn bằng tiếng Hebrew. Khi Anh chiếm Palestine và hứa thành lập quốc gia của dân Do Thái, nó công nhận tiếng Hebrew là một trong những ngôn ngữ chính thức, bên cạnh tiếng Anh vầ Ả Rập. Giấc mơ của Ben-Yehyda trở thành hiện thực. Những làn sóng di dân sau đó cố giữ "các ngôn ngữ của khu vực", nhưng rút cuộc đành chịu chịu thua tiếng Hebrew.

Tiếng Hebrew là chất hồ gắn kết các nhóm tộc người khác nhau của Israel. Việc dạy cho các di dân mới được nhà nước bao cấp. Những tờ báo chuyên ngành, các chương trình truyền thanh và truyền hình sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu. Cái giá là để mất sự đa dạng văn hóa: di sản của hai ngàn năm tồn tại khắp thế giới đã bị chủ tâm làm tan biến trong nồi đúc của nền văn hóa Hebrew-Israel.

Ben-Yehuda đã muốn khai thác ngôn ngữ Ả Rập, với các gốc chung của nó, để tạo sức sống mới cho tiếng Hebrew. Nhưng các nhà kiến tạo ngôn ngữ Hebrew sau này biết ít tiếng Ả Rập, và khi người Ả Rập ngày càng được coi như kẻ thù, họ thích vay mượn từ các ngôn ngữ châu Âu hơn nếu họ không thể tìm thấy từ thay thế từ gốc Hebrew.

Học viện Ngôn ngữ Hebrew, Ha-Akademia la-Lashon, do ủy ban Ngôn ngữ Hebrew xác nhận được Ben-Yehuda thành lập năm 1890, liên tục tạo ra những từ mới.

Một chiếc xe tăng gỉ sét của Syria nằm chôn một nửa ở lối vào khu kiều dân biên phòng Degania, những cái xích của nó rã ra dần thành đất

Trong cảnh đồng quê thanh bình rợp bóng cây bách và bạch đàn xào xạc, những đồn điền chuối sum suê và những cây hoa giấy mọc bừa bãi, với những con thuyền bình lặng nhẹ đung đưa trên Biển Galilee, thật khó tưởng tượng Degania là khu định cư biên phòng hoặc là trận địa của cuộc chiến Ả Rập- Israel đầu tiên.

Ở đây vào năm 1948 những người bảo vệ Degania, nhiều người chỉ lớn tuổi hơn những đứa trẻ, đã đẩy lùi một đơn vị Syria. Chiếc xe tăng dẫn đầu bị lựu đạn chống tăng làm khựng lại và bị bỏ lại là chiến lợi phẩm ở chỗ nó bị phá hủy.

Sự giao chiến ở Degania là thời điểm xác định trong lịch sử Israel. Nó là phiên bản của Trận chiến với Anh, khi sự gan dạ của một ít người chặn đứng được sự xâm lược của một lực lượng mạnh hơn. Sự tồn tại của Degania giúp cứu nhà nước non trẻ của Do Thái khỏi bị bóp nghẹt lúc khai sinh và để xác định các ranh giới. Những người trung kiên tin vào sức mạnh của cuộc sống tập thể dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để sửa đổi những người Do Thái nào bị coi là đã rơi vào tình trạng thảm hại, hỗn loạn, và chao đảo trong bao thế kỷ tha hương. Sự lao động cật lực trên đất, không phải luật lệ và truyền thống, được coi là phương tiện cứu rỗi cá nhân và giải phóng dân tộc.

"Niềm tin vào lao động" sản sinh người tiên phong Do Thái: con người mới kiên định, tự hào, hết lòng với tổ quốc, và không sợ chiến binh, con người nói tiếng Hebrew của cha ông thời kinh thánh. Với sự hỗn hợp của sự khai sáng xã hội và lòng dũng cảm quân đội, khu định cư của Israel là Athens và Sparta quyện lại làm một.

Khu định cư biên phòng như Degania đã nhiều thập niên là hiện thân của toàn bộ điều được coi là cao thượng ở Israel: các thành viên của những khu định cư này tạo nên mẫu sống quân bình, họ cứu vãn đất bằng mồ hôi và sự khéo léo, và bảo vệ tài sản của họ bằng quyết tâm. Họ là minh chứng sống động là chủ nghĩa xã hội có thể được tạo nên một cách tự nguyện, không bị nhà nước ép buộc, không có sự chống đối và không phải hy sinh những tiêu chuẩn dân chủ.

Với vai trò mới của người Do Thái sinh ở Isreal, hình ảnh của người Do Thái như viên công chức khiêm nhu hay nhà buôn nhỏ mãi mãi không còn nữa. Họ là những người được ví như cây lê có gai nhưng quả của nó thì mềm và ngọt.

Người Do Thái mới trở về với bản chất của họ trên đất của cha ông, nhưng không chỉ có thế mà để cải tạo nó, khai thông đầm lầy, dọn dẹp sỏi đá, trồng lại rừng, và dẫn thủy nhập điền theo ý mình và làm cho sa mạc nở hoa. Họ cũng vứt bỏ hình ảnh khu tập trung Do Thái ra khỏi đầu óc, từ bỏ những truyền thống cổ lỗ của thời kinh thánh và tìm lại hình ảnh những anh hùng của Kinh thánh Do Thái. Kinh thánh là sách sử và là nguồn cảm hứng của dân tộc.

Những cư dân của khu kiều dân biên phòng viết lại Haggadah Vượt qua, soạn lại câu chuyên Xuất hành truyền thống bằng cách sử dụng những sự kiện đương đại của Israel và những sách văn học Hebrew hiện đại. Những chuyện kể về các hiền nhân danh tiếng, như Giáo sĩ Akiva người được chôn cất trong thành Tiberias gần Degania, thỉnh thoảng được thay băng những trình thuật về đời sống của khu kiều dân biên phòng. Những lễ hội tôn giáo khác của Do Thái được diễn giải lại để nhấn mạnh nguồn gốc của chúng trong các chu kỳ nông nghiệp xa xưa của Do Thái.

Như lồng nuôi của quân đội Israel, phong trào khu kiều dân biên phòng bám chặt học thuyết cho rằng các khu định cư là một phần của chiến lược phòng thủ chủ yếu và cộng sinh- những khu định cư mang lại sự an ninh và xác quyết về đất đai, trong khi quân đội giúp kiến thiết các khu định cư. Tình đồng chí và sự cố kết được phát sinh do cuộc sống của khu kiều dân biên phòng là thành phần sống còn của tinh thần chiến đấu cao. Suốt các cuộc chiến tranh của Israel, các thành viên của khu kiều dân biên phòng chiếm tỉ lệ lực lượng sĩ quan cao hơn và bị thương vong nhiều hơn.

Phong trào Lao động Phục quốc nói chung, và tổ chức khu kiều dân biên phòng nói riêng, tạo nên những anh hùng hiện thời của Israel. Moshe Dayan, có lẽ là tướng lĩnh được nhiều người biết đến nhất, là một trong những đứa con được sinh ra đầu tiên ở Degania. Dù sau này gia đình ông ta chuyển đến hợp tác xã ít khắt khe hơn được gọi là moshav, ở Nahalal. Motti Hod, chỉ huy không quân trong Cuộc chiến Sáu ngày-các phi công của ông đã tiêu diệt không lực Ai Cập trên mặt đất và giành chiến thắng vào sáng đầu tiên của cuộc chiến-là một người con nổi tiếng khác nữa của Degania. Đối với Dayan, Degania là hiện thân hiện đại tinh thần của các tổ phụ thời thánh kinh, những ngư?