- 5 - (tt)
Người Nga đã làm hay hơn" Tzvika Dror đã nói thế. "Khi Hồng quân tiến vào, các nhân chứng đã vạch mặt chỉ tên người Đức ngay tại chỗ. Họ nói "Người này giết cha tôi. Ông kia giết mẹ tôi" và cứ thế. Sau khi đã được trao cho một bảng tổng kết của tòa án quân sự, những người Đức ấy bị đem đi xử bắn. Dror đã lia một tràng súng máy đầy giễu cợt "Rắc-Tằng- Tằng- Tằng! Rắc-Tằng- Tằng- Tằng! Đó là luật của chiến tranh".
Tuy nhiên, vào thời Israel được hình thành, những tội phạm chiến tranh phải được xử lý phù hợp với quá trình tố tụng của luật pháp. Những người Do Thái cộng tác với bọn Đức Quốc xã đều bị hành quyết ở Israel, nhưng ít người Israel để ý đến những phiên tòa này.
Là người Do Thái được sinh ra ở khu kiều dân, Dror đã không có kinh nghiệm trực tiếp về nạn tàn sát. Mối quan tâm của ông là lịch sử địa phương của đất Palestine và lịch sử quân sự vùng Palmach. Ông ta đã kết hôn với một phụ nữ sống sót và định cư tại Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot. Vào cuối thập niên 1970, ông đã dồng ý viết một quyển sách về những kinh nghiệm của các thành viên khu kiều dân. "Mỗi khi tôi mở lời phỏng vấn mọi người là người ta bắt đầu xin cáo lỗi. Một trong số họ đã nói “tôi đã sống tại Ghetto Warsaw nhưng tôi không phải là người chiến đấu”.
"Tôi đã nói chuyện với một phụ nữ đã sống ở Auschwitz. Chúng tôi gặp nhau đến 20 lần nhưng câu chuyện của chúng tôi không bao giờ đi đến đâu. Chị ấy như một khối đá. Phải mất một năm rưỡi. Rồi một ngày kia chị ta đã kể: “tôi đã trao em trai tôi cho mật vụ Đức (Gestapo) Chị ta đã bầy chuyện và sai em đến nhà cầm quyền để xin phép. Họ đã bắt người em vì anh ta là người Do Thái, chị cảm thấy là chị đã giết chết em trai mình”.
Chúng tôi đã ngồi trong phòng làm việc của Dror, nó là một căn nhà nhỏ dành cho ông ta sử dụng để viết sách và làm công tác thông tin báo chí của cộng đồng. Dror mặc một bộ đồ jean rộng thùng thình, khoác một cái áo gió và mang đôi kính gọng đen. Các bức tường phủ đầy những báo chí, những ghi chú và các nhân vật tiêu biểu của những năm gần đầu thời lập quốc Ben-Gurion, Yitzhak Rabin, Yitzhak Sadeh, nhà lãnh đạo đầu tiên của Palmach và cả những bức ảnh của các cháu của ông. Ở trên máy vi tính cũ kỹ của ông, có nhiều đồng hồ bị hư, ông sắp chúng thành hàng. Ông ta nói: "Tôi sẽ không vất bỏ chúng đi. Chúng nhắc nhở cho tôi rằng thời gian trôi qua nhanh". Tuy nhiên, chúng tôi đã ngồi ở đó hàng giờ, cửa đóng kín. Ông ta kể những câu chuyện. Câu chuyện này dẫn dắt câu chuyện kia. Chúng vượt ra khỏi vấn đề chính yếu. Chúng tôi như đang bước đi ngẫu nhiên qua những bãi tha ma quá khứ của Israel, dừng lại đâu đó để nhìn vào những hàng chữ viết trên bia mộ. Chúng tôi vừa nói chuyện về các trại tập trung, những khu kiều dân biên phòng, về người Ả Rập, về Palmach, những người sống sót, việc thành lập Tel Aviv, về đất nước Lebanon, vừa dùng một loại vang đỏ hảo hạng, nước bưởi, cá mòi và bánh quy.
Dror nói "Tôi sinh ra ở Israel. Nỗi sợ đầu tiên của tôi là những người Ả Rập. Vào năm 1929, lúc tôi được hai tuổi rưỡi. Tôi nhớ là mẹ tôi đã ôm chặt tôi vào ngực và chạy đến một tòa nhà khi nghe tin là người Ả Rập ở Jenin sắp tấn công chúng tôi.
Tôi còn nhớ tình trạng bất ổn đó xẩy ra vào năm 1936. Tôi khiếp sợ. Sự tổn thương của tôi nếu có thì đó là người Ả Rập chứ không phải là người Ba Lan hay người Đức".
"Tôi đã chứng kiến Cuộc chiến giành Độc lập và vấn đề của những người tị nạn Ả Rập khởi đầu như thế nào. Vào ngày lễ Vượt qua, tôi nhìn thấy những người Ả Rập đi qua những khu kiều dân khi họ trốn chạy khỏi Haifa vào năm 1948. Tôi cũng đã nhìn thấy một người mẹ với đứa bé chết trên đường. Có hàng ngàn người tị nạn".
Rồi chúng tôi bàn trở lại chuyện tàn sát người Do Thái và những cảm xúc của ông ta về cuộc thăm viếng Ba Lan với những người sống sót. "Chính Auschwitz không làm cho tôi xúc động" Dror giải thích "Đối với tôi, giây phút quan trọng nhất là khi tôi cùng đi với bạn bè để nhìn những căn nhà mà họ đã sống trước đây. Khi soạn cuốn sách này nói về Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot, tôi quyết định bắt đầu kể lại cách người ta thoát ra khỏi những trại tập trung hay chỗ ẩn trốn trong rừng để cố gắng trở về nhà. Khi trở về, lại thấy nhà của họ đã bị những gia đình người Ba Lan chiếm mất, nếu không thì cũng bị phá hủy. Những người tị nạn tìm những ngôi nhà khác; họ cần ngôi nhà khác. Bi kịch lại tái diễn ở đây: những ngôi nhà mới của họ (ở Israel) trở thành nhà của người Ả Rập".
Những người sáng lập Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot tranh luận về cái tên cho cộng đồng của họ. Có người đề nghị gọi là Khu kiều dân Vilna, phỏng theo trung tâm học vấn của Do Thái ở Lithuania. Những người khác phản đối. Làm sao người ta có thể đòi được vé xe buýt đến Vilna? Nhiều người muốn giữ lại tên của ngôi làng người Ả Rập, vì thế họ gọi nó là Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot Sumayriyya. Tuy nhiên, Quỹ Quốc gia Do Thái (JNF) phán quyết rằng việc kết nối ký ức của Cuộc Nổi dậy của Ghetto Warsaw với một làng Ả Rập là điều không nên nghĩ đến và đã truyền ra một cái tên thích hợp với Kinh thánh-Asher. Những người định cư đồng ý bỏ chữ Al-
Sumayriyya, nhưng không từ bỏ ký ức của những người chiến đấu ở Ghetto. Cuối cùng thì đó là vấn đề của Khu kiều dân. JNF phản đối rằng việc ghép từ ngữ ghetto vào nơi định cư người Do Thái là một chuyện không thích hợp. Và như thế cái bóng của chiến tranh tiếp tục kéo dài giữa những người mong muốn bảo vệ chút gì trong di sản của người Do Thái hải ngoại và những người muốn áp đặt một nền văn hóa Hebrew mới.
"Có những vườn cây ăn trái mà người Ả Rập bỏ lại" Dror chuyển sang câu chuyện khác: "Trong những năm đầu, một người bạn của tôi đã cố gắng đào mương dẫn nước cho những vườn cây ấy, nhưng nước đã không chảy. Anh ta đã ngồi xuống ăn một trái quýt. Thình lình một người đàn ông xuất hiện. Ông ta là người Ả Rập nói được chút ít tiếng Hebrew. Ông ta đã cắt nghĩa cách thức đặt những ống dẫn nước và làm cho hệ thống hoạt động. Bạn tôi hỏi làm sao ông ta biết được chuyện đó. Ông ta trả lời: Đây là vườn cây của tôi mà. Quí vị có biết người bạn của tôi đã kể câu chuyện này khi nào không? Mới cách đây có 2 năm".
Ồng kể tiếp, một lần nọ có hai cậu học sinh cùng viết một đề tài về việc khai sinh ra khu kiều dân, vì thầy giáo của chúng muốn biết tại sao một nhóm cây trắc bá mọc trên khu kiều dân này lại cao hơn nhóm kia. Cha mẹ của chúng đã không nói gì, vì thế chúng dắt nhau đến gặp Dror. "Tôi đã kể cho chúng rằng những cây cao hơn do người Ả Rập trồng để bảo vệ những khu vườn cây khỏi những cơn gió. Còn những cây nhỏ hơn là do chúng ta trồng sau này. Đó là lý do tại sao chúng nhỏ hơn" Dror giải thích tiếp, "Có một hầm trú bom bên những cây đó và tôi đã bảo là chúng ta cần những hầm trú bom ấy vì. những người đã sống nơi đây giờ đang sống ở Lebanon và họ muốn báo thù.
"Bây giờ là năm 1981. Tôi đã ở đây phỏng vấn những người sống sót và tôi thường nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi nhìn những cây cao và hầm trú bom. Có một mối liên hệ nào đó giữa nạn tàn sát người Do Thái và các bậc cha mẹ, những người không muốn kể lại sự thật về những cây cao và hầm trú bom kia".
Trên một bức tường trong phòng của Dror có dán một áp phích to đùng in chân dung hai diễn viên múa hiện đại-Liat, con gái của ông và chàng rể Nir. Tâm áp phích ấy quảng cáo một buổi trình diễn có tên là Hakira, nghĩa là "cuộc điều tra". Buổi trình diễn ấy tái diễn hai biên bản thẩm vấn (nói theo ngôi thứ nhất): một là bản tường thuật của một người Do Thái bị mật vụ Đức thẩm vấn và bản tường thuật kia là những kinh nghiệm bị tra hỏi của một người Palestine nằm trong tay của Cơ quan An ninh Nội địa Shin Bet. Thông điệp quá rõ-khi đối xử với người Ả Rập, người Do Thái lại đang sử dụng cùng những phương pháp của Đức Quốc xã. Lốì trình diễn song đối này thường được người Palestine bày vẽ ra, nhưng ít khi được người Israel sử dụng.
Trời ngả về chiều, bóng tối đang sập xuống. Khi chuẩn bị về, tôi có hỏi Dror về ý nghĩa của những cụm từ Hebrew viết bằng bút lông to nét trên thành tủ sắt xám xịt.
"Chúng là một số câu trích dẫn nổi tiếng" Dror giải thích. Có cả Arthur Ruppin, cha đẻ những khu định cư người Do Thái như Degania và là người đã giúp thương thảo thỏa thuận haavara với Đức Quốc xã. "Những gì người A Rập có thể cho chúng tôi, chúng tôi không cần đến. Những gì chúng tôi cần, họ không thể cho chúng tôi được". Có cả tên tuổi một sử gia người Anh: "Đau khổ là con sen của lịch sử". Và có cả Yitzhak "Antek" Zuckermann, một trong những người lãnh đạo cuộc nổi dậy của Ghetto Warsaw và là nhà sáng lập khu kiều dân: "Đau đớn, đau đớn, đau đớn..."
Những người Do Thái đã đến trước rạng đông. Họ dùng đèn pha xe hơi để soi lối đi, và dân làng Al-Sumayriyya đã khai hỏa. Muhammad Amer, người ta thường gọi là Abu Amer, vừa mới xong phiên gác và đã giao vũ khí cho phiên trực kế tiếp thì giao tranh bắt đầu. Ông ta trườn ra khỏi làng cùng với những người khác để kêu tiếp viện từ phía Quân Giải phóng Ả Rập của Fawzi al-Qawkji, các đơn vị của ông ta đã chiếm đóng một căn cứ cũ của người Anh ở gần đó.
Ồng ta đã thấy một đoàn xe 40 chiếc từ phía Acre đi lên. "Những người lính ngồi trên những chiếc xe đầu tiên mang khăn keffiyeh đỏ" ông ta nhớ lại. "Người lính gác ở cổng dẫn vào Al-Sumayriyya cứ tưởng họ là viện binh Ả Rập. Anh ta chào đón họ bằng một loạt đạn bắn chỉ thiên, và đã bị bắn chết ngay tại chỗ. Dân làng la hét báo cho nhau biết bọn lính đã giả dạng làm người Ả Rập, nhiều gia đình đã chạy về phía đông băng qua những cánh đồng lúa mì trong khi súng đạn đang bắn xối xả vào họ". Năm dân làng đã chết sáng hôm ấy, Abu Amer đã kể lại như thế, trong vòng có vài ngày, đám công binh Hagana đã phá sập tất cả các ngôi nhà ở Al-Sumayriyya.
Chừng 800 cư dân trong làng, tất cả đều là tín đồ Hồi giáo, trước đây sống ở Al-Sumayriyya. Họ trồng chanh, dưa, dưa chuột, chuối, lúa mì, vừng, và các thứ hoa màu khác. Cả làng chung sức giữ gìn một ngôi đền thờ và một ngôi trường làng. Nhiều nguồn lịch sử đề nghị rằng cái tên Al-Sumayriyya phát xuất từ tộc người Samari, vốn đã sống trong vùng này cho đến thế kỷ XVIII. Những di tích khảo cổ trên những mô đất nhỏ gần đấy cho thấy vùng này đã có cư dân sinh sống từ xa xưa.
Đa số cư dân ở Al-Sumayriyya đều đã theo dòng người tị nạn vàoLebanon. Sau khi đi lang thang từ làng này sang làng khác, Abu Amer cũng băng qua biên giới phía bắc để tìm thực phẩm cho cả gia đình. Ông tự đánh giá rằng, đây không phải là một giai đoạn oanh liệt gì. Ông ta đi đến trung tâm tị nạn, nói dối là cha ông bị sát hại trong chiến tranh và hiện ông đang có trách nhiệm về một gia đình 10 người. Ông ở lại Lebanon trong sáu tháng, bán những đồ tiếp tế để lấy tiền đi "vui vẻ ở Beirut". Thế rồi, khi nghe rằng người Israel sẽ sớm ngăn chặn những người tị nạn trở về, với sự trợ giúp của những người làng Druze, ông đã luồn qua biên giới trở về làng.
Bâv giờ Abu Amer sinh sống ở làng Al-Makr, một vài dặm về phía đông Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot. Từ xa, ông có thể nhìn thấy những vườn táo và cây bách của làng Al- Sumayriyya ngày trước. Mặc dù là một công dân của Israel, được hưởng những quyền bình đẳng với người Do Thái, ông không thể trở lại ngôi làng đã bị tàn phá cũng không thể làm việc trong 27 mẫu đất của gia đình, không được bồi thường vì sự mất mát của mình. Ồng ta bị lưu đầy ngay trong một quốc gia tự xưng là dân chủ. Có hàng mươi ngàn người "tị nạn nội địa" như thế ở Israel. Người Do Thái từ những nơi xa như Minsk có thể về định cư ở Galilee, nhưng một người Palestine không thể di chuyển một vài dặm để trở về mảnh đất tổ tiên.
Abu Amer nói "Tôi hầu như quên mất ngôi làng. Không còn có hy vọng gì trở về. Họ đã đưa những người Do Thái từ hải ngoại về đó". Mặc dù thế Abu Amer không than thở quá nhiều. Ông ta cho mình còn may mắn. Dù ở vào bất cứ trường hợp nào, ông vẫn được thịnh vượng. Ồng làm chủ 90 con cừu và trại trồng rau. Hai con trai cho thuê xe máy kéo và xe ủi đất. Cả gia đình sống trong một khu khá lớn gồm hai ngôi nhà và một khu vườn rộng. Ngoại trừ vấn đề đất đai, Abu Amer nói, luật lệ của Israel rất tốt. Người Ả Rập đôi khi còn lãnh trợ cấp của nhà nước. "Những người tị nạn ở Lebanon nói rằng Israel là một quốc gia đầy dẫy tội phạm. Nhưng tôi ở đây này. Cảnh sát sẽ không bắt giữ tôi nếu tôi không làm điều gì sai trái. Tôi đang sống trên quê hương của tôi. Đúng là người Israel đã chiêm đất của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể nhìn thấy nó". Ông ta nói tiếp: "Ở Lebanonn những người tị nạn sống dưới quyền kiểm soát của người Lebanon và bị áp bức".
Nay đã 71 tuổi, Abu Amer nói năng rất chừng mực. Bỏ qua cuộc xung đột nửa thế kỷ vừa qua, những ngày tháng cai trị của người Anh xem ra là một thời kỳ phong lưu bình dị khi các nông dân Ả Rập và Do Thái cùng đổ mồ hôi trên cánh đồng. "Những mối liên hệ với người Do Thái rất tốt đẹp" Abu Amer hồi tưởng lại. “Chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi rất hạnh phúc vì chúng tôi nghĩ người Do Thái sẽ đem lại công ăn việc làm tốt”. Abu Amer hiểu rằng: “cái giá mà người Palestine phải trả cho những lầm lẫn của những người lãnh đạo của họ. Các ông ấy hồi đó không được ăn học. Cha tôi nói đa số dân làng không biết đọc biết viết. Nếu như hồi ấy người Ả Rập chấp nhận kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp quốc hồi năm 1947, thì cả miền Tây xứ Galilee, trong đó có cả ngôi làng Al-Sumayriyya của ông, có lẽ nay đã thuộc về một quốc gia Ả Rập trong đất Palestine. Thế mà các nhà lãnh đạo đã bác bỏ kế hoạch ấy và người Palestine đã mất tất cả”.
Abu Amer quả là khác thường khi sẵn sàng tha thứ. Trước đây ông không bao giờ đến khu kiều dân Lohamei ha-Getaot. Ông ta biết nhiều câu chuyện khủng khiếp nhưng ông không muốn đi tới viện bảo tàng. Ông bảo: "Tôi không muốn nhìn thấy sự bất công. Bọn Đức Quốc xã đã bị Thượng đế tiêu diệt vì những tội ác chúng đã gây ra cho người Do Thái".
Các con trai, cháu trai của ông, cùng bạn hữu trong làng đã ngồi chung quanh chúng tôi. Cậu con của Abu Amer hút điếu cầy. Những người đàn ông này ngổ ngáo hơn, tự tin hơn, ra dáng người Israel hơn. Họ nhìn ly nước không phải là đầy một nửa, mà là đã vơi một nửa. Họ không có kinh nghiệm về vết thương của năm 1948 hay về những tủi nhục tại những trại tị nạn. Họ không nhìn xuyên qua biên giới Lebanon, để cảm thấy được an ủi vì đã được miễn trừ điều tồi tệ nhất của cảnh tha hương của người Palestine.Thay vì thế, họ nhìn vào bên trong những người Do Thái quanh họ, để rồi cảm thấy bực tức vì thân phận của người Ả Rập như là công dân hạng hai. Họ cho tôi biết rằng người Ả Rập ở Israel tiếp tục bị phân biệt chủng tộc.Họ chỉ kiếm được những đồng lương còm cõi hơn, ít đất đai hơn và ít nước để canh tác hơn so với người Do Thái.
Trưởng nam của Abu Amer, cũng tên là Amer, năm nay 43 tuổi, đã nói: "Bọn Đức Quốc xã đã phạm tội ác chống lại người Do Thái và nay người Do Thái phạm tội ác chống lại chúng tôi. Ở đây họ đã phá hủy làng mạc và xô đẩy chúng tôi ra khỏi làng; ở kia họ giết người và bỏ vào lò. Chỉ có kiểu cách là khác thôi". Hàng ngày, Amer đi ngang qua làng Al-Sumayriyya trên đường ông đi tới Nahariya, một thành phố duyên hải. Khi tôi sống ở đây cùng với các con, tôi thường kể cho chúng nghe "Đây là làng của nội các con. Ba không sinh ra ở đây, nhưng ba không bao giờ quên được nó". Có một lần người ta thuê ông làm việc ở Khu kiều dân Lohamei ha-Getaot, nhưng ông đã giữ yên lặng về gốc gác gia đình ông ở đó. Amer nói "Tôi đã không nói với họ. Chúng tôi chỉ bàn chuyện làm ăn. Thật là khó xử". Yên lặng. Mọi người ai nấy đều che giấu nỗi đau của mình trong câm lặng.
Chinh phục và phá hủy làng Al-Sumayriyya mới chỉ lạ phát súng mở màn trong cuộc hành quân Ben-Ami, qua đó Hagana đã khai thông con đường duyên hải lên tới tận biên giới Lebanon và nối liền với một khu kiều dân biên phòng lẻ loi trong vùng đồi núi này. Tất cả những ngôi làng Ả Rập dọc theo con đường ấy và một số con đường về phía đông đều bị thâu tóm vào một mối. Mặc dầu lãnh thổ này đã dược Liên Hiệp quốc phân chia cho quốc gia Ả Rập, đa số cộng đồng người Ả Rập ở đó đều bị xóa bỏ để đảm bảo dân cư sẽ không bao giờ trở về được nữa.
Cuộc hành quân Ben-Ami chỉ là một phần trong chiến lược toàn diện của Hagana, mà người ta gọi là Tochnit Dalet, hay "Kế hoạch D" để đảm bảo an ninh cho những vùng đất mà Liên Hiệp quốc đã phân chia cho quốc gia Do Thái, cũng như những khu định cư mà người Do Thái, chiếm giữ con đường đi vào khu vực của người Ả Rập, trước khi những đội quân Ả Rập chuyên nghiệp sẽ tung ra những cuộc tấn công mà mọi người đang chờ đợi. Dưới những cuộc hành quân của Kế Hoạch D, được tung ra vào tháng Tư và tháng Năm 1948, Hagana đã rút khỏi thế "phòng thủ chủ động" sang thế "tấn công tự vệ" được vạch ra để chinh phục và chiếm đóng lãnh thổ.
Mục tiêu bề ngoài của Kế Hoạch D là quân sự-để dọn đường bên trong của một quốc gia Do Thái tương lai và thiết lập tính liên tục về lãnh thổ giữa những khu tập trung quan trọng của dân Do Thái. Trong thực tế, kế hoạch D đồng nghĩa với việc trục xuất người Ả Rập và phá hủy làng mạc. Những tháng trước đây đã chứng kiến một dòng liên tục người Palestine rời bỏ quê nhà để tìm những nơi an toàn hơn. Nhưng kế hoạch D đã đánh dấu một cuộc bỏ chạy hàng loạt, kết hợp bởi nhiều nguyên nhân: chiến tranh, sự sụp đổ xã hội của người Palestine, sự trục xuất triệt để. Cuộc bỏ chạy ấy tiếp tục kéo dài hàng tháng.
Trong nhiều tuần lễ trước cuộc tấn công làng Al- Sumayriyya, những thành phố có cư dân hỗn hợp ở Haifa, Tiberia, Jaffa và Safad, cũng như thành phố Beisan mà cư dân của nó đều là người Ả Rập (ngày nay gọi là thành phố Beit She'an), đều đã rơi vào tay lực lượng Do Thái, mà chỉ một tỷ lệ nhỏ người Ả Rập trước chiến tranh còn sót lại. Vùng Acre đã rơi vào tay Hagana ba ngày sau khi chiếm được Al-Sumayriyya. Cuối cuộc chiến, chừng 700.000 người Palestine đã rời bỏ quê nhà-gần 60% dân cư Ả-rập thời tiền chiến sinh sống trên đất Palestine, xấp xỉ 85% cư dân Ả Rập sống trong nội địa Israel. Hơn 400 trong số 500 ngôi làng Ả Rập trong lòng quốc gia Israel đã bị phá hủy. Tài sản của người Ả Rập bị nhà nước chiếm giữ, hoặc bị cướp đoạt hay chiếm dụng bởi cá nhân người Do Thái.
Trong cuộc trốn chạy và trục xuất hồi thập niên 1940 ấy, người ta thường gọi là "chuyển đổi cơ cấu" dân cư; thời đại ngày nay nó được gọi là vụ "thanh lọc" sắc tộc. Các nhà lãnh đạo của quốc gia Israel ngày nay lo sợ rằng những người Ả Rập sống giữa họ sẽ lập thành một "lực lượng nội ứng" nguy hiểm và thù địch tiềm tàng. Hơn nữa, họ muốn đảm bảo cho được đa số thường trực của người Do Thái và thâu tóm đất đai của người Ả Rập làm nơi định cư cho người Do Thái nhập cư. Theo kế hoạch phân chia của Liên Hiệp quốc, quốc gia Do Thái trong tương lai sẽ có một thiểu số người Ả Rập lên tới 45% dân số. Chiến tranh qua đi, "vấn đề" người Ả Rập nội địa đã được giảm thiểu một cách thuận lợi trong đám mây mù của súng đạn. Ngay cả Kinh thánh hình như cũng biện minh như thế khi Đức Chúa phán cùng Moses trên bờ sông Jordan:
“Hãy nói với con cái Israel rằng: Khi đi qua sông Jordan mà vào đất Canaan các người sẽ đuổi mọi dân cư trong xứ đó cho khuất mắt các ngươi và phá hủy tất cả các hình ảnh các tượng đúc của chúng, các ngươi sẽ san bằng những địa điểm cao ráo của chúng. Các ngươi sẽ chiếm đất ấy và lập cư ở đó, vì ta đã cho các ngươi đất ấy để chiếm hữu. [...] Nhưng nếu ngươi không đuổi mọi dân cư trong xứ đó cho khuất mắt các ngươi, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ trở nên như gai chọc vào mắt, như mũi nhọn đâm vào sườn, chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi đến ở” (Num. 33: 51-55).
Quốc gia Israel tân lập này đã cứng rắn đối chọi với những nghị quyết của Liên Hiệp quốc luôn đòi hỏi cho những người tị nạn quay trở về. Suốt bao nhiêu thập niên, người Israel đã duy trì đòi hỏi rằng những tị nạn Palestine đã từ bỏ ý chí trở về của chính họ, mà chỉ muốn trở về cùng với những người A Rập chiến thắng, hoặc là với những mệnh lệnh di tản của những nhà lãnh đạo Ả Rập. Israel đã rửa tay không chịu trách nhiệm về cảnh ngộ của họ; số phận của họ đã thuộc trách nhiệm của các nước Ả Rập là những nước đã gây ra cuộc chiến và kích động người Ả Rập ra đi. Nhưng vào cuối thập niên 1980 đã xuất hiện một thế hệ mới gồm những sử gia Israel trẻ trung hơn. Được trang bị một não trạng bài cổ nhiều hơn và những tư liệu mới mẻ hơn do kho tư liệu nhà nước ở Israel cũng như các nước phương tây cung cấp, họ đã bắt đầu xóa bỏ huyền thoại nền tảng này của Israel. Đặc biệt, có Benny Morris làm xung kích trên mặt trận “tái đánh giá” lịch sử bằng tác phẩm Nguồn gốc Vấn đề Người Tị nạn Palestine, xuất bản năm 1988. Ồng đã khám phá ra rằng chính quyền và quân đội Israel đã cố ý xua đuổi nhiều người Palestine, khuyến khích và thúc giục người khác ra đi, và quyết định không cho phép người Ả Rập trở lại. Cuộc xuất hành được gia tăng ở khắp nơi do sự độc ác của những lực lượng Do Thái.
"Vấn đề người tị nạn Palestine được phát sinh do chiến tranh, không phải do kế hoạch, của người Do Thái hoặc của người Ả Rập" Morris đã kết luận như thế. "Vấn đề tị nạn phần lớn là sản phẩm của nỗi sợ hãi của người Ả Rập hay của người Do Thái và là sản phẩm của cả một thời kỳ đằng đẵng nỗi cay đắng của cuộc chiến Ả Rập-Israel lần thứ nhất [.....]".
Morris đã vẽ nên bức tranh của các nhà lãnh đạo Israel, chẳng có một kế hoạch tổng thể nào để xô đẩy người Ả Rập, nhưng đã mau chóng khai thác và tăng tốc việc người Ả Rập ra đi một khi viễn cảnh về một mảnh đất sạch bóng người Ả Rập đang trong tầm tay.
Vì đã làm tiêu tan huyền thoại của cuộc ra đi tự nguyện- đã không có một lệnh di tản nào từ người Ả Rập-Morris liền bị các sử gia Israel đàn anh tố cáo là đã "phò-Palestine". Nhưng khi từ chối không chấp nhận quan điểm Ả Rập về một kế hoạch tổng thể sắp đặt trước của người Do Thái để di dời người Palestine nhằm dành chỗ cho người Do Thái, các học giả Ả Rập than phiền rằng Morris chưa đi xa cho đủ. Thực vậy, một số người Palestine như Sharif Kanaana, nhà nhân chủng học tại Đại Học Bir Zeit ở Bờ Tây, trong tác phẩm Vẫn Còn đó một Khoảng trống: Cuộc Xua đuổi người Pơlestine năm 1948 đã viết rằng, lịch sử mới của Morris có nhiều "nguy hiểm hơn tuyến đầu của mặt trận tuyên truyền Israel, vì nó nhiều nguy biện hơn".
Số phận của các làng mạc ở Galilee là một chứng cứ quan trọng trong cuộc tranh luận này. Các cộng đồng dân cư dọc theo bờ biển phía tây, như Al-Sumayriyya, đều bị phá hủy nhưng nhiều cộng đồng xa hơn nằm sâu trong đất liền lại được phép tồn tại. Nazareth là thành phố lớn duy nhất của người Ả Rập được đứng ngoài không bị trục xuất hay di tản. Đối với Morris, điều này cho thấy rằng việc đánh bật rễ người Palestine ra khỏi nguyên quán là một việc 'làm bừa, làm ẩu một cách tùy tiện, thường được quyết định bởi những điều kiện quân sự địa phương và khuynh hướng cá nhân của những vị chỉ huy. Đối với người Ả Rập, những ngôi làng ở Galilee hoàn toàn nằm ngoài khuôn khổ của cuộc trục xuất toàn diện, là nhờ những sức ép địa phương, chẳng hạn như vì những phản đối quốc tế mạnh hơn đối với những vụ trục xuất các Kito giáo gốc Ả Rập và do những vận động hành lang ở trong nước đối với những cộng đồng thân thiện, như cộng đồng Druze.
Suy nghĩ của những nhà lãnh đạo của Yishuv vào thập niên 1930, khi người Anh đề nghị chia đất Palestine, đã chiếu rọi một tia sáng quan trọng lên những hành động của họ vào thập niên 1940. Ben-Gurion đã kể lại cho các đồng nghiệp ở Thông Tấn xã Do Thái rằng ông ta đã chấp nhận chia đất, nhưng không phải vì ông bằng lòng với kích cỡ phần đất của người Do Thái nhưng là dựa vào "giả định rằng sau khi đã tạo được sức mạnh to lớn hơn sau khi lập quốc-chúng ta sẽ hủy bỏ cách chia đất ấy và bành trướng ra khắp "Đất của Israel".
Ồng ấy đã biện hộ việc di dời người Ả Rập qua một "sự hiểu biết lẫn nhau". Những người khác nói rằng người Anh nên giám sát việc di dời những người Ả Rập. Trong một bức thư gởi cho con trai, bàn về bản báo cáo của Ủy ban Peel năm 1937 và những hỗ trợ mà ủy ban này sẽ làm để trao đổi dân cư, Ben-Gurion nói rằng ông đã không muốn trục xuất người Ả Rập, nhưng ông nói rõ là ông sẵn sàng sử dụng các phương tiện quân sự nếu người Ả Rập không cùng chia sẻ niềm tin rằng đã có "đủ chỗ" trên đất Palestine để cả người Do Thái lẫn người Ả Rập cùng chung sống. "Chúng tôi phải trục xuất người Ả Rập và chiếm lấy chỗ của họ [...] và nếu chúng tôi phải sử dụng sức mạnh-không phải là để truất hữu của người Ả Rập vùng Negev và TransJordan, nhưng để bảo đảm quyền định cư của chúng tôi ở những nơi ấy-thì lúc ấy chúng tôi có toàn quyền sử dụng sức mạnh".
Morris thừa nhận rằng những nhà lãnh đạo của Yishuv đã phải suy nghĩ lâu ngày về vấn đề "chuyển cư" người Ả Rập, nhưng ông cãi rằng khi chiến tranh nổ ra họ đã không có kế hoạch ấy-một lập luận mà người Ả Rập khó có thể tin cho được. Morris tiếp tục giữ ý kiến cho rằng nếu hồi ấy có một kế hoạch đặc biệt để xua đuổi người Palestine, thì hẳn đã có những dấu hiệu của kế hoạch ấy trên các biên bản của nội các, những quân lệnh, và các công văn khác trong thời kỳ ấy. Thay vào đó, Morris đã vẽ ra một bức tranh phức tạp của Ben-Gurion phát triển một chính sách xua đuổi bất thành văn nhưng ngày càng công khai vào 6 tháng cuối năm 1948. Khi Ezra Danin, một cố vấn đặc biệt về Ả Rập sự vụ, vào tháng Mười 1948, đã đề xuất lập ra một chính phủ bù nhìn người Palestine ở Bờ Tây (một số viên chức Israel đã không nghĩ đến chuyện là ý kiến đó đã bị tẩy chay), vì lúc đó quan điểm Ben-Gurion đã được kết tinh 'chín muồi' rồi". Những người Ả Rập sinh sống trên Đất của Israel chỉ còn mỗi một nhiệm vụ-bỏ đi.
Hiển nhiên là Ben-Gurion muốn loại bỏ càng nhiều người Ả Rập cảng tốt. "Nhưng không có một chính sách trục xuất được thông báo, nên Ben-Gurion cứ luôn lải nhải là phải phát lệnh trục xuất rõ ràng bằng văn bản; ông mong rằng các tướng tá của ông hiểu rõ được những gì ông muốn mọi người thực hiện. Ông muốn tránh chuyện đi vào lịch sử với danh hiệu "nhà trục xuất vĩ đại" và ông không muốn chính phủ Israel bị can dự vào một chính sách đáng ngờ vực về phương diện đạo lý.
Tranh luận về cuộc xuất hành của người Palestine sẽ không đầy đủ nếu nó không được thâm nhuần những xúc cảm về Nạn tàn sát người Do Thái. Một ví dụ nhỏ từ một vụ chuyển cư trong những trang của tờ Journal of Palestine Studies năm 1991. Khi Morris tập trung vào sự kiện là hơn 100.000 người Ả Rập đã bị bỏ sót lại ở Israel như một bằng chứng là hồi ấy đã thiếu hẳn một chính sách trục xuất có hệ thống, thì Norman Finkelstein, một giảng viên về lý thuyết chính trị và những quan hệ quốc tế ở Học viện Hunter College và ở Đại học New York, nổi tiếng nhờ thái độ phê bình mạnh bạo của ông đối với chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, đã lên tiếng đáp trả: "Người ta không biết liệu Morris có thể trả lời được không, nếu một sử gia Đức cãi lý rằng sự kiện gần một nửa số người Do Thái (chừng 5 triệu người) sinh sống trên những miền đất châu Âu do Đức Quốc xã chiếm đóng được sống sót khỏi chiến tranh đã cho thấy rằng một nửa số người Do Thái kia chẳng phải là nạn nhân của một chính sách diệt chủng có hệ thống và lúc nào cũng có hiệu quả".
Khi nhiều tư liệu cũ đã được phơi ra ánh sáng, các sử gia mới của Israel chắc chắn sẽ khơi lại cuộc tranh cãi như ngày xưa về những biến cố gần đây hơn. Morris đã chiếu rọi một tia sáng gay gắt lên những cuộc chiến tranh biên giới của Israel vào thập niên 1950. Có lẽ ngay cả Cuộc chiến Sáu Ngày cũng sẽ bị đem ra xem xét lại như là một câu chuyện về chủ nghĩa anh hùng Israel vô tiền khoáng hậu. Ngoài ra những tư liệu về năm 1948 còn bị tạo ra do lòng đam mê có một không hai. Họ xử lý với tất cả những gì được mô tả là tội nguyên tổ của phong trào Phục quốc Do Thái. Nếu năm 1948 là một cuộc chiến công bằng, thì những hành vi sau này của Israel, có khó chịu đến thế nào đi nữa, đều sẽ được biện minh bằng một lý do chính đáng. Tuy nhiên, nếu Israel được khai sinh mà đã có tì vết về mặt đạo lý, thì đất nước ấy sẽ mãi mãi vẫn còn vấy bẩn và không có gì nó làm, đặc biệt là trong những xung đột với người Palestine, được bảo vệ về mặt đạo lý.
Mahmoud Amin chỉ đem theo một của gia bảo khi ông trốn chạy vào buổi sáng lúc người Do Thái tấn công Al- Sumayriyya-đó là những giấy tờ sở hữu đất đai. Ông đã mang theo những giấy tờ khi đến Lebanon với vợ và con cái. Ông cũng ôm những tài liệu này khi được đưa đến một trại tạm ở Ain al- Hilweh, bên ngoài thành Sidon, "để chờ cho đến khi an toàn trở về nhà". Những tháng chờ đợi đã nhường chỗ cho nhiều năm, những căn lều trở thành những khối nhà bê tông. Hơn nửa thế kỷ sau khi bỏ Al-Sumariyya, Amin vẫn chờ đợi để trở về ngôi làng của ông và kiên quyết giữ chặt những giấy tờ sở hữu đất đai đã vàng ố. Chúng là bằng cứ của việc ông bị cưỡng bức trục xuất bất hợp pháp ra khỏi Palestine.
Amin là một trụ cột của làng ông, một mukhtar, hay là một người cầm đầu. Ngày nay ông thấy càng cay đắng, phẫn uất và đa nghi. Ồng viết lên trong một cuốn sổ đen những chi tiết trong giấy thông hành của người cùng nghiên cứu với tôi trước khi đồng ý cho cô ta phỏng vấn. "Sách vở viết về chính nghĩa của Palestine đã đủ để chất đầy một con tầu, thế nhưng không có một cuốn sách nào làm thay đổi được hoàn cảnh của chúng tôi. Tại sao những gì tôi nói với cô bây giờ lại có thể tạo ra một diều gì khác biệt?"
Thật là khó khăn để tranh cãi về điểm này. Bức tường Berlin được dựng lên nhưng lại bị giật đổ trong thời gian Amin đang đợi chờ để được trở về nhà. Con số những người tị nạn Palestine có đăng ký tăng lên từ khoảng 900.000 vào năm 1950, ngày nay đã tròm trèm 3,5 triệu người-2,2 triệu người trong số họ ở bên ngoài lãnh thổ bị Israel chiếm đóng-có nghĩa là khi những gia đình tha hương đã tăng thêm. Văn phòng Trung tâm Thống kê Palestine ước lượng là tổng cộng vào khoảng 8 triệu người Palestine trên thế giới vào giữa năm 1998. Khoảng chừng một triệu sống ở Israel, ba triệu ở Bờ Tây và Dải Gaza, và 2,5 triệu ở Jordan, luôn nhắc nhở phái Cánh Hữu Israel tuyên bố một cách định kỳ rằng "Jordan là Palestine". Những người Palestine còn sót lại bị phân tán ở Lebanon và Syria, khắp thế giới Ả Rập, vào khoảng 200.000 người sống ở miền Bắc và Nam châu Mỹ.
Những người Palestine đã từng chiến đấu với người Jordan, người Maron và người Israel, và thậm chí với nhau mà không có kết quả là bao. Những đội quân Israel đã rầm rập đi qua đông đổ nát của làng Al-Sumariyya vào năm 1982, xuyên qua biên giới đến Lebanon, tàn phá gần hết làng Ain al-Hilweh trên đường họ đến Beirut và lại rút lui. Nhưng không có gì thay đổi ở Amin. Israel đã ký những hòa ước với Ai Cập và Jordan. Ngay cả Tổ chức Giải phóng Palestine đã hòa giải một phần với Israel, từ bỏ đòi hỏi của người Palestine về quyền lợi ở Bờ Tây và Dải Gaza. Nhiều người Palestine lo sợ rằng việc đó sẽ gia tăng tới một từ bỏ cuối cùng: từ bỏ những yêu sách trở về ngôi nhà cũ cửa họ mà giờ đây người Israel đang ở. Amin tuyệt vọng vì mãi mãi phải xa Ain al-Hilweh.
"Tôi hối tiếc là đã bỏ làng. Từ ngày ấy đến nay tôi chưa hề chứng kiến một ngày hạnh phúc trong đời tôi. Tôi đã mất tất cả và sẵn lòng đánh đổi tất cả để được trở về lúc này. Đầu tiên người Anh đã bỏ rơi đất của chúng tôi, rồi những người Ả Rập đã phản bội chúng tôi. Giờ đây Yesser Arafat đang đứng đầu danh sách những kẻ lừa bịp".
A.min tiếp tục nói: "Tôn giáo của tôi dạy rằng một ngày kia chúng tôi sẽ đánh bại người Do Thái và sẽ lấy lại đất đai của chúng tôi. Tôi chẳng dám nghĩ là sẽ được ung dung ngồi nhìn ngắm nó. Tôi chỉ hy vọng rằng cháu nội của tôi chắc chắn sẽ được. Tôi đã bảo đảm là cháu nội của tôi sẽ biết hết mọi chuyện về đất đai của chúng, và lòng thôi thúc trở về của chúng còn mãnh liệt hơn của tôi. Tôi đã dạy chúng rằng chỉ có ở đó chúng mới có thể tìm thấy hòa bình và lòng tự trọng, được lao động ngay trên mảnh đất của mình và không phải sống ở những nơi người ta không hoan nghênh ".
Amin bảo rằng ông đã mất cả thảy 4 người con trai. Một đứa bị chết trong cuộc nội chiến ở Lebanon, đứa khác bị đạn lạc ở Ain al-Hilweh còn hai đứa kia chết vì bệnh. Đáng nói là vào cái tuổi 75, ông sống cùng vợ, lại còn thêm vợ goá của con trai cả, và hai đứa cháu nội. Theo tiêu chuẩn của Ain al-Hilweh, ông sống cũng sung túc. Có một căn hộ ở tầng thứ nhất giản dị trong một tòa nhà 5 tầng, làm việc cho Cơ quan Lao động và Cứu trợ của LHQ (UNRVVA), là chỗ làm đáng tin cậy nhất của người Palestine ở Lebanon.
Cái tên của làng Ain al-Hilweh, nghĩa là Mùa Xuân Ngọt Ngào, xem ra như chế giễu cái mảnh đất ấy. Nó là trại tị nạn lớn nhất ở Lebanon, một khu phố lụp xụp của Sidon, một thành phố duyên hải, nơi đây nhồi nhét chừng 40.000 người trong những căn nhà nhỏ không có lấy một tí gió thoảng nào. Ain al- Hilweh tự xưng mình là "thủ đô của Palestine hải ngoại" nhưng cũng như những người tha hương Palestine, mảnh đất Palestine này đã bị lịch sử cận đại làm ngơ không ngó ngàng gì đến.
Ain al-Hilweh trước đây đã từng là 'một quốc gia trong một quốc gia', một quốc gia Palestine của ông Arafat, được tạo lập ở Nam Lebanon trong thời kỳ có khoảng trống quyền lực chính trị vào giữa thập niên 1970. Lebanon giờ đây chẳng có nhiều trại rộng nhất, cũng chẳng có trại tị nạn nào đông người Palestine nhất, nhưng nó đã trở nên trung tâm hoạt động du kích khi các dân quân Palestine ở Jordan bị trục xuất vào năm 1970. Những phe phái vũ trang tạp nham vừa là chất xúc tác gây phân rã đất nước Lebanon vừa là yếu tố chính của những lực lượng chiến đấu trong suốt thời kỳ nội chiến. Trong đất của Fatah, người Palestine đã có cứ điểm cuối cùng để tổ chức những hoạt động tự trị chống lại Israel, nhưng họ đã hao tốn phần lớn năng lực khi chiến đấu trong cuộc nội chiến Lebanon, y như ở Jordan, dần dần đã mất hết tự do hành động.
Sức mạnh quân sự của Tổ chức Giải phóng Palestine đã bị bẻ gẫy bởi cuộc xâm lăng của Israel, trước khi Yasser Arafat chuyển tới Tunis. Người Palestine đã quay ra giết hại lẫn nhau, và người Syria đã quét sạch mọi lực lượng kháng chiến cho đến khi họ biến Lebanon hoàn toàn trở thành chư hầu của họ sau năm 1991. Người Palestine, nói theo nhà phê bình văn học Feial Ghazoul, "đứng ngay nơi các mũi gươm chĩa vào: Gươm của những kẻ thù, gươm của chiến hữu, và gươm của anh em trong nhà".
Quân đội Lebanon kiểm soát những con đường huyết mạch dẫn tới các trại tị nạn. Những con khủng long của chủ nghĩa Mác-Palestine cực đoan, như George Habash và Naif Hawatmeh, đã bị ép tới cùng, phải sống trong cảnh lưu vong nửa vời ở Damascus chẳng có quyền lực gì. Nhờ ký được hiệp ước Oslo, Yasser Arafat và nhiều cơ cấu èo uột của PLO đã chuyển tới những vùng lõm tự trị trong những lãnh thổ do người Israel chiếm đóng, nơi mà số phận của phong trào quốc gia Palestine đang được quyết định. Những trại tị nạn ở Lebanon không còn là những pháo đài khủng khiếp của khủng bố quốc tế, là những nơi mà những người làm cách mạng của nửa thế giới đã đến để được huấn luyện về khí giới và sức mạnh tinh thần. Những tay súng nghênh ngang với những cây súng máy đặt trên xe Jeep của chúng và những cặp kiếng mát hợp thời đã tan biến mất.
Những trại ở Lebanon thu lại thành những ghetto của người Palestine, những cư dân của những trại này hiện đang ở tận dưới đáy xã hội. Không có bất cứ nơi nào ở Trung Đông mà những người tị nạn Palestine hưởng được tự do hoàn toàn, nhưng ở nơi đây họ phải chịu những hạn chế nặng nề. Họ là những bộ tộc người Li Băng mà lại không có chỗ đứng trong hệ thống hành chính của Li Băng. Họ bị những tín đồ giáo phái Maron đổ lỗi là đã khởi phát cuộc nội chiến, và khá lắm là bị đối xử lạnh nhạt bởi những nhóm khác. Hơn một nửa người Palestine ở Lebanon sống trong những trại, một tỉ lệ cao nhất trong bất cứ quốc gia chủ nhà Ả Rập nào. Họ được đối xử như những người ngoại quốc, mặc dù với quyền lưu cư không giới hạn.
Tại đây, có khá nhiều tương đồng về tình trạng của người Do Thái ở chế độ Sa hoàng hồi thế kỷ XIX. Người Palestine không dược hưởng an sinh xã hội và trợ cấp y tế từ chính phủ Lebanon. Vấn đề nhà ở bị giới hạn. Những trại bị phá hủy bởi những năm chiến tranh không được xây dựng lại. Nhà cầm quyền cấm xây dựng những trại mới, hay xây dựng trên những khu đất trống gần trại. Chính phủ Lebanon đã bắt đầu đuổi những người Palestine ra khỏi những nơi định cư không chính thức đã mọc lên như nấm trong những năm chiến tranh, và mối đe dọa bị xoá sổ hiện đang còn treo lơ lửng ở ba trại tại Beirut. Mọi hình thức áp lực chính thức hay không chính thức vẫn luôn thúc ép những người tị nạn ở Lebanon phải ra đi, nhưng họ không biết đi về đâu cả.
Những người Palestine ở Lebanon không thể đi làm mà không có giấy phép chính thức, được cấp cho họ với mức độ một vài trăm người mỗi năm. Không phải là người Lebanon, họ bị cấm làm nhiều loại công việc, bao gồm cả việc làm trong nhà nước, đô thị, vận tải và làm cho những công ty ngoại quốc lớn. Ngoài ra, việc hành nghề y khoa, kỹ sư, và luật được giới hạn trong những thành viên của các nghiệp đoàn được công nhận-mà những thành viên này lại là người Lebanon. Chỉ trong những trại tị nạn như Ain al-Hilweh thì người Palestine mới được hưởng một mức độ tự trị nào đó. Đây là nơi duy nhất những người chuyên nghiệp có thể hành nghề.
Những người tị nạn ở Lebanon, còn hơn ở bất cứ nơi nào khác, được bảo trợ bởi những cộng đồng quốc tế ngày càng tỏ ra dửng dưng. UNRVVA và những cơ quan viện trợ khác, cũng như PLO, chỉ đem lại những dịch vụ và những việc làm tối thiểu cho người Palestine. Nhưng những đóng góp lại bị cắt bỏ vào năm 1990 khi ngân quỹ của PLO cạn kiệt, và cộng đồng quốc tế tập trung vào việc trợ giúp những người Palestine hiện đang ở Bờ Tây và Dải Gaza.
Những lá cờ xanh của Liên Hiệp quốc phất phới trên 12 trại tị nạn ở Lebanon, những giấy căn cước của những người tị nạn, những giấy phép đi lại tạm thời, toàn bộ những đồ dùng cá nhân lỉnh kỉnh ấy, tốt hay xấu, đều là những biểu tượng của người Palestine. Arafat đang cùng những nhà lãnh đạo Ả Rập bàn bạc về vấn đề giữ người Palestine làm thành một dân tộc riêng. Cuối năm 1999, ông nói: "chúng tôi mạnh mẽ bác bỏ mọi cuộc đàm phán về việc nhập tịch những người tị nạn ở Lebanon là tội phạm".
Số phận của những người Palestine khắp thế giới Ả Rập còn lệ thuộc vào những tùy hứng của những nhà cầm quyền của các quốc gia. Kuwait xưa kia đã một lần là trung tâm quan trọng của người Palestine hải ngoại, một nơi có một nền chính trị tương đối tự do luôn chào đón mọi người. Sự thịnh vượng của dầu lửa đã lôi kéo hàng trăm ngàn người, kể cả bản thân ông Arafat, đến làm việc như những công chức trẻ trong khu vực công. Kuwait là cái nôi của phong trào Patah của Arafat, một phe phái lớn nhất của PLO. Nhưng sau khi quân đồng minh giải phóng Kuwait khỏi tay những kẻ xâm lăng Iraq, gia đình hoàng gia Kuwait đã trục xuất hàng loạt từ 200.000 đến 300.000 người Palestine để báo thù sự phản bội của Arafat khi ông này ủng hộ Iraq. Nhiều người bị trục xuất đã từng bị ép buộc ra đi nhiều lần. Tôi đã gặp một số người đã đi từ Israel tới Bờ Tây vào năm 1948, rồi từ Bờ Tây tới Jordan vào năm 1967, đã di chuyển đến Kuwait để tìm công ăn việc làm, để rồi sẽ bị trục xuất về lại Jordan vào năm 1992. Thậm chí có người đi luôn về tới Bờ Tây, mặc dù sự nổi dậy của người Palestine lúc đó vẫn còn dữ dội, vì họ quyết định rằng sự chiếm đóng của Israel còn khá hơn chính sách hay thay đổi của nền cai trị của người Ả Rập.
Tháng Tám 1995, đến lượt Thiếu tá Muammar Gaddafi của Libya bắt đầu chĩa mũi dùi vào người Palestine sinh sống trong nước ông. Tính ra tổng cộng có đến hàng ngàn người đã bị trục xuất và nhiều người khác đã bị bỏ rơi hàng tuần lễ trong mặt trời sa mạc giữa biên giới Ai Cập và Libya. Gaddafi nói rằng đó là một chứng minh cho những lời hứa sáo rỗng về hòa bình mà hiệp ước Oslo đem lại.
Khi người Ai Cập giành lại được bán đảo Sinai sau khi thiết lập hòa bình với Israel, người ta đòi hỏi rằng biên giới phải được vẽ chính xác dọc theo biên giới quốc tế, mà không quan tâm đến những yêu cầu cần có một bổ sung nhỏ về sự có mặt của một trại tị nạn đã lấn qua biên giới phía Sinai. Kết quả là hơn 5.000 người ở Trại Canada bên phía Ai Cập bị cắt đứt khỏi Dải Gaza, có thể chỉ liên lạc được với các thân nhân ở Gaza bằng cách gào to qua hàng rào biên giới. Mãi đến cuối năm 2000, họ mới được "hồi hương" hoàn toàn.
Chỉ có Jordan trao quyền công dân cho những người Palestine đã đến đây theo hai làn sóng tị nạn do chiến tranh năm 1948 và 1967 tạo ra. Hơn một nửa dân số trong vương quốc là người Palestine, gồm nhiều thương gia và giới chuyên môn, và nền kinh tế của Jordan lâu nay được tăng lực nhờ những số tiền chuyển ngân của những người Palestine sống ở trong những quốc gia Vùng Vịnh. Đã có lần cựu vương Hussein bổ nhiệm một người Palestine làm Thủ Tướng.
Jordan là một thực thể kỳ quặc-một quốc gia có dân là người Palestine, kiên quyết ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc Palestine. Bờ Tây được sát nhập vào Jordan khi Vua Hussein còn trị vì; nó không được phép trở thành quốc gia Palestine dưới bất cứ hình thức nào. Cuộc nội chiến tháng Chín Đen đã để lại một di sản là sự ngờ vực. Bộ chỉ huy của mukhabarat, hay mật vụ, được mọi người quen gọi là Funduq Filastin, hay 'Khách sạn Palestine' vì con số những người Palestine bị giam giữ, bị hỏi cung và tra tấn trong bốn bức tường của nó. Khi Vua Hussein tuyên bố vào năm 1988 rằng ông sẽ giũ bỏ Bờ Tây mà Israel đang cai trị, nơi đó người Palestine vẫn còn giữ những giấy tờ của Jordan, những giấy thông hành của người Palestine bỗng trở thành "tạm thời".
Những di chuyển liên tục của những người tị nạn, cuộc sống trôi nổi không nhà, bị đánh đập bởi số mệnh, những nỗ lực giữ vững trật tự trong những hoàn cảnh hỗn loạn, đã là những đề tài nổi bật chi phối văn chương Palestine. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất do nhà văn Ghassan Kanafani là "Con người dưới ánh Mặt trời" là một truyện ngắn về ba người Palestine lữ hành trong sa mạc băng qua Iraq để tìm việc làm ở Kuwait. Nỗi khổ cực suốt đường đi đã chấm dứt trong thảm kịch khi họ tìm cách để lẻn qua biên giới, họ trốn trong một chiếc xe chở nước bỏ không và bị mất mạng bởi sức nóng ngột ngạt khi người tài xế chậm trễ do những nhân viên biên giới cứ níu kéo trêu chọc lối sống tình dục của anh ta.
Những người Palestine đã phát triển một nếp sống hoài nghi mãnh liệt về bạn hữu cũng như về kẻ thù. Những lời ngọt ngào của những người lãnh đạo Ả Rập chỉ gợi ra sự hoài nghi; người Palestine đã đấu tranh chống lại những vị vua và tổng thống Ả Rập không kém khi họ chống lại người Do Thái. Mureed Barghouthy, một nhà thơ lỗi lạc đã sống trong nhiều vùng đất Ả Rập, đã gởi những dòng thơ sau đây cho những người Palestine tha hương:
Tôi muốn ngỏ lời với mọi công dân có một nhà cầm quyền.
Một mình ngươi được ban tặng hai mươi trong hai mươi thủ đô.
Nếu ngươi làm cho một thủ đô lên cơn giận, luật pháp sẽ đòi thủ cấp của ngươi.
Và nếu ngươi tôn vinh một trong những thủ đô ấy, những thủ đô còn lại sẽ khai tử ngươi.
Chỉ có người điên mới ở lại trong những hang cùng ngõ hẻm của Deir Yassin. Những kẻ thần kinh và tâm thần, hoang tưởng và suy nhược ấy, nay là chủ nhân của cái xó xỉnh méo mó này trong đất nước Israel hiện đại. Những ngôi nhà Ả Rập vững chắc nhưng rất duyên dáng đã đem lại sự khuây khỏa cho những người mắc tâm bệnh của Jerusalem. Cái tên Deir Yassin đã đốt thành một lỗ sâu trong lương tâm người Palestine, nhưng ở Israel lương tâm đã bị tiêu ma vì chứng quên tập thể. Vùng dất ngày nay được gọi là làng Shaul, những tòa nhà của người Ả Rập giờ trở thành chốn dành cho bệnh viện tâm thần chính của Jerusalem, một viện nổi tiếng nhất nhờ đã xác định ra được "hội chứng Jerusalem", một điều kiện nhờ đó mà các du khách đến Thành Thánh bất ngờ bị làm mồi cho những thị kiến tôn giáo. Người ta dễ có ảo tưởng là toàn thể dân tộc này đã có thể bảo tồn được ký ức của những biến cố trong Kinh thánh đã có cách đây hơn 2.000 năm nhưng vẫn chưa đánh bật rễ được lịch sử Ả Rập mới có mấy thế kỷ. Ảo giác trong tâm tưởng này cho đến nay vẫn chưa có tên gọi đầy đủ ý nghĩa của nó. Chủ nghĩa dân tộc? Tuyên truyền? Sự mù quáng tôn giáo? Giả dốì? Mọi yếu tố này, nó đều có tất.
Những địa danh Ả Rập thường giữ gìn lịch sử tích lũy được của mảnh đất đó, đã chứng tỏ là không có giá trị đối với những học giả và khảo cổ học trong khi họ cố đi tìm lại di sản Kinh thánh của đất Palestine. Trái lại, những địa danh Do Thái thường được hữu ý chọn lựa để quét sạch truyền thống Ả Rập bằng cách tuyên bố có một mối liên kết với Kinh thánh, hay ít ra bằng cách áp đặt một thực tại mới có liên quan tới Do Thái. Ví dụ như tên của Deir Yaasin, chứa đựng trong đó bằng chứng của chặng đường mà cả Kito giáo và Hồi giáo ở Palestine đã đi qua: "Deir" có nghĩa là "tu viện", mà người ta đã xây dựng quanh Jerusalem rất nhiều, và Yassin là tên của một thủ lãnh Hồi giáo được cho là đã được chôn cất gần đó.
Dưới thời cai trị của Anh, Deir Yassin là ngôi làng trù phú của những thợ xây đá, khai thác đá và cắt những khối đá vôi để cung cấp cho kiến trúc theo kiểu Anh ở Jerusalem. Vào đầu năm 1948, những cư dân của nó đã ký một thỏa thuận bất khả xâm phạm với ngôi làng Do Thái láng giềng tên là Givat Shaul, nhưng những thỏa thuận địa phương như thế thường không thể chống lại nổi với áp lực của chiến tranh. Vị trí của Deir Yassin nhìn ra xa lộ chính từ Tel Aviv đến Jerusalem thường xuyên bị phong tỏa khiến nó trở thành một tài sản chiến lược, đặc biệt là vì quân Do Thái muốn xây dựng một sân bay gần đó.
Tháng Tư năm 1948, Hagana tiến hành cuộc hành quân Nachshon, nhằm khai thông con đường dẫn đến Jerusalem. Đó là một cuộc hành quân vĩ đại nhất của người Do Thái để định ngày giờ và hình thành chiến dịch mở màn của kế hoạch D. Y đồ là chiếm giữ một loạt làng Ả Rập, để kiểm soát những vùng đất cao trên con đường. Không ai biết được việc dàn quân của cả lữ đoàn Hagana, vì đây là lực lượng quen chiến đấu với những thành phần không lớn hơn một đại đội. Những nhóm bất đồng quan điểm ở Jerusalem như Etzel và Lehi lúc đó chưa nhập chung vào nhóm Hagana. Họ bắt đầu tấn công làng Deir Yassin, từ những vùng ngoại ô phía Tây của thành phố, như một phần không chính thức của Kế hoạch Nachshon. Để tôn vinh hành động hợp tác của họ, chiến dịch có bí danh Achdut, nghĩa là “Hợp nhất”.
Trước rạng đông ngày 9 tháng Tư, một nhóm trong số 130 chiến binh Do Thái quy tụ về Deir Yassin từ ba hướng. Chẳng mấy chốc họ đã bị lính gác phát hiện. Những gì xảy ra trong một vài giờ sau đó nay vẫn còn là đề tài tranh luận và qua nhiều thập niên, nó vẫn còn nằm im lìm trong dối trá và huyền thoại.
Theo Yehuda Lapidat, phó chỉ huy của Etzel trong cuộc hành quân ấy, những người Do Thái đã bị quét sạch bởi một chiến binh đã nghe một lính gác Ả Rập kêu to "Mahmoud", anh ta hiểu lầm là achdut, và đã trả lời bằng phần hai của mật khẩu, lohemet. Dân làng bắn ra loạt đạn đầu tiên. Khi trận chiến bắt đầu, Lehi đã mang đến một xe thiết giáp, nhưng nó đã dừng lại trước một chiến hào được đào ngang qua con đường chính. Người ta nghĩ là báo động đã được phát đi trên các loa phóng thanh, nhưng không chắc là có ai nghe được hồi còi báo động ấy không.
Các chiến binh Do Thái đã muốn người Ả Rập chạy trốn, nhưng theo Lapidot, "sức đề kháng của người Ả Rập rất mạnh và mọi nhà đều trở thành pháo đài". Bốn người tấn công đã bị chết và nhiều người khác bị thương, kể cả những vị chỉ huy lão thành. Để bắt người Ả Rập phải câm họng, người Do Thái đã phải ném nhiều lựu đạn vào từng nhà, thậm chí bắn sập toàn bộ tòa nhà lớn. Khi người Do Thái cạn hết đạn dược, Palmach tung ra một chiếc thiết giáp có súng máy và đạn pháo yểm trợ. Etzel và Lehi tuyên bố kết quả trận chiến là tất cả người Ả Rập đều thương vong.
Nhưng theo phía Ả Rập và một số nhân chứng người Do Thái và ngoại quốc, những chiến binh Do Thái đã tàn sát tập thể dân làng, kể cả phụ nữ, trẻ em, và người già. Phụ nữ bị hãm hiếp và thân thể bị lột sạch. Cả thảy, hơn 250 người bị thảm sát. Dù ở mức độ nào đi nữa, đây là câu chuyện khủng khiếp nhất của Deir Yassin.
Thêm một bằng chứng trong số những nhân chứng như Jacques de Reynier, đại biểu Thụy Sĩ trong ủy ban Hồng Thập Tự Quốc Tế, đã đến Deir Yassin hai ngày sau trận đánh. Trong cuốn sách của ông, Ở Jerusalem, Một Lá Cờ Phất Phới Trên Tuyến Lửa, một tường thuật chi tiết và đầy xúc động hơn bản báo cáo chính thức của ông, đã nhắc lại những người lính Do Thái trong làng hôm ấy: "tất cả họ còn trẻ, thậm chí có cả thanh niên, nam có nữ có, trang bị tới tận răng: súng ngắn, súng máy, lựu đạn, và cả những thanh đoản kiếm to đùng mà họ đang cầm trên tay thì phần lớn còn nhuốm đầy máu. Một thiếu nữ, trẻ đẹp mang đôi mắt của một tội phạm, tôi thấy đôi mắt ấy còn sũng nước mắt. Cô ta mang nó đi như một chiến lợi phẩm".
Khám xét các thi thể trong những ngôi nhà