← Quay lại trang sách

- 5 - Nạn nhân của nhau

Khối hình nón trắng rực sáng vươn khỏi những khu rừng trồng cam bên cạnh con đường duyên hải phía bắc Acre. Nó trông giống cái ống khói, hay có khi lại là một kiểu cách tân của một tháp ziggurat xoắn ốc ở vùng Lưỡng Hà.

Cấu trúc đặc biệt này chính là Yad Layeled, đài tưởng niệm những trẻ em Do Thái bị sát hại trong cuộc tàn sát người Do Thái của Đức Quốc xã. Sừng sững đứng bên cống dẫn nước cổ kính của Thổ Nhĩ Kỳ, nó như hữu ý đối chọi một bên là máng nước đem lại sự sống với bên kia là biểu tượng của sự chết. Ấn tượng kiến trúc được tô đậm nét bằng bờ dốc xoắn ốc, thay vì vươn lên đến chỗ kết hợp với chốn trời cao, thì lại đổ xuống chốn tối tăm của trái đất.

Những thiếu nhi đến tham quan nơi đây lần đầu tiên thường ngồi trong lòng khối tháp hình chóp lung linh huyền ảo ấy, được trang trí những hình ảnh bằng kính màu- dựa theo những nét vẽ nguệch ngoạc của các trẻ em trong trại tập trung Theresienstadt. Những hình ảnh này cuốn hút chúng vào lòng cơn lốc tràn ngập những âm thanh của những đứa trẻ từ quá khứ vọng về và những khúc phim video ghi lại hình ảnh những người sống sót nay đã lớn đang hồi tưởng những kinh nghiệm đã từng trải qua khi còn nhỏ. Những vị khách bé nhỏ này len lỏi qua một mô hình tái tạo các ghetto, rồi trượt xuống theo những đường ray để nhắc lại chuyến tầu lao về những trại tử thần; chúng không bao giờ thấy được gì nằm sau khúc quanh cho đến khi lọt vào một cái giếng trời tối đen, phập phù một ngọn lửa vĩnh cửu để tưởng nhớ những người đã bị sát hại trong cuộc tàn sát người Do Thái.

Yad Layeled là công trình phụ cận mới nhất của viện bảo tàng và trung tâm tư liệu của Khu kiều dân biên phòng Lohamei ha-Getaot, vốn là khu của các Chiến binh Ghetto, được thành lập bởi các cựu chiến binh của Ghetto Warsaw đã nổi dậy chống bọn Đức Quốc xã năm 1943. Khi tụ họp lại nơi đây thành một khu kiều dân biên phòng, những thành viên ấy không chỉ có ý định tham gia vào công việc tiên phong xây dựng quốc gia mới mà còn muốn trở thành một tượng đài sống động để tưởng nhớ đến sáu triệu người Do Thái đã tiêu ma trong thời Đại họa (Shoah) thời ấy.

Tuy nhiên, còn có một quá trình lịch sử nữa chẳng thấy ai kể lại trong các hành lang bảo tàng hay trong các phòng hội thảo của Khu kiều dân biên phòng Lohamei ha-Getaot. Đó là câu chuyện của ngôi làng Ả Rập Al-Sumayriyya mà dân cư ở đó đã bị xua đuổi ra khỏi mảnh đất mà nay chính khu kiều dân này chiếm giữ. Làng Al-Sumayriyya đã bị quân Israel chinh phục vào ngày 14 tháng Năm 1948, chỉ vài giờ trước khi David Ben-Gurion tuyên bố Israel độc lập. Trong vòng vài ngày, các công binh Israel đã san bằng ngôi làng để đảm bảo một điều là 800 cư dân lạc lõng ấy sẽ không trở về. Đa số dân làng chạy vượt qua biên giới Lebanon, còn một số nhỏ tìm cách ở lại trong các làng mạc khác của người Ả Rập mà sau này cũng sẽ trở thành đất của Israel. Từ đó đến nay, chưa có ai được phép quay về những ngôi làng cũ của họ.

Ngôi làng Al-Sumayriyya hoang tàn ấy chỉ nằm cách Yad Layeled có vài trăm mét. Qua đám cỏ hoang và những bụi xương rồng gai góc, họa hoằn người ta mới thấy được những hành lang có vòng cung của ngôi đền thờ đã bị phá thành bình địa. Al- Sumayriyya là một trong hơn 400 ngôi làng Ả Rập ở Israel đã bị phá hủy trong thời kỳ xuất hành của dân tị nạn Palestine mà người ta thường gọi là thời kỳ Al-Nakha, hay là thời kỳ "Đại họa."

Câu chuyện về Palestine và Israel là một bi kịch chất chồng lên nhiều bi kịch nữa. Nỗi khổ đau của người Do Thái trong cuộc tàn sát người Do Thái nay lại kéo theo những nỗi đau khổ của người Palestine bị ném ra khỏi quê hương của họ. Quyết định của Liên Hiệp quốc thành lập quốc gia cho người Do Thái đã được nhiều người đồng cảm vì sự tàn phá mà họ đã gây ra cho người Do Thái ở châu Âu; nhưng rồi đến lượt cuộc chiến tranh lập quốc của người Do Thái lại đánh bật hơn 700.000 người Ả Rập ra khỏi nguồn cội quê nhà của họ. Việc định cư những người tị nạn Do Thái từ châu Âu-mà trong số họ có người lại bị đưa đi chiến đấu trực tiếp ở ngay tiền tuyến của cuộc chiến tranh giữa Ả Rập và Israel-lại xảy ra cùng lúc với việc ra đi của những người tị nạn Ả Rập. Nhiều nạn nhân của cuộc tàn sát chỉ có việc dọn vào ở trong những ngôi nhà bỏ hoang của người Ả Rập. Những người Do Thái tha hương nay đã tìm thấy một quê hương, trong khi những người Palestine vô gia cư nay còn lang thang khắp vùng Trung Đông.

Người ta không cần "cân đều chia bằng" hai nỗi khốn khổ ấy. Sự hủy diệt của Shoah thuộc về một thế giới sự dữ khác hẳn với sự truất hữu người Palestine ở Nakba. Đối với mọi sự việc khủng khiếp xảy ra trong những thập niên xung đột, người Do Thái đã không hề thả hơi ngạt giết hại người Palestine. Thế mà hai nỗi khốn cùng ấy cứ xoắn lại với nhau không sao gỡ ra được. Chúng cùng là thành phần của một bức tranh cẩn sắc mô tả cuộc xung đột với Palestine. Nếu người Do Thái là nạn nhân của Đức Quốc xã, thì người Palestine, trong nhiều phương diện, chính là những nạn nhân của những nạn nhân kia. Đối với mỗi bên, sự chân thương lại là từng phút giây trong lịch sử của mình, và ký ức về thảm kịch nằm ngay trong lòng bản sắc dân tộc. Nó dẫn đến một tâm trạng thường là buồn bã, uất ức và u tối - đôi khi nhuốm mầu u uất - chất chứa mặc cảm phẫn nộ (tự cho mình có quyền phẫn nộ chính đáng). Những vết thương toang hoác chẳng còn đâu chỗ trống cho tính hài hước tự biếm.

Suốt nửa thế kỷ tranh luận giữa Israel-Ả Rập vừa qua, mỗi bên đều đã giảm thiểu, làm ngơ hay bóp méo những nỗi đau của bên kia để từ chối quyền tồn tại của bên kia với tư cách là một dân tộc. Trong cuộc đấu tranh giành đất Palestine, cả người Do Thái lẫn người Palestine đều không chỉ chiến đấu giành quyền ai là người sở hữu đất đai lâu đời nhất mà còn luôn tranh cãi xem ai đã phải chịu đựng đau khổ nhất.

Đối với nhiều người Israel, thái độ sẵn sàng hạ thủ của người Palestine đã làm cho họ nghĩ rằng người Palestine là hiện thân ngày nay của bọn Đức Quốc xã. Năm 1982, sau khi Lực lượng Phòng thủ Israel phá hủy tổng hành dinh của Arafat tại Beirut, Thủ tướng Meachem Begin đã viết thư cho Tổng thống Mỹ Ronald Reagan rằng ông ta cảm thấy mình cứ như vừa gởi quân tiến vào Berlin để tiêu diệt Hitler trong boongke của hắn.

Người Palestine thường coi cuộc tàn sát người Do Thái như là một thứ công cụ tuyên truyền, được sử dụng để ngăn chặn các khát vọng dân tộc của họ. Họ luôn bác bỏ bằng đủ luận điệu cho rằng nạn tàn sát ấy không hề xảy ra, hay tầm cỡ của nó đã bị thổi phồng quá đáng (có lẽ là sáu ngàn, nhưng không tới sáu triệu) hoặc khai thác nỗi sợ hãi làm thứ vũ khí hoa mỹ lấp liếm chuyện người Do Thái cư xử với người Palestine là vì họ đã bị Đức Quốc xã xử sự như vậy.

Điều 20 của hiến chương hiện không áp dụng của Tổ chức Giải phóng Palestine, được thảo ra năm 1968, tuyên bố rằng: "Những xác quyết về các mối liên hệ tôn giáo và lịch sử của người Do Thái với vùng đất Palestine không tương hợp các sự kiện lịch sử và ý niệm đúng đắn về những yếu tố câu thành một quốc gia. Do Thái giáo, là một tôn giáo, chứ không phải là một quốc tịch độc lập. Cũng thế, người Do Thái không làm thành một quốc gia độc lập với bản sắc riêng; nhưng là những công dân của các quốc gia cưu mang họ".

Thủ tướng Israel Golda Meir nói thẳng thừng hồi năm 1969: "Không có điều gì như thế về người Palestine. Đã có một dân tộc Palestine độc lập với quốc gia Palestine hồi nào vậy? Không có chuyện... cứ như thể là chúng tôi đã đến đây, đã trục xuất họ và đã tước đoạt đất đai của họ. Họ đã không tồn tại". Trong hiệp ước Trại David năm 1978, Menachem Begin đã ghi rõ rằng ông hiểu những hạn từ "người Palestine" và "nhân dân Palestine" chỉ có nghĩa là "những người Ả Rập của miền đất Eretz thuộc Israel".

Tại hội nghị hòa bình Madrid năm 1991, người Palestine không được phép tham dự hội nghị với tư cách là một phái đoàn riêng vì có sự chống đối của Israel. Họ chỉ là một thành phần của phái đoàn người Jordani. Haider Abbel-Shafi, trưởng phái đoàn người Palestine, vẫn được phép đọc bài diễn văn của mình. Ông đứng trước hội nghị và đọc những lời lẽ mà có lẽ là tuyên ngôn về tính chất của một quốc gia của người Palestine một cách rõ ràng và trang trọng nhất:

Chúng tôi, nhân dân Palestine, đứng trước mặt quý vị với tất cả nỗi khổ đau, lòng tự hào và hy vọng của chúng tôi, vì bấy lâu nay chúng tôi vẫn luôn bám chặt vào việc tìm kiếm hòa bình và giấc mơ về công bằng và tự do. Từ lâu lắm rồi, nhân dân Palestine đã lầm lũi bước đi trong cảm lặng và bị chối từ-bản sắc của chúng tôi bị phủ nhận bởi những động cơ chính trị, cuộc đấu tranh hợp pháp của chúng tôi chống lại bất công đã bị vu khống và sự tồn tại hiện nay của chúng tôi đã bị gộp vào bi kịch quá khứ của một dân tộc khác. Đã đến lúc chúng tôi phải kể lại câu chuyện của chính chúng tôi...

Với lời lẽ hùng hổ, Thủ tướng Israel, Yitzhak Shamir đã bác bỏ tất cả trừ cái nhún vai khinh bạc lời yêu cầu xin được thừa nhận của "người Palestine-Ả Rập".

Phát ngôn viên của người Palestine-Ả Rập đã rất nỗ lực nhắc lại những đau khổ của nhân dân ông ta. Nhưng hãy để cho tôi nói rằng cái câu chuyện rối tinh cùng với thói bóp méo sự kiện ấy sẽ không đem lại cho họ sự đồng cảm mà họ cứ cố đòi cho bằng được. Chẳng phải là chính người Palestine đã bác bỏ mọi đề nghị hòa bình từ đầu thế kỷ này mà đã đáp trả bằng bạo lực? Chẳng phải là chính người Palestine đã sinh ra một nhà lãnh đạo từng cộng tác với Đức Quốc xã trong việc tận diệt người Do Thái trong suốt thời tàn sát ấy?

Cho dù những đường biên giới tương lai có được vẽ lại thận trọng đến thế nào đi nữa, cho dù các nhà lãnh đạo có mưu mô giải quyết những vấn đề định cư và vấn đề Jerusalem một cách khéo léo đến đâu đi nữa, cho dù tiền bạc thế giới đổ vào để hỗ trợ "tiến trình hòa bình" có nhiều đến thế nào đi nữa, thì việc xây dựng hòa bình về mặt chính trị vẫn không thể hoàn hảo nếu mỗi bên đều không thừa nhận nỗi thống khổ của nhau và từ bỏ ý tưởng cho rằng chỉ có mỗi một mình mình là nạn nhân của lịch sử.

Ngoài Yad Layeled và những tòa nhà khác liên quan đến đài tưởng niệm cuộc tàn sát người Do Thái, chẳng có nhiều điều gì khác ở Khu kiều dân biên phòng Lohamei ha-Getaot cho người ta thấy cái gánh nặng của cơn ác mộng chất chứa ở đấy. Những ngôi nhà được xây tách rời nhau khá thưa trong những khu vườn gọn ghẽ tinh tươm. Trong làng có cả một nhà ăn bình dân, một sân chơi, một bể bơi, một chuồng bò, một nhà máy, và một nhà trọ. Trẻ em và người già sống một cuộc sống cần cù rất chừng mực.

Avraham và Esther Tzoref trông giống như một cặp vợ chồng sống ở khu kiều dân cựu chiến binh như bất cứ nơi dâu ở Israel. Ngôi nhà của họ được trang hoàng bằng những mầu nước vui mắt. Mặc dầu đã 75 tuổi, Avraham có vóc dáng như cái thùng và đôi bàn tay mạnh khỏe. Ông thường mặc quần soọc và sơ-mi ngắn tay. Esther, kém ông 6 tuổi, có gương mặt tròn trĩnh, tươi vui và quyến rũ trong bộ váy hoa.

Bức tranh về cuộc sống bình dị mãn nguyện này đã được chủ ý vun đắp từ nhiều thập niên. Cả Avraham và Esther đến Israel sau khi sống sót thoát khỏi cuộc tàn sát trong gang tấc, sau khi gặp nhau ở đất nước mới này và lấy nhau, cả hai ông bà đã quyết định không chất lên vai con cái mình cái gánh nặng của quá khứ. Thậm chí trong bao năm qua họ cũng chẳng buồn kể cho nhau nghe những trải nghiệm đã qua. Họ im lặng một phần là vì họ muốn thế, một phần là do sự dửng dưng của nhiều người Do Thái đối với nỗi đau của những người sống sót trong những năm đầu lập quốc.

Cho đến năm 1984, mọi chuyện đã đổi khác: khu kiều dân xuất bản bộ sưu tầm các chứng cứ của những người sống sót. Nhưng không phải đợi cho đến năm ấy mà con cái của ông bà Tzoref mới biết đến từng chi tiết những gian truân mà cha mẹ họ đã trải qua ở châu Âu. Avraham nói: "Tôi kể cho chúng nghe về cái giá rét và y phục chúng tôi đã mặc, nhưng tôi đã không bao giờ kể cho chúng biết những chuyện khó khăn khác". Ông đã đồng ý để người ta phỏng vấn vì sợ rằng, biết đâu, đây là cơ hội cuối cùng để kể lại câu chuyện của mình.

Những chuyện kể của Avraham và của Esther đều có trong cuốn Những Chứng cứ của Những Người Sống Sót, một sưu tập gồm 96 bài tường thuật cá nhân của những thành viên trong khu kiều dân về nạn tàn sát người Do Thái. Không có những tiểu sử nhưng chỉ có những bài hồi tưởng. Ngày tháng và địa danh thường được bỏ trống hoặc nhắc đến một cách mơ hồ. Có nhiều chỗ kết bỏ lửng và nhiều câu hỏi không được trả lời. Cốt lõi của những câu chuyện là ý chí muốn sống và những tréo ngoe của định mệnh.

Avraham là một trong chín người con sống tại thành phố Janovo ở Lithuania. Tzoref là ngữ nghĩa của tiếng Hebrew trước đây của Avraham, Goldschmidt. Cha của ông trước kia là lính trong quân đội Sa hoàng, sau này là bộ đội của Hồng Quân. Gia đình ông đã phải "chia năm xẻ bảy". Cha của ông là người "mộ đạo cuồng nhiệt" và chẳng màng gì đến việc nhà. Nhưng Avraham lại quay lưng lại với Do Thái giáo để gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Komsomol, trong khi anh ông là Avshalom trở thành người của Phong trào Phục quốc Do thái và tới Palestine năm 1934.

Khi Hitler tung ra Chiến dịch Barbarossa tấn công những nước đồng minh kỳ cựu của Liên Xô mùa hè năm 1941, gia đình Avraham biết được tốc độ tiến quân của Đức nên đã trốn vào trong một hội đường ở Kovno. Nhưng các du kích Lithuania, làm theo lệnh của Đội Đặc vụ SS, chẳng mấy chốc đã tập trung họ lại cùng với hàng ngàn người Do Thái ở Pháo đài số Bảy, một phần của chiến lũy Kovno. Ngay đầu tháng Bảy, đã có từ 6.000 đến 7.000 người bị bắn chết. Trong số những nạn nhân đó có cha của Avraham. Khu ghetto đã được thành lập vào tháng sau. Quân Đức liên tiếp thực hiện những đợt lừng sục để thu gom (Aktionen), đầy ải và hạ sát người Do Thái-trong những tháng đầu khi sống trong ghetto. Sau một lần bố ráp nọ, Abraham chạy về hội đường nơi gia đình ông đang trú ngụ, để rồi thấy mẹ, anh em, họ hàng đã bị bắt. "Chết. Họ đã chết cả rồi. Chỉ còn một mình tôi đây là Avramel. Ngày hôm sau có tin đồn rằng những người đã bị bắt sẽ được trở về. Tôi bèn đi tìm một cái xoong. Tôi thu vén một số đồ ăn thừa, vỏ bánh mì. Tôi nấu một thứ gọi là súp. Đun nó sôi lên. Tôi chờ đợi: Nó nguội đi. Tôi chờ đợi. Cứ thế suốt bốn hay năm ngày, tôi vẫn cứ ngồi bên chiếc xoong súp để chờ đợi mọi người trở về. Vì khi trở về, chắc họ đói lắm..."

Vào tháng Mười có một đợt lùng sục (Aktion) khác, quân Đức vây quanh những người trẻ tuổi để đưa họ đi đầy. Một bà dì đã cứu Abraham, lúc ấy 17 tuổi, bà cho ông mặc một chiếc áo choàng dài

để ông giống như người lớn, và nhận bừa ông làm chồng của bà. Sau nàv Avraham bị đưa tới một loạt trại lao động cưỡng bức. Y phục duy nhất của ông là bộ quần áo ngủ do trại cung cấp. Không có giầy. Ông kể lại "Cuộc săn tìm từng mẩu đồ ăn. Tôi làm việc mà đôi mắt cứ dõi theo tên lính Đức, canh chừng xem lúc nào nó ăn xong, chờ đúng lúc nó ném cái gì đi mà không có tù nhân nào để ý. Thế là, như một con chó đói, tôi nhào xuống những mẩu đồ ăn thừa ấy".

Sau khi được Hồng quân giải thoát, Meir, anh của Avraham cũng sống sót, đã quay về tìm vợ và đứa con thơ mà ông đã bỏ lại trên bậc thềm của một tu viện nọ. Avraham cũng trở về nhưng khi nghe thấy rằng những người tị nạn Do Thái đang được đưa đi Siberi, ông bèn quyết định đi Palestine, nơi đây ông đã gặp Esther ở một khu kiều dân biên phòng.

Esther là một trong số ba người con trong gia đình người thợ rèn ở một làng quê Ba Lan tên là Druysk, Đông Vilna (Vilnius). Khi chiến tranh nổ ra vào tháng Chín 1939, anh của bà, đã chạy sang Liên Xô. Trong cuộc chia cắt nước Ba Lan giữa người Nga và người Đức, Hồng quân đã chiếm đóng làng của bà. Đạo quân Xô Viết rút đã để lại cảnh đồng không nhà trống, có những cuộc bạo loạn và tàn sát người Do Thái. Một số người Do Thái đứng ra thành lập các nhóm tự vệ để đánh trả. Bà Esther kể lại rằng trong cảnh hỗn độn ấy, đa phần người ta (kể cả một số người Do Thái) mong chờ người Đức đến để tái lập trật tự.

Sau cùng những người Đức chuyển những người Do Thái tới một ghetto, nhưng canh giữ lỏng lẻo và họ có thể lẻn ra ngoài để trao đổi hàng hóa lấy thức ăn. Nhiều tháng sau, gia đình bà bị chuyển tới một ghetto ở Vilna. Lần đầu tiên, họ nghe biết một người họ hàng đã trốn thoát nói đến những vụ hành quyết tập thể người Do Thái ở Ponary, gần Vilna. Esther đã kể lại trong chứng từ đã được xuất bản của bà, "Diệt chủng, nghĩa là gì? Chúng tôi nghĩ bà ấy đã mất trí".

Gia đình Esther đã bị đưa đi từ trại cưỡng bức lao động này đến trại cưỡng bức lao động khác ở Estonia. Cho đến lúc đó Esther mới khoảng 15 tuổi mà cao đủ để được công nhận là người lớn, nên đã thoát khỏi cảnh cưỡng ép chia lìa giữa cha mẹ và con cái. Một ngày kia, họ đã nghe những tiếng gào thét từ khu lều trẻ em và thấy người Đức đang chất đầy trẻ em lên những chiếc xe tải và đem chúng đi. Trong số đó có Miriam, em gái lên sáu tuổi của Esther. Sau này con bé đã tìm cách nhắn gởi vài chữ về qua một trong số những nam công nhân. Mẩu giấy nhắn tin ấy đã được một người bạn viết hộ. "Mẹ yêu, mẹ đừng lo. Con tự tắm giặt và con biết gội đầu. Mẹ ơi, con vẫn khoẻ..."

Vì được phân loại là người lớn, Esther đã phải làm việc như một người lớn, đập đá bằng một cái cuốc chim. Bà hồi tưởng những túp lều lạnh lẽo, quần áo rách bươm, và nhất là những khẩu phần ăn khốn khổ. Người ta thấy cha mẹ bà không còn làm việc được nữa, liền bị dẫn ra ngoài trại. Esther đã nghe những tiếng súng nổ và biết rằng cha mẹ mình đã bị sát hại. "Trong lồng ngực tôi, có cái gì đó như ngừng lại. Mọi cảnh vật mờ đi.. Mọi thứ đã mất đi trong cái cảm giác tê liệt chụp xuống trên người tôi."

Khi Hồng quân tiến về phía Đông, Esther lại bị đưa về phía Tây, tới trại tập trung Stutthof gần Danzig, nơi đây tù nhân bị lột truồng để điểm danh và phải đứng cạnh hàng đống người chết và người đang hấp hối. Bà nằm trong nhóm phụ nữ đã phải dùng những tách cà phê hiếm hoi của mình để rửa ráy. "Trong cuộc đấu tranh_sinh tồn cay đắng ấy" bà kể lại, "các tù nhân đã mất hết nhân tính... ăn cắp của nhau, đã phải dùng đến những trò lừa đảo để đảm bảo rằng một ai khác, chứ không phải chính mình, sẽ bị chọn" để ra đi.

Bà lại bị bắt lên đường, cuốc bộ về trung tâm nước Đức. Chỉ với một lát bánh mì mỏng để ăn cho mỗi ba ngày với một chút ít tuyết làm nước uống, Esther đã gục ngã. Bà đã bị bỏ lại trong một chuồng heo của một làng quê Đức cùng với 23 phụ nữ khác. Cuối cùng khi nhận ra người Đức đã bỏ đi, những người khỏe mạnh nhất đã bò ra ngoài để tìm những mẩu thức ăn từ những đống rác.

Những người lính Hồng quân đột ngột xuất hiện và lúc đó họ nghĩ những phụ nữ này đã chết. "Nhưng khi nhận ra được những gì đang thấy, họ đã bật khóc. Những người lính đứng vây quanh chúng tôi mà khóc. Một cái gì đó mà tôi nghĩ là đã quên lâu lắm rồi nay trào dâng lên trong tôi, và tôi oà khóc. [...] Một trong những phụ nữ loạng choạng đôi chân, tiến đến bên người lính Hồng quân mà ôm chầm lấy anh ta. Bà ta nhấc cao đôi tay của anh ta lên và hôn. Bà ta bám lấy người lính ấy, đeo cứng lấy anh ta. Rồi bà ta ngừng cử động. Bà ta đã chết trong lúc đang vòng tay qua cổ người lính. Hôm ấy là ngày 15 tháng Ba 1945. Tôi vẫn chưa đầy 17 tuổi".

Esther đã quyết định bỏ lại quá khứ sau lưng, bắt đầu lại từ đầu ở đất Palestine này để "xây dựng một cái gì đó mới mẻ". Trước khi di cư khỏi châu Âu, bà đã cấu kết với thành phần cốt cán của một khu kiều dân tương lai. Các thành viên hát những bài ca tiên phong, nhẩy múa và học tiếng Hebrew.

Còn Avraham, ông đồng ý vào khu kiều dân biên phòng vì cảm thấy "mình đã già rồi, đã mệt mỏi vì cuộc sống". Suốt 7 tháng ngồi trong trại tù của người Anh ở Thổ Nhĩ Kỳ vì tội di dân bất hợp pháp, Avraham đã suy nghĩ nhiều là ông sẽ phải kể lại cho họ hàng của ông ở Palestine câu chuyện của gia đình ông đã bị người Đức sát hại thế nào ở Lithuania.

Ông đã đến Palestine vào mùa hè năm 1947, vào cái tuổi 20, và đã đến ở với người anh là Avshalom, người đã tới đây từ hồi trước chiến tranh và sống tại Khu kiều dân Ginossar. Hai tháng trời trôi qua, nhưng người anh chẳng hề hỏi han gì về gia đình. Có lúc Avraham đã cảm thấy rằng đó chính là điều tồi tệ nhất đã xảy đến với ông. Ông kể lại: "Lúc đó anh tôi bận rộn quá. Anh ấy đã có gia đình. Tôi cứ chờ có lúc nào anh em ngồi lại với nhau để cùng khóc cho gia đình. Nhưng tôi đã không có cơ hội nào để kể lại câu chuyện mà tôi muốn kể".

Avraham đã có những buổi nói chuyện về nạn tàn sát người Do Thái với những nhóm người Israel khác, như lính tráng và giáo viên. Ông chỉ kể lại những biến cố chung chung, chứ không kể lại những kinh nghiệm riêng tư. Một lần kia, một người lính hỏi ông tại sao người Do Thái đã không chiến đấu chống lại, rồi đứng dậy, bỏ ra khỏi phòng. Một lần khác, một giáo viên lên tiếng hỏi tại sao ông lại chịu đựng sự sỉ nhục đến thế, tại sao không gieo mình vào hàng rào để tự sát? Avraham nói: "Tôi trả lời cô ấy rằng một cậu con trai 17 tuổi rất muốn sống. Tôi đã muốn sống nên mới có thể đến được đây mà kể với cô những gì đã xảy ra".

Nạn tàn sát người Do Thái là một tổn thương tập thể của người Do Thái, nhưng qua năm tháng, những câu chuyện đớn đau riêng tư chỉ được người ta thì thào kể lại. Cả một tập thể Israel đã bị ám ảnh với chủ nghĩa anh hùng và chỉ muốn nghe nói đến những thành tích khai phá của những người lính và những người tiên phong lập quốc. Ít người muốn biết về những yếu hèn của những người Do Thái bị dẫn đi "như những con chiên bị đem đi làm thịt". Nhiều người Israel sinh tại quê nhà đã khẳng định rằng những người sống sót đã sống được là nhờ hối lộ hoặc nhẫn tâm. Tzvika Dror, người đã thu thập những bài phỏng vấn những người sống sót tại Khu kiều dân Lahamei ha-Getaot, đã phải choáng váng khi một nguyên thủ tướng nói với ông: "Này Tzvika, tất cả những kẻ sống sót đều là bọn cộng tác viên".

Những cuốn tự truyện của những khuôn mặt tiêu biểu sinh trưởng ở Israel như Yitzhak Rabin và Moshe Dayan đều chỉ nhắc đến nạn tàn sát người Do Thái rất vắn tắt. Shoah không mấy liên hệ với cuộc sống thường nhật của họ. Nó chỉ là một phần cuộc sống trong đám kiều dân tha hương luôn bị những người tiên phong coi thường, khinh miệt.

Những người Do Thái nào đã cùng dân quân chiến đấu hay đã tham gia vào những cuộc nổi dậy như vụ Nổi dậy ở Ghetto Warsaw, thì lại được đón nhận vì những người này phù hợp với lý tưởng của người Do Thái chiến đấu. Đã có một cảm nhận trong vùng Yishuv trước thời lập quốc và sau này ở Israel cho rằng những người Do Thái ở châu Âu phải chịu nhiều đau khổ vì họ thiếu hào khí của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái; nếu như họ đến Palestine sớm hơn, có lẽ họ đã không phải gánh chịu cái ách của bọn Đức Quốc xã. Ben-Gurion phàn nàn rằng những "người Do Thái này đã không chịu nghe lời chúng tôi" và cái chết của họ có nguy cơ phá hỏng những giấc mơ của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái vì đã từ chối không đóng góp cho Yishuv nguồn nhân vật lực cần thiết để xây dựng một quốc gia. Yitzhak Gruenbaum, một gương mặt nổi bật của cộng đồng người Do Thái Ba Lan trong phong trào Yishuv, đã than phiền rằng: "Vấn đề mà người Do Thái vướng phải trong thời tha hương chính là họ đã chọn cuộc sống của một con chó bị đánh đập cho đến chết trong danh dự".

Người ta đã coi những người sống sót như là đồ thừa thãi của nhân loại, thường là vô đạo lý và không sẵn lòng thừa nhận những nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Giữa bao nhiêu tội vạ khác thì cái tội đã sống sót trong khi họ hàng thân thuộc của họ đã chết lại là mặc cảm tội lỗi của những người Israel chính gốc soi rọi lên thất bại của họ cho rằng họ đã không hành động nhiều hơn để cứu những người anh em của họ ở châu Âu. Vì không thể giải quyết được chuyện trách cứ và xoa dịu gánh nặng của nỗi đau, đa số người Israel đã ngầm thỏa thuận là không nói quá nhiều đến những người sống sót.

Những thái độ như thế phải mất nhiều thập niên mới thay đổi. Khuynh hướng đạo đức của nhóm người tiên phong và sự tan rã của những xác tín chính trị xưa cũ đã cho phép người ta duyệt xét lại những thái độ đối với vấn đề tàn sát người Do Thái phù hợp với tâm trạng nhìn lại quá khứ của người Israel nói chung. Dần dà người Israel đã tìm lại mốì quan tâm về thời kỳ tha hương. Con cái của những người sống sót bắt đầu hỏi han nhiều chuyện, chính bản thân những người sống sót cũng cảm thấy thời gian đang trôi đi. Những cuốn sách viết bằng tiếng Hebrew đã được xuất bản trong mươi năm qua có nhắc đến Shoah nhiều hơn bất kỳ đề tài nào khác. Ngày càng nhiều tiết học được dành để học hỏi về Giải pháp Cuối cùng, và hàng năm có đến hàng chục ngàn thanh thiếu niên tới Ba Lan để tham quan những trại tử thần và tìm kiếm gốc gác gia đình của họ. Ngày càng có nhiều học sinh tốt nghiệp viết bài thi lịch sử của mình về nạn tàn sát người Do Thái hơn bất kỳ đề tài nào khác.

Người ta đổ xô đi ghi lại những chứng cứ của những người sống sót cuối cùng. Có người mà nay là nguồn thông tin duy nhất về số phận của toàn bộ các cộng đồng Do Thái. Yad Vashem, Đài Tưởng niệm Nạn Tàn sát người Do Thái ở Jerusalem, đã lên kế hoạch lập ra một danh sách hết sức đầy đủ những nạn nhân của nạn tàn sát, bằng cách dùng điện toán để nhận dạng và kiểm tra chéo tên tuổi trong các dữ liệu. Hy vọng rằng sau này nó là nguồn 'cơ sở dữ liệu' của chừng 5 triệu danh tính được ghi lại như là "những tâm bia mộ trong lòng người".

Nạn tàn sát người Do Thái cũng được các sử gia Israel gần đây xếp vào thời "hậu-Phục quốc". Tom Segev, một sử gia nổi tiếng và là người phụ trách chuyên mục của báo Ha'aretz, trong cuốn sách của ông viết về Israel và Nạn Tàn sát người Do Thái có tựa là Triệu Thứ Bảy, đã mô tả toàn bộ bầu khí chung của tình trạng không có quyền lực, tâm trạng mâu thuẫn và nhiều khi là thái độ dửng dưng nơi người Do Thái sống ở Palestine khi xảy ra biến cố ấy.

Ông đã ghi nhận rằng, báo chí Do Thái ở Palestine bấy giờ đã xếp những bài tường thuật về người Do Thái bị thảm sát vào hàng thứ yếu so với những bài mô tả diễn tiến của chiến tranh. Ví dụ, vào ngày 13 tháng Giêng 1942, tờ báo đã đăng câu chuyện về những hành động tàn bạo của Đức Quốc xã bên dưới một bài tường thuật về "Đại thắng Bóng Đá" của một đội bóng Do Thái ở Damacus. Segev viết: "Từ quan điểm nghề nghiệp, báo chí đã bỏ qua một trong những-câu chuyện lớn nhất của thế kỷ".

Ben-Gurion đã nói rằng chính sách của Hitler "đặt toàn thể dân tộc Do Thái vào hiểm họa" nhưng ông cũng nhận ra một cơ hội lịch sử: Đức Quốc xã đem lại "sức mạnh sáng tạo" cho chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Hãng thông tấn Do Thái đã thương lượng một dàn xếp tỉ mỉ với Đức Quốc xã để cho phép người Do Thái di cư khỏi nước Đức đến Palestine được đem theo ít nhất một phần tài sản của họ. Hiệp ước haavara (chuyển giao), như đã quen gọi thế, đã có thể cứu sống nhiều mạng người nhưng chuyện bất thành do người Do Thái ở Mỹ tuyên bố tẩy chay Đức Quốc xã. Ben-Gurion đã bãi nhiệm những người muốn tẩy chay Hitler, gọi họ là những người Do Thái bị đồng hóa, chỉ muốn sống mãi cái cảnh tha hương; vấn đề ưu tiên là phải cứu những người Do Thái ở Đức và tải sản của họ về cho Zion.

Segev lưu ý rằng sau vụ Kristallnatch năm 1938-khi những đám vô lại người Đức phá hủy nhà cửa, tiệm buôn và hội đường của người Do Thái-Ben-Gurion đã sợ rằng các quốc gia khác sẽ mở cửa cho những người tị nạn Đức và chuyển hướng những người di cư khỏi chương trình của phong trào Phục quốc. Những người đến được Palestine thường bị coi là quá già, quá thị thành, là những thị dân thuộc giai cấp trung lưu, không dùng được vào việc gì để xây dựng đất nước. "Phong trào Phục quốc của Hitler" là "chất con người" sai lầm. Hãng thông tấn Do Thái đã cố gắng tuyển chọn những di dân tốt nhất và theo một quan điểm nào đó thì họ cố hạn chế những di dân dưới tuổi 35 và yêu cầu những người này phải ký vào tờ cam kết viết tay là sẵn sàng làm việc ở vùng đất mới.

Phản ứng “nước đôi” của Yishuv đối với Đức Quốc xã đã được minh họa bằng cuộc viếng thăm Palestine vào năm 1933 của một phóng viên của tờ Der Angiff, một tờ báo của Joseph Goebbel. Theo Sergev, phóng viên ấy, đã được những nhà lãnh đạo Do Thái mời đến, sau đó đã thực hiện một loạt bài báo nói về phong trào Phục quốc Do Thái. Với tựa đề "Một Đảng viên Quốc xã Viếng thăm Palestine" loạt báo ấy đã dành rất nhiều tình cảm đối với phong trào Phục quốc Do Thái. Để cho người ta thấy đây là biến cố rất quan trọng, tờ Der Angriff đã tung ra một loại huy chương kỷ niệm đặc biệt có hình chữ vạn ở một bên và ngôi sao David ờ bên kia.

Sabon-"xà bông"-đã trở thành danh xưng xúc xiểm nhiều người Israel thường dùng để gọi những người sống sót của nạn tàn sát. Từ ngữ này phát xuất từ niềm tin cho rằng bọn Đức Quốc xã đã chế tạo xà bông từ thi thể những người Israel vì nạn khan hiếm chất béo công nghiệp, chỉ trong một từ, nó gói ghém tất cả thái

độ khinh miệt mà những người Israel bản xứ dành cho những người Do Thái đã không sống theo lý tưởng anh hùng.

Câu chuyện xà bông đã không phát xuất từ những người Israel bản xứ, nhưng từ chính những người sống sót trở về. Lính gác người Đức thường mắng nhiếc những người Do Thái kèm theo những lời đe dọa sẽ nấu họ thành xà bông. Những mẫu tự RIF được in trên các bánh, xà bông đã bị mọi người hiểu lầm là chữ viết tắt trong tiếng Đức Rein Judishches Fett, nghĩa là "Mỡ Tinh chất của người Do Thái". Thực ra những mẫu tự ấy viết tắt cho Reichsstelle fur Industrielle Fettversorgung, nghĩa là "Trung tâm Quốc gia Cung cấp Chất Béo". Những câu chuyện đùa rùng rợn trong trại có cả chuyện một người Do Thái nọ đã nốc cạn một chai nước hoa vì anh ta muốn trở thành xà bông tắm loại thơm.

Câu chuyện xà bông ấy được kể đi kể lại cho đến lúc trở thành một sự kiện được người người chấp nhận. Nó đi vào cả văn chương, giáo khoa và những bài diễn thuyết của Hội đồng Lập hiến Israel. "Trên chiếc kệ đựng hàng hóa kia, được gói ghém trong giấy màu vàng có in hình những cây ôliu ấy, là cả gia đình Rabinowitz đang an nghỉ" Yoram Kaniuk đã viết như thế trong cuôn tiểu thuyết của ông, cuốn Con người, Đồ Chó Đẻ. Những cục xà bông RIF ấy, có người mua được ở Ba Lan với giá thật cao, cũng tìm đường về tới Israel,

đã trở nên mục tiêu tranh cãi gay gắt. Có người định đem tặng chúng cho các viện bảo tàng. Những người khác đem chúng đi tống táng và xin các giáo sĩ đọc lời than khóc để tang cho chúng. Mới đây thôi, năm 1995, một nhà đấu giá đem bán một cục xà bông được cho là làm từ mỡ người, với giá khởi điểm là 300 mỹ kim, nhưng sau đó đã phải rút lại khi bị công chúng la ó.

Những nhà nghiên cứu Israel đã nhận định rằng câu chuyện về RIF chỉ là một huyền thoại. Họ thừa nhận là bọn Đức Quốc xã có thí nghiệm làm xà bông từ mỡ người ở Danzig, nhưng đã không thành công trong việc chuyển kế hoạch ấy thành sản xuất công nghiệp. Yehuda Bauer, một trong những học giả nổi tiếng nhất về nạn tàn sát người Do Thái, trong một lá thư gửi cho tờ Jerusalem Post năm 1990, đã viết rằng "Những gì bọn Đức Quốc xã đã làm cũng đủ khủng khiếp lắm rồi, chúng ta không cần tin thêm “những mắm muôi kinh hãi” mà chúng đã nghĩ đến nhưng chẳng có thời giờ để thực hiện. Những người bác bỏ sự kiện nạn tàn sát người Do Thái đang chờ chực từ tứ phía, hăm hở bới lông tìm vết, hòng lượm lặt được những sai lầm mà chúng ta có thể vô tình vấp phải, chúng ta không nên bôi trơn công việc của họ".

Sara Shner-Neshamit, một nhà nghiên cứu ở Khu kiều dân Lohami ha-Getaot, không bao giờ để cho người ta chĩa mũi dùi công kích mình. Nguyên là một dân quân kháng chiến chống bọn Đức Quốc xã, bà bảo rằng mình nhận được nhiều kính trọng ở Israel hơn những người bình thường sống sót trở về.

Sinh ra ở Ba Lan, Shner-Neshamit được theo học tại một ngôi trường Công giáo ở Lithuania, ghi danh học Y khoa ở Kovno nhưng rồi chuyển sang môn La ngữ. Bà chuẩn bị di cư qua Israel bằng cách học ngành tâm lý giáo dục ở Vilna, nhưng rồi chiến tranh đã nổ ra trước khi bà có thể đi Palestine. Bà đã lang thang từ ghetto này sang ghetto khác và rồi bị đưa vào trại lao động cưỡng bức.

Khi người Đức quyết định "xóa sổ" khu trại của bà, bà đã tìm cách thoát nạn cùng với 50 tù nhân khác bằng cách trốn dưới những tấm ván sàn của một bệnh xá là nơi bà làm y tá. Họ tiếp tục trốn suốt hai ngày trong khi bọn Đức lùng sục những kẻ đào tẩu. "Hôm ấy có một sản phụ sắp sinh. Tôi đã giúp bà ấy sinh con trong bệnh xá. Đứa bé bắt đầu khóc ở nơi chúng tôi trốn. Đây là vấn đề sinh tử cho cả 50 con người. Người mẹ đã phải làm cho con mình chết ngạt bằng một cái gối. Rồi chị ta thảy cái xác của đứa bé lên đầu gối tôi. Cho đến nay tôi vẫn chẳng hiểu vì sao lúc đó tôi rất thản nhiên".

Cả nhóm chúng tôi đã chui ra sau khi bọn Đức đã bỏ đi. Shner-Neshamit đã đi tìm đám dân quân và làm y tá cho họ. Sau nhiều lần cọ xát với cái chết, bà đã tình nguyện gia nhập Hồng quân đang trên đường tiến ra mặt trận mùa hè 1944, nhưng rồi lại đổi ý. Vị thiếu tá trong Hồng quân đã thuyết phục tôi rằng tôi đã làm đủ rồi. Ông ấy bảo với tôi một điều mà tôi không bao giờ quên: “Nhân dân của bà phần lớn đã bị sát hại. Còn lại rất ít người như bà. Bà phải sống để trở thành nhân chứng, và nói cho mọi người biết những gì bọn Đức Quốc xã đã làm. Tôi đã quyết định trở nên một nhân chứng”.

Bây giờ, đã 85 tuổi, và với tám quyển sách mang tên bà-những tác phẩm về lịch sử, tiểu thuyết và một cuốn dành cho trẻ em, bà tiếp tục công việc ghi lại quá khứ và khắc sâu ký ức về nạn tàn sát người Do Thái. Khi tôi gặp bà là lúc bà đang viết một cuốn sách về vấn đề xà bông, cuốn Chẳng có Bình an, ngay cả cho Người Chết, được xuất bản năm 1998. Trong cuốn sách đó, bà khảo sát những hoạt động của cái phòng thí nghiệm khủng khiếp ấy ở Danzig nơi bắt đầu chế tạo xà bông từ mỡ người.

Phòng thí nghiệm ấy đã giả danh là một nơi nghiên cứu giải phẫu học, do Rudolf Spanner, giáo sư môn giải phẫu học của Học viện Y khoa Danzig, điều hành. Trước khi Hồng quân tiến vào, quân Đức trên đường rút lui đã cố gắng đốt cháy cơ sở này 3 lần nhưng đều không thành công. Các nhà điều tra Ba Lan sau này đã phát hiện những nồi nấu xác người, những nồi cao áp để hầm xương, hàng đống đầu lâu, một cái lò dùng để loại bỏ những phần dư thừa của cơ thể, một số lượng lớn chất sút và chừng 20kg xà bông thành phẩm. Xác người thường lấy từ nhà tù Danzig, nơi tù nhân bị lên máy chém, và từ trại tập trung Stutthof.

Shner-Neshamit đã nhận được một cuốn sách nhỏ từ tay những nhà điều tra người Ba Lan ngay từ năm 1957, nhưng mối hoài nghi những người sống sót nơi người Israel còn cao đến nỗi bà đã bỏ những tư liệu ấy qua một bên cho mãi tới thời gian gần đây. "Tại sao tôi đã viết một cuốn sách về xà bông?" Bà đã lên giọng hùng biện. Rồi nhìn trừng trừng, bà nói một cách thận trọng. "Vì những người chống-Semite và phân biệt chủng tộc phải biết rằng Đức Quốc Xã đã không làm xà bông từ mỡ người Do Thái. Người Do Thái làm gì có đủ chất béo cho họ chế tạo xà bông. Họ đã làm xà bông từ thi thể của người Đức bị chết trong chương trình nghiên cứu về “cái chết êm dịu”. Họ cũng sử dụng cả người Nga và người Ba Lan. Đó là một bài học về thực chất của bọn Đức Quôc xã. Bài học cho những kẻ phân biệt chủng-tộc chính là nếu sau này có một chế độ Quốc xã khác, thì chuyện này cũng sẽ xảy ra cho chính gia đình họ.

Mỗi năm vào lúc 10 giờ ngày 27 tháng Nisan (tháng Tư-tháng Năm Dương lịch), còi hụ phòng không rền rĩ suốt 2 phút trên khắp đất nước Israel. Người Do Thái ngừng làm bất cứ công việc gì. Các bác tài ngừng xe, ngay cả trên những xa lộ đông đúc nhất. Mọi người đứng yên lặng thành kính. Đó là một hành vi đơn giản nhưng mạnh mẽ để tưởng nhớ những nạn nhân của Giải pháp Cuối cùng của Hitler. Nhìn cảnh tượng cả một đường phố đông đúc đột nhiên ngừng lại làm cho người ta cảm thấy như là nỗi buồn tập thể của người Do Thái đã làm cho chính thời gian đông cứng lại.

Đã đến lúc tôn vinh những người sống sót nay đang vắng dần đi. Cũng là lúc làm cho nhiều người lo âu: những thước phim truyền hình vô tận, những bài báo và những bài hát về nạn tàn sát người Do Thái nay kéo trở lại vết thương mà nhiều người vẫn không kham nổi. Vào ngày này, những người tình nguyện đã thiết lập những đường dây nóng khẩn cấp để cung cấp những hỗ trợ tâm lý cho những nạn nhân và gia đình của họ. Số người gọi tới có đến hàng trăm.

Những nghi thức tưởng niệm chính thức của quốc gia, thắp đuốc, đặt vòng hoa và đọc diễn văn chính là lúc để cho những nhà lãnh đạo nhắc lại bài học Shoah: người Do Thái đã chịu thảm cảnh độc nhất vô nhị ấy, bị thảm sát ở châu Âu chỉ vì họ không có quê hương, và việc tạo lập quốc gia Israel chính là câu trả lời cho vấn đề tàn sát người Do Thái, là cách báo thù tốt nhất. Cả thế giới đã đứng một bên và không làm gì để cứu người Do Thái trong những giờ phút đen tối; những người tị nạn Do Thái chỉ thấy những cánh cửa đóng kín ở khắp nơi, đặc biệt là người Anh đã không cho phép họ vào đất Palestine. Quân Đồng minh, dù có biết đến những trại tử thần, đã không ném bom những đường hỏa xa dẫn đến Auschwitz. Israel không còn có thể dựa vào ai khác ngoài chính mình, và nó phải tồn tại, phải duy trì sức mạnh của nó.

Không có ai tranh luận về những giáo điều chủ yếu này của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Nạn tàn sát người Do Thái chỉ là vấn đề duy nhất mà những phe phái chủ chiến của Israel có thể ngồi lại với nhau mà không có,hoặc có ít hiềm khích với nhau, có lẽ trừ trường hợp của những người Do Thái Chính thống cực đoan không chịu thừa nhận vai trò quốc gia và những nghi thức tưởng niệm của quốc gia. Nghi thức ở Yad Vashem vào ngày này năm 1999 là một ví dụ điển hình. Bắt đầu bằng việc thắp lên 6 cây nến, mỗi cây tượng trưng cho một triệu nạn nhân, được cử hành bởi một nhóm gồm có Dov Shilansky, nguyên là Phát ngôn viên của Hội đồng Lập hiến Israel, và Zerach Wahrhaftig, một trong những người cuối cùng còn sống mà trước đây đã đặt bút ký bản Tuyên ngôn Độc lập của Israel.

Những người tham dự nghi lễ lần lượt đọc to tên của những người quá cố: vừa là họ hàng vừa là thành viên của những cộng đồng Do Thái ở châu Âu. Phó phát ngôn viên Shevach Weiss, một thành viên của đảng Lao Động và bản thân ông cũng là người sống sót, người đầu tiên xướng danh những người đã chết của gia đình ông. Ông đã phải nói "Châu Âu là cả một chiếc hồ đọng đầy máu người Do Thái". Thủ tướng Binyamin Netanyahu thuộc đảng Likud, cùng với vợ mình, bà Sara, tham dự nghi thức, đã đọc to tên của những người bị sát hại thuộc họ hàng của bố vợ, Shmuel Ben-Artzi. Ông này là người duy nhất trong gia đình còn sống sót.

Nguyên Thủ Tướng, Yitzhak Shamir, đã xướng danh cha mẹ cùng hai em gái của mình, tất cả đều bị sát hại ở Ba Lan. Bộ trưởng Tư pháp Tzachi Hanegbi đã nói rằng ông đã được đặt tên theo tên của ông nội mình là Yitzhak Strausberg, đã bị sát hại ở Ba Lan.

Lãnh đạo đảng Meretz cánh tả, Yossi Sarid, đã giải thích lý do cách mà cha mình, ông Yaakov Schneider, lại là người duy nhất trong gia đình thoát chết. Ông quyết định đổi tên mình thành Sarid, theo tiếng Hebrew có nghĩa là "cái sót lại".

Suốt ngày kỷ niệm này, những thường dân Israel đọc tên của người quá cố như cách thắp lên một nén hương lòng, dựng lên một thứ bia mộ sống. Một năm nọ, tại Ydad Vashem, tôi đã chứng kiến nhiều gia đình chan hòa nước mắt khi nhắc lại số phận của thân nhân, họ hàng. Một người lính Israel, súng trường khoác trên vai, đã nói vài lời bằng tiếng Hebrew: "Tên tôi là Itamar Alexander Scheffer. Tôi được đặt tên theo ông nội của tôi, Alexander Scheffer, đã chết vì ngày đó ông đã không thể tự bảo vệ mình. Nay tôi có thể tự bảo vệ mình", Miệng anh lính run lên rồi anh ta quay bước đi.

Những tờ báo Israel thường xuyên đăng tải những câu chuyện anh chị em tìm gặp lại nhau một cách kỳ diệu sau hơn nửa thế kỷ xa cách. Vào thập niên 1950, đã có một quãng thời gian 10 phút trên đài phát thanh trước phần Tin tức 1:30 đã được dành riêng để cho các gia đình tìm kiếm thân nhân ở khắp nơi. Tác giả Ammon Dankner đã kể lại cha mẹ và bạn bè của ông thường sa sầm nét mặt mỗi khi tiết mục Ha-Mador le-Hipus Krovim "Mục Tìm kiếm Thân nhân" đang được truyền đi. Đó là những giây phút của thất vọng, chỉ có một ít trường hợp mới nhận được “cái kết có hậu”.

Khát vọng thế chỗ của những người đã khuất trở nên một sức thôi thúc mạnh mẽ khiến nhiều gia đình muốn có nhiều con cái hơn. Tôi biết có một người Do Thái nọ đã quyết định sinh con thứ ba-được gọi là "thêm một đứa nữa cho Tổ quốc"-để đảm bảo luôn có nhiều con cái hơn bố mẹ. Những gia đình đạo đức thường muốn có 6 đứa con- mỗi đứa thay cho một triệu người bị sát hại.

Yad Vashem nay là nghĩa trang quốc gia của Israel. Những bậc thượng khách ngoại quốc thường được đưa đến đây để đặt vòng hoa, y như họ vẫn làm để tôn kính những tử sĩ ở các quốc gia khác. Những người lính Israel cũng thường đến đây như là một phần tập huấn căn bản trong thời kỳ quân dịch.

Việc phát triển vũ khí hạt nhân đã là một phần quyết định của Israel để không cho một cảnh tàn sát nào khác tái diễn, hay là ít nhất có thể làm cho những kẻ thù của họ đừng nghĩ tới chuyện đó nữa. Nhưng bằng nhiều cách, người Do Thái ngày nay phải giáp mặt với nhiều hiểm nguy trong nước-nào là khủng bố, chiến tranh và mối đe dọa của những vũ khí phi-quy ước của người Ả Rập-hơn là ở phần còn lại của thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia phương tây là những nước lâu nay luôn nhạy cảm với thời kỳ chống lại phong trào chống-Semite sau khi đã chứng kiến những khủng khiếp của nạn tàn sát người Do Thái.

Ngày kỷ niệm cũng là dịp Đại học Tel Aviv phát hành báo cáo thường niên về những xu hướng của phong trào chống- Semite trên thế giới. Một số đông người Do Thái tin rằng con quái vật hận thù người Do Thái này đang chui rúc dưới bề mặt của lương dân trên thế giới, luôn chờ đợi ngóc đầu dậy ngay khi gặp cơ hội. Xác tín này được củng cố trước hiện tượng phong trào chống-Semite tái xuất hiện ở các nước Đông Âu sau khi chủ nghĩa Cộng sản cáo chung ở đây. Năm 1999, các nhà nghiên cứu Tel Aviv tỏ ra quan tâm đặc biệt đến những biến cố ở Nga mà họ bảo là "đã chứng tỏ có bạo lực chống lại sinh mạng và tài sản người Do Thái bằng cách đốt nhà và gài chất nổ kèm theo sự kích động quần chúng và bằng phương pháp hùng biện chống-Semite nặng nề nhất, nơi các chính trị gia ra rả suốt nhiều thập niên".

Người Israel có mối quan hệ phức tạp với thế giới chung quanh và người Do Thái hải ngoại. Cả phong trào chống-Semite và sự thiếu quan hệ đã được mọi người nhận ra là những mối đe dọa đối với người Do Thái đang sống bên ngoài đất nước. Phong trào chống-Semite đồng nghĩa với nguy hiểm thể lý và biện minh cho nhu cầu tạo lập một quốc gia Do Thái. Đàng khác, sự hội nhập của người Do Thái đem lại nguy cơ "hủy hoại tinh thần" qua việc đồng hóa. Ở Mỹ, một quốc gia được tiếng là đón nhận người Do Thái nhiều nhất, mức độ hôn nhân dị chủng cao hơn 50 phần trăm, mà chỉ có một phần nhỏ những cặp vợ chồng ấy giáo dục con cái mình như những người Do Thái. Tình trạng hòa nhập dần dần này làm tan biến cộng đồng Do Thái hải ngoại ở các quốc gia phương tây thường được coi như là "kiểu tàn sát thầm lặng" hay "nạn tàn sát thứ hai".

Năm 1998, khi công trình nghiên cứu của Đại học Tel Aviv khám phá ra rằng mức tổng thể của những vụ việc do phong trào chống-Semite trên thế giới đã giảm bớt sau ba năm hoạt động, Avi Becker, giám đốc điều hành văn phòng Hội đồng Do Thái Thế giới ở Israel, đã tuyên bố rằng "tình thế này có lợi cho người Do Thái nhưng bất lợi cho Do Thái giáo. [...] Ngày nay thách đố thực sự cần vượt qua là làm thế nào để duy trì Do Thái giáo theo ý nghĩa tích cực, và thực sự không phải là đồng hóa và biến mất mà không có sự đe dọa thể lý của phong trào chống-Semite". Trước đây hơn một thế kỷ, Herzl đã nói ngắn gọn hơn khi nhận xét rằng "chỉ có phong trào chống-Sernite mới đánh bật người Do Thái ra khỏi chúng ta".

Israel thấy mình không chỉ là một nơi trú ẩn cho những người Do Thái bị bách hại, mà còn là một không gian đủ chứa một 'khối lượng giới hạn' những người Do Thái (bị cách ly bằng những hạn chế hôn nhân dị chủng) hòng ngăn chặn sự đồng hóa. Nơi đâu mà một khi cộng đồng Do Thái hải ngoại cung ứng đầy đủ những hỗ trợ vật chất cần thiết cho công cuộc lập quốc, thì ấy là lúc Israel tin rằng chính mình cũng cung cấp đầy đủ những nâng đỡ tinh thần cho những người Do Thái hải ngoại bằng cách đưa ra cho họ một mẫu xã hội hiện đại vận hành theo nhịp sống của người Do Thái có ngày Sabbath và một bộ lịch những ngày đại lễ Do Thái giáo. Theo nền tảng ý thức hệ của mình, Israel phủ nhận tình trạng ly hương. Những người Israel ngày nay có một cái nhìn lành mạnh hơn về những người anh em đã quyết định ở lại nước ngoài. Những yeridah hay "hậu duệ" của người Do Thái di cư tới Mỹ và bất kỳ nơi nào khác ngày nay hầu như không còn bị người ta “lời ra tiếng vào” nữa.

Tuy nhiên, vẫn còn đấy một mâu thuẫn chưa giải quyết được đối với tương lai của Kiều dân Do Thái. Nội bộ của thế giới người Do Thái hình như lại kình chống nhau. Một bên tìm cách bảo tồn những cộng đồng Do Thái đang gặp hiểm nguy, bị cô lập ở những xó xỉnh xa xôi nhất trên thế giới (ví dụ, mỗi năm vào Lễ Vượt qua, loại bánh mì matzah được chuyên chở bằng đường hàng không tới những nhóm nghèo khó cần giúp đỡ). Một bên lại tìm cách đánh bật người Do Thái ra khỏi chốn cũ bằng cách khuyến khích họ trở về Israel. Những cộng đồng Do Thái xa xưa nay trên đà biến mất vì đã di cư về Israel thì người ta lại bảo là họ đã "được cứu thoát". Cách đây vài năm, tôi đã ngỡ ngàng trước tình cảm oán giận của những người còn sót lại của cộng đồng Do Thái xa xưa ở Damacus trong khi họ đang phải đấu tranh để duy trì bản sắc của họ. Đa số thành viên của cộng đồng, kể cả các giáo sĩ, trước đây đã di cư tới Israel cả rồi, nên đã có lúc cộng đồng phải mời một giáo sĩ từ Thổ nhĩ Kỳ về để cử hành nghi lễ sát tế và các nghi thức khác.

Thật là thú vị, Herzl đã nghĩ rằng việc đồng hóa không phải là một chuyện phải “ghét cay ghét đắng” như thế. Mà là còn hơn thế nữa. Ý tưởng ban đầu của ông là, để giảm thiểu phong trào chống-Semite, người ta nên giảm bớt số người Do Thái cải đạo tập thể và hôn nhân khác đạo. Vào năm 1893, ông đã đề nghị đi đến tận Rome để yết kiến Giáo hoàng mang theo chương trình của ông về hoạt cảnh lịch sử vĩ đại của cư dân thành Vienna. Đúng giờ ngọ ngày Chủ nhật, người Do Thái sẽ đi kiệu đến Vương cung Thánh đường Stephen và chịu trở lại đạo cùng với cô dâu. Có lẽ Herzl vẫn còn là một trong những người Do Thái ở Áo luôn rao giảng việc cải đạo.

Ba năm sau, khi xuất bản cuốn Nhà Nước Do Thái-đại ý kêu gọi giảm số người Do Thái bằng giải pháp di dân hơn là giải pháp cải đạo-Herzl vẫn duy trì quan điểm cho rằng việc đồng hóa cũng "không đến nỗi nhục" ông chỉ chống chế rằng việc đó là không thể được vì phong trào chống-Semite. "Lẽ tự nhiên là chúng tôi sẽ chuyển đến nơi nào chúng tôi không bị bách hại và nơi mà sự hiện diện của chúng tôi không gây ra sự bắt bớ, ngược đãi".

Thật là một mỉa mai của lịch sử là cùng với sự huy hoàng đang suy tàn của thành Vienna ban đầu có thể sẽ sản sinh Theodor Herzl, những thập kỷ sau đó, sản sinh ra Aldolf Hitler. Amos Elon, người viết tiểu sử Herzl đã viết là cần giải độc trước khi bị đầu độc. Rất có thể Herzl không biết rằng phong trào chống-Semite có thể mang hình thức “rập khuôn” với phong trào Quốc xã, nhưng vào năm 1896, khi cho xuất bản Nhà Nước Do Thái, ông đã biết rõ đó là một căn bệnh vô phương cứu chữa, chỉ có thể trở nên nặng thêm mà thôi. "Phong trào chống- Semite gia tăng từng ngày từng giờ trong các quốc gia, quả là nó buộc phải gia tăng vì những nguyên nhân làm nó phát sinh vẫn tiếp tục hiện hữu và không thể nào loại bỏ được". Ông ta muốn tận dụng sức mạnh của sự công nghiệp hóa để tổ chức một cuộc di dân hàng loạt từ châu Âu đến nước Do Thái; thay vì để cho Hitler sử dụng bộ máy công nghiệp để giết người hàng loạt.

Phong trào chống-Semite là một từ được đúc nặn vào năm 1879 do một tay xách động người Đức, Wilhelm Marr, để mô tả thái độ chống đối người Do Thái về những lý tưởng chính trị và chủng tộc hơn là vì lòng hận thù và bách hại tôn giáo xa xưa, Herzl đã thấy phong trào này trong chính việc giải phóng người Do Thái. Càng có nhiều người Do Thái được giải phóng khỏi những hạn chế của thời trung cổ để bước vào thế giới chuyên nghiệp, họ càng dây lên thái độ hận thù của các Kito hữu trung lưu. Người Do Thái hoặc ngoi lên trở thành những nhà tư bản, hoặc rớt xuống trở thành những nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa; Herzl bảo rằng họ đã đánh mất hầu hết mọi thứ trong cuộc xung đột giai cấp vì họ "đứng ở những vị trí quá lộ liễu". Việc đồng hóa cũng không đem lại giải pháp nào vì ngay khi người Do Thái hòa tan vào xã hội dân chúng chung quanh, lại nổ ra một thù nghịch mới đủ làm cho họ có dịp khám phá lại gốc gác người Do Thái của họ.

Trong khi sôi nổi duyệt lại bản thảo cuốn Nhà Nước Do Thái, Herzl đã viết trong nhật ký của mình: "Đất Hứa, n?