← Quay lại trang sách

- 6 - (tt)

Bến xe khách cũ ở nam Tel Aviv đông nghẹt, ồn ào và hôi hám, và việc thay thế nó bằng một bến xe mới nhiều tầng ở gần đó năm 1993 thật là đúng lúc cho các hành khách vội vã của Israel.

Nhưng cùng với sự ra đi của bến xe khách cũ, một mảng của nền văn hóa Israel cũng ra đi theo. Bến xe khách một phần là trung tâm đầu não vận chuyển của đất nước, một phần là cái chợ phương Đông. Các quầy hàng nhỏ bán lương khô, bánh kẹo, quần áo, và rất nhiều thứ khác nữa, bày chật cứng các vỉa hè quanh các làn đường xe khách. Khói xe quyện lẫn với khói thịt nướng, tạo ra một đám sương mù đặc biệt. Nhất là tiếng ồn, tiếng xe buýt ầm ầm, tiếng còi xe inh ỏi, xen lẫn tiếng ồn ào của hành khách, tiếng nhạc phương Đông mở hết cỡ qua các chiếc loa rè rè không đủ công suất, và tiếng những người bán hàng rao lớn "Mười đồng (shekcls) ba băng cát xét!"

Bến xe khách là nơi nuôi dưỡng một loại nhạc phương Đông mới, Muzika Mizrahit, được gọi nhẹ nhàng là "nhạc bến xe" hay "nhạc cát xét" không hiếu chiến như nhạc punk rock đương thời của Anh. Không có tiếng đàn điện điếc tai, không có những điệu trữ tình cuồng loạn. Lời ca không nói đến giận dữ, phản đối, hay vô chính phủ. Nhạc bến xe là tiếng than thở của một người nghèo về chủ đề muôn thuở của một tình yêu không được đáp ứng. Nó vay mượn từ nhạc Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Ý, Pháp và Tây Ban Nha, nó phối hợp các yếu tố này thành những ca khúc trữ tình.

Những người Do Thái phương Đông nghèo khổ thường được ví với những người Mỹ da đen, nhưng về nhiều phương diện họ giống với những người kém văn minh hơn. Với sự pha trộn rẻ tiền các điệu nhạc tổng hợp, muzika mizrahit là một thứ nhạc đồng quê của người Do Thái cổ. Nghe nó giống như thứ âm nhạc được chơi bởi một ban kèn đám cưới rẻ tiền. Trên thực tế, loại nhạc này bắt nguồn từ các ban kèn chơi ở các đám cưới và những buổi liên hoan của các gia đình Do Thái phương Đông.

Các ca sĩ nhạc muzika mizrahit từ lâu bị các công ty ghi băng Israel nhà nghề xa tránh. Các đài phát thanh từ chối chơi các bài hát của họ. Nó không được coi là "chiến" hay mới lạ, mà chỉ gây bối rối. Nhạc phương Đông đành phải ghi băng các buổi trình diễn của họ và phân phối băng nhạc tại các chợ đường phố, đặc biệt tại bến xe khách Tel Aviv. Vua nhạc muzika mizrahit tên khai sinh là Zohar Arkabi xuất thân từ một gia đình nhập cư Yemen tại Rishon Le-Zion, nhưng sau đổi tên là Argov để nghe có vẻ là người Azhkenazi hơn. Hồi nhỏ anh từng là một thành viên trong ca đoàn của nhà thờ Do Thái tại địa phương, và nổi tiếng từ năm 1977 như một ca sĩ quần chúng với một giọng mũi truyền cảm. Đó chính là thời điểm mà người Mizrahiyim đưa đảng Likud lên cầm quyền. Argov nhảy vào dòng nhạc nhà nghề năm 1982 với bài hát nổi tiếng Ha-Perah Be-Ganỉ ("Bông Hoa trong Vườn Nhà Tôi").

Tiếng tăm đã đưa anh tới con đường tự hủy hoại bằng rượu và ma túy. Các bạn kể lại rằng Argov có thời thường ngồi chung với họ trong một chiếc xe Mercedes, sau đó là một chiếc xe Nhật rẻ tiền Subaru, rồi đi taxi, và sau cùng đi xe buýt. Argoy kết thúc đời mình năm 1987 khi anh 32 tuổi, anh đã treo cổ trong một xà lim cảnh sát tại Rishon Le-Zion sau khi bị bắt vì tội sử dụng ma túy.

Sự thờ ơ của dòng nhạc nhà nghề đối với Argov đã trở thành một biểu tượng của sự khinh bỉ của người Ashkenazi đối với những người Mizrahiyim. về sau Argov trở thành đề tài cho một vở kịch và phim rất nổi tiếng, các sách, và ít là hai phim tài liệu truyền hình. Năm 1999, Rishnn Le-Zicn quyết định tôn vinh anh bằng việc lấy tên "vua" nhạc này để đặt tên một đường phố của vùng, nhưng khi các thành viên hội đồng thành phố phản đối là việc bất tử hóa một tay nghiện sẽ nêu một gương xấu, nên thành phố đã quyết định đặt tên cho con đường ấy là "Bông Hoa trong Vườn Nhà Tôi".

Qua nhiều năm tháng, nhạc muzika mizrahit đã ra khỏi các chương trình truyền thanh kiểu "pháo đài" và "Nhạc Địa Trung hải" để đi vào dòng nhạc nhà nghề. Hơn nữa, thế hệ tiếp theo của sự sát nhập các băng nhạc Đông-Tây đã nổi đình đám, nhưng các tác phẩm của họ tuy được ưa thích nhưng vẫn chưa được chấp nhận như một phần của dòng nhạc nhà nghề ở Israel. Vào ngày tưởng niệm các liệt sĩ của Israel, các bài hát trên truyền thanh đều dùng dòng nhạc châu Âu, mặc dù nhiều liệt sĩ, có thể là đa số, là người Mizrahiyim.

Avilu Medina, nhạc sĩ sáng tác ca khúc nổi tiếng nhất từng soạn nhiều bài hát cho Zohar Argov, chỉ trích gay gắt cơ chế âm nhạc kiểu "Bolshevism" của người Ashkenazi. "Tôi cảm nghiệm được thái độ thành kiến từng ngày và mọi ngày" anh nói. "Tôi không biết làm gì khác hơn là mở máy radio. Tôi không nghe được các ca khúc của tôi cả ngày, cả tuần, cả tháng. Tôi dám nói tôi là nhạc sĩ sáng tác ca khúc lớn nhất tại Israel. Một nhật báo đã làm một cuộc khảo sát và kể tôi là nhà viết ca khúc nổi tiếng thứ ba. Một năm trước họ cũng làm một khảo sát về các nhà soạn ca khúc và tôi được xếp thứ 52"

Tôi gặp Medina tại nhà riêng của anh ở Petach Tikva, nằm trong khu vực Tel Aviv mở rộng. Nó là một căn nhà sàn giản dị, với trang trí nội thất đơn sơ. Ở một góc phòng khách là một cây đàn organ và hai cây ghi ta. Medina thường mặc áo thun và quần gin, và cắt tóc ngắn, giống như một cựu chiến binh. Anh giải thích rằng, để tỏ dấu than khóc biến cố đền thờ bị phá hủy, người Yemen chỉ sử dụng trống và các nhạc cụ nhịp diệu.

Medina học chơi ghi ta tại một khu kiều dân, theo lời anh, tại đó "tôi đã học để là một người vô thần". Anh nhận được nhiều giải tại các liên hoan âm nhạc Mizrahi, thường là với các ca khúc trữ tình yêu nước như "Đừng sợ, Israel, vì ngươi là một con sư tử tơ, và khi sư tử gầm, ai nấy đều sợ"

Sự tức giận của Medina trước chủ trương loại trừ nhạc phương Đông đã bùng nổ sau cuộc chiến Yom Kippur năm 1973, khi ấy anh là một chỉ huy thiết giáp và bị bắt tại mặt trận Ai Cập. Tôi từ chiến tranh trở về và viết hai ca khúc được giải hai và ba của liên hoan nhạc Mizrahi, nhưng tôi không nghe thấy chúng được phát trên đài. Tôi đến đài phát thanh và hỏi tại sao họ không phát. Họ nói: “Các bài hát ấy không phải nhạc Israel, chúng là nhạc phương Đông”. Tôi thấy mình điên lên. Tôi đã suýt chết vì tổ quốc. Tôi may mắn còn sống sót để trở về sau chiến tranh, thế mà có người từ Ba Lan trở về cách đây 20 năm đã bất ngờ nói với tôi rằng tôi không phải người Israel. Tôi là thế hệ thứ ba sinh ra trên đất Israel, nhưng nếu bạn muốn là một người Israel, bạn phải đã sinh sống ở Warsaw. Sau sự cố ấy, tôi nhận ra thành kiến của họ, chính sách phân biệt chủng tộc của họ mà tôi vẫn cảm thấy nó còn rất mạnh"

Phong cách phương Đông chưa từng bị cơ chế văn hóa của Israel ghét bỏ. Trong những ngày đầu lập quốc của Israel, có một phong trào văn hóa muốn chấp nhận các phong cách Trung Đông về âm nhạc, ngôn ngữ, và kiến trúc như để biểu thị họ từ bỏ thời tản cư ở châu Âu và tìm cách hòa nhập vào dòng phương Đông mới của khu vực. Sự xung đột ngày càng gia tăng với người Ả Rập, mà cao điểm là cuộc chiến 1948, làn sóng người Do Thái từ châu Âu trở về, và sự khinh bỉ những người nhập cư phương Đông "bán khai," tất cả cùng toa rập với nhau để đưa thị hiếu văn hóa thoát khỏi các ảnh hưởng Ả Rập. Người Do Thái bây giờ cố gắng trở thành những ngọn cờ đầu của thế giới phương Tây tại Trung Đông. Các ca sĩ theo dòng nhạc phương Đông, đặc biệt các nữ ca sĩ Yemen, luôn nổi tiếng bao lâu họ không đi quá xa khỏi các khuôn mẫu châu Âu. Một chút phong cách phương Đông là điều gì mới lạ và hấp dẫn, nhưng cái gì quá phương Đông đều không được chấp nhận.

Người Do Thái Yemen đã đến Palestine thành từng nhóm đông đảo ngay từ 1881, trước cả những người nhập cư đầu tiên của phong trào phục quốc. Họ có quyền đối với nước họ cũng lớn như bất cứ hậu duệ nào của các gia đình Ashkenazi tiên phong. Người Yemen được thúc đẩy bởi niềm tin rằng Đấng Thiên sai sắp xuất hiện, hơn là niềm tin vào chủ nghĩa dân tộc của phong trào Phục quốc. Họ giải thích một đoạn trong sách Diễm ca, "Anh sẽ trèo lên thân chà là" là có ý nói người Yemen sẽ "trèo lên" (cùng động từ trong tiếng Do Thái có nghĩa là "đi lên" Đất Thánh bằng việc hồi cư) vào năm của cây chà là, tiếng Do Thái là tamar, mà các chữ này viết thành số sẽ là năm 1880. Suy diễn khác đi một chút sẽ có năm 1882.

Rất nhiều nhân tố-ví dụ sự ra đi của những gia đình Yemen đầu tiên, các lời đồn rằng Nam tước Rothschild sắp sửa mua những dải đất rộng để phân phát cho người Do Thái và việc đi vào đất Palestine một cách dễ dàng sau khi đế quốc Ottoman chiếm đất Yemen và việc mở kênh đào Suez-tất cả đã dẫn dấn làn sóng di cư lớn của người Yemen. Vào cuối thế kỷ (XIX), đã có khoảng 2 ngàn đến 3 ngàn người nhập cư tại Jaffa và Jerusalem. Vào thời Israel được tuyên bố lập quốc, có khoảng 28 ngàn người Yemen trên cả nước.

Người Do Thái phương Đông di cư sang đất Palestine với tốc độ nhanh hơn người Do Thái châu Âu, ngay cả trong thời kỳ tiên phong đầy thơ mộng của cuộc hồi cư lần thứ hai. Ngay trước Thế chiến I, người Do Thái phương Đông chiếm một phần ba dân số Do Thái tại Palestine mặc dù họ chỉ chiếm tối đa 8 phần trăm dân số Do Thái trên thế giới. Người Yemen là nhóm lớn nhất và đoàn kết nhất, nhưng họ cũng là những nhóm nhỏ đến từ các vùng Bukhara, Georgia, Iran, Afghanistan, Iraq, Kurdistan, Syria, và Bắc Phi.

Người Yemen đã chịu rất nhiều đau khổ tại Đất Thánh. Khác với các cộng đồng Do Thái khác được sự quyên góp từ các cộng đồng Do Thái ở nước ngoài, họ không có nhà tài trợ giàu có nào. Nhiều người đã từng sống trong các hang động ở thung lũng Kidron bên ngoài tường thành Jerusalem và cũng từng làm công nhân tại các khu định cư đầu tiên của phong trào Phục quốc, như tại Rishon Le-Zion và Rehovot, tại đây nay vẫn còn những khu người Yemen sinh sống.

Cuối năm 1910, văn phòng của Quỹ Quốc Gia Do Thái tại Palestine vừa mới thành lập đã gửi một sứ giả đi thuyết phục nhiều người Yemen về nhập cư. Người Yemen là thành phần nông dân Do thái mà những người của phong trào Phục quốc Do Thái tại Nga rất ao ước. Họ đã xây dựng Đất Nước Israel bằng nghề thợ hồ, thợ xây, và trồng trọt, nhưng họ không rêu rao cho thế giới biết điều đó, và các công hiến của họ dễ dàng bị lãng quên. Câu truyện của họ cùng lắm chỉ được một chỗ chú thích trong các sách chính sử của Israel.

"Tôi có một đứa em trai. Cha tôi nói nó chết năm nó mới một tuổi và chúng tôi chưa một lần đến mộ nó" Avihu Medina kể lại. "Nó rớt xuống giường và đập đầu xuống đất. Mẹ tôi đưa nó vào bệnh viện. Bốn ngày sau người ta nói nó đã chết. Không có đám tang. Tôi không biết cái chết của nó có phải sự thật hay là một lời nói láo"

Hàng trăm, có lẽ hàng nghìn gia đình Yemen có những câu truyện tương tự để kể về những đứa con biến mất một cách bí ẩn vào những thập niên 1940 và 1950. Năm mươi năm sau, không ai có thể nói cho họ biết chính xác điều gì đã xảy ra. Các chuyên gia Do Thái thường cắt nghĩa về những sự mất tích này là do tình trạng quản lý hỗn loạn tại các bệnh viện khiến cho nhiều con cái của những người định cư chết vì suy dinh dưỡng và bệnh tật sau cuộc hành trình gian nan vất vả tới Israel.

Mất mát này là một chân thương không thể chữa lành đối với cộng đồng. Lâu năm bị uất ức vì sự bất công của những người Ashkenazi, người Yemen luôn tin rằng các trẻ em Yemen đã bị các giới chức chính phủ bắt cóc, bị bán làm con nuôi cho các gia đình Ashkenazi, thường là các người Do Thái tại Mỹ, và một số thậm chí còn bị sử dụng trong các thí nghiệm y khoa. Theo cắt nghĩa của họ, chính phủ của đảng Lao động cũng biết rõ chuyện bắt cóc nhưng đã che giấu sự thật cho tới ngày nay. Một số nhà tranh đấu Yemen nói rằng những vụ bắt cóc này là "tội ác xấu xa nhất trong lịch sử dân Do Thái kể từ vụ ông Giuse bị các anh em bán cho người Ismael". Một số gọi nó là cuộc "Tàn sát" của chính họ, và tệ hơn nữa, nó lại được thực hiện bởi những người Do Thái khác. Cách cắt nghĩa tiêu cực này được hỗ trợ bởi sự kiện thỉnh thoảng có người nói là đã tìm lại được một đứa con hay một đứa em bị mất tích đã lâu.

Không gì diễn tả được một cách sâu sắc hơn sự giận dữ, căm thù, đau đớn và thất vọng của người Mizrahiyim bằng câu chuyện về những đứa bé Yemen bị mất tích. Bản thân Medina cũng nói chính anh đã gặp hai "đứa trẻ bị đánh cắp" như thế. Một bản hát mới đây của anh, Uviarta ("Ngươi phải khử trừ"), lấy cảm hứng từ đoạn Kinh thánh: "Nếu ai thấy một kẻ nào bắt cóc một người anh em mình trong hàng con cái Israel, hành hạ và bán nó đi, thì kẻ bắt cóc phải chết. Ngươi phải khử trừ sự gian ác, không cho nó tồn tại giữa ngươi" (Deut. 24: 7).

Sự giận dữ đã biến thành bạo động. Năm 1994, đã có một vụ nổ súng tại Yehud giữa cảnh sát và những người theo Uzi Meshulam, người có tiếng nói mạnh nhất chống lại vụ "che đậy" của chính phủ. Meshulam được coi là vị tử đạo Yemen vì ông bị giam giữ trong năm năm, và tuy không có bằng chứng nào, nhưng các người theo ông đã bị đổ lỗi cho hàng loạt các vụ tấn công, gồm cả vụ sát hại một sĩ quan trông coi nhà tù. Các người theo ông nói đến "Những kẻ Ashke-Quốc xã" và họ đeo phù hiệu Ngôi sao David. Một quán ăn của những người ủng hộ Meshulam tại thành phố Rosh Ha'ayin lấy tên là "Quán Bán Trẻ Em Yemen": thực đơn của quán gồm: "Một bé trai, $5.000; Một bé gái, $4,500"

Sau khi nhà nước Israel được khai sinh, những người Yemen là những cộng đồng Do Thái đầu tiên tại Trung Đông được đưa hàng loạt về Israel. Khoảng 48 ngàn người, nghĩa là hầu hết cộng đồng, được không vận về Israel năm 1949 với sự ưng thuận ngầm của chính quyền Yemen. Các niềm hi vọng thiên sai của người Yemen bị đè bẹp một cách tàn nhẫn vì họ gặp phải những người phục quốc thế tục và theo xã hội chủ nghĩa, những người này vừa chiến thắng người Ả Rập.

Tháng Ba 1950, những người Do Thái tại Iraq được phép rời bỏ Iraq với điều kiện họ phải để lại mọi của cải và từ bỏ quốc tịch. Trong Chiến dịch Ezra và Nehemiah, hơn 120.000 người Iraq gốc Do Thái được không vận tới Cyprus và từ đó được đưa lên tàu về Israel. Người Do Thái ở Bắc Phi cũng bắt đầu đổ về, mặc dù làn sóng hồi cư của người Do Thái gốc Ma Rốc, cộng đồng đông nhất tại Maghred, chỉ đạt cao điểm vào các thập niên 1950 và 1960.

Vì người Do Thái đến từ hàng chục nước, dân số Do Thái khoảng 650.000 đã tăng lên hơn gấp đôi từ 1948 đến 1951. Đây được coi là cuộc "giải cứu" người Do Thái đại quy mô khỏi chủ nghĩa bài Do Thái, cả ở châu Âu và các nước Ả Rập, mặc dù trong nhiều trường hợp người Do Thái không gặp nguy hiểm trước mắt. Cuộc di cư ào ạt này không giống như Herzl từng mường tượng về một cuộc di cư có khuôn khổ và trật tự để tránh những "xáo trộn nghiêm trọng" cả tại những nước cũ lẫn tại quê hương mới. Các điều kiện sống tại các trại nhập cư ở Israel hết sức tồi tệ. Dịch bệnh thường xảy ra. Một lãnh đạo phong trào phục quốc than phiền: "Không phải cường điệu khi nói rằng các điều kiện sống tại các trại tị nạn ở Đức sau chiến tranh còn tốt hơn." Một số giới chức cảm thấy đau xót vì lời châm biếm "người Do Thái giam giữ những người Do Thái khác trong các trại". Nhiều người lo ngại rằng các trại tạo ra sự lười biếng, hủ hoá và "phản cách mạng". Nhưng bất chấp những lời tán than trong chính phủ về việc đổ "nguồn tài nguyên người nghèo nàn" về nước, không nhà lãnh đạo nào dám khoá lại làn sóng nhập cư.

Những người Do Thái gốc châu Âu và phương Đông cũng phải sống trong những cảnh tồi tệ tương tự, nhưng hoàn cảnh của những người Ashkenazi nhập cư thì khá hơn. Vì đến đầu tiên, những người Do Thái gốc châu Âu có được những căn nhà tốt nhất mà người Ả Rập bỏ lại. Không lâu sau, những người Do Thái phương Đông tạo thành một tỉ lệ chênh lệch về số dân trong các trại nhập cư, và sau này trong các ma'abarot, hay các trại trung chuyển, tại đây không có các nhà ăn tập thể và các người nhập cư được tự mình tổ chức đời sống gia đình mình nhiều hơn. Người nhập cư có thể ra ngoài trại để làm việc, và trẻ em được đến trường. Nhiều trại trung chuyển (ma‘abarot) được đặt ở ngoại vi các thành phố, hay trở thành các thành phố tự lập. Mặc dù các trại trung chuyển đã có sự cải thiện, nhưng cũng không có nhiều công việc để làm.

Nhiều người nhập cư từ châu Âu đã có gia đình sống ở Israel trước rồi, những gia đình này giúp họ hội nhập, và dần dần một số lớn người được nhận tiền bồi thường từ Đức. Mùa thu năm 1949, theo Tom Segev viết trên báo Người Israel Đầu Tiên, chính phủ Ba Lan cho phép người Do Thái tại đây xuất cảnh và chính quyền Israel bí mật quyết định cho họ hưởng đối xử ưu đãi. Trong biên bản cuộc họp của Hãng Thông tấn Do Thái, các giới chức lý luận rằng "nhiều người trong chúng ta có cùng một chi tộc" như người Ba Lan. Một người tuyên bố: "Đây sẽ là một phước lành cho đất nước chúng ta. [...] Chính vì vậy tôi đề nghị ưu tiên cho họ về nhà ở. Người Do Thái Ba Lan đã từng sống rất thoải mái. Các trại nhập cư đối với họ tồi tệ hơn đối với người Yemen, vì đối với người Yemen, các điều kiện sống trong trại cũng đã là một sự giải phóng rồi".

Thời ấy, giới trí thức lý luận rằng "não trạng sơ khai" của những người nhập cư phải được coi là giống.với não trạng trẻ con, người chậm phát triển, và người rối loạn tâm thần. Năm 1950, Ha'aretz công bố một lời phê bình cay độc chống lại người Bắc Phi. "Những dân tộc này có trình độ bán khai không thể tưởng tượng. Họ hầu như hoàn toàn không được giáo dục, và tệ hơn nữa, họ không có khả năng hiểu biết tri thức gì cả. Trên nguyên tắc, họ chỉ hơi khá hơn một chút so với người Ả Rập, người Da Đen, và người man di Berber. Giáo dục của họ chắc chắn còn thấp hơn giáo dục của những người Ả Rập ở Palestine trước đây. [...] Nhiều người trong số họ bị các bệnh như đau mắt, ghẻ lở và các bệnh hoa liễu. Ấy là chưa kể đến nạn trộm cắp cướp bóc. Không có gì an toàn trước yếu tố phản xã hội này, không có ổ khoá nào là đủ chắc chắn cả. [...]"

Trên đường từ Ashkelon tới Beersheva, thành phố Sderot trơ trẽn loan báo sự hiện hữu của nó với một bích chương lớn vẽ hình một cô gái xinh đẹp với hàng chữ: SDEROT-NGƯỜI ĐẸP CỦA KHU VỰC.

Tấm bích chương được dựng lên sau khi Miri Bohadna, một cô gái của Sderot, được đội vương miện Miss Teen Israel 1995. Khẩu hiệu này diễn tả một sự tự tin tột độ, thậm chí là trơ trẽn, của một cộng đồng mà vào cuối thiên niên kỷ được xếp hàng thứ hai từ dưới lên trong chỉ số kinh tế của các thành phố tại Israel, thậm chí còn thấp hơn nhiều cộng đồng A Rập.

Sderot phát triển từ một trại tạm cư được thiết lập năm 1951 như một phần trong chuỗi khu định cư nhằm ngăn chặn làn sóng nhập cư từ Dải Gaza. Trong nhiều năm nó không có điện, không có nước sạch. Ban đầu nó gồm những người Do Thái đến từ Iran và Kurdistan, và từ giữa thập niên 1950 cũng có thêm những người đến từ Bắc Phi, đặc biệt từ Maroc. Sderot là một "thành phố phát triển" điển hình trong vùng Negev. Sa mạc là biên giới mới của Ben-Gurion, là hậu cứ chiến lược của nhà nước Do Thái. Người ta có ý đồ làm cho nó thành mầu mỡ nhờ công sức và mồ hôi của những người nhập cư phương Đông. Tuy nhiên, ngày nay các thành phố vùng sa mạc biểu thị tình trạng những người dân bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt những người Do Thái phương Đông. Các nhà máy công nghiệp được xây dựng vào thập niên 1950 nay buộc phải đóng cửa, và không có gì khác trám vào chỗ ấy. Một số ít các thành phố mới này, như cảng Ashdod, cũng thành công, nhưng nhiều thành phố là những điểm đen về nạn thất nghiệp. Thuật ngữ "Thành phố phát triển" đã trở thành một cách nói trại để nói về sự chậm phát triển.

Thống kê năm 1997 cho thấy các"thành phố phát triển"có tỷ lệ thất nghiệp là 12,7 phần trăm, cao hơn hẳn so với tỷ lệ 7,7 phần trăm của cả nước và gần gấp đôi con số 6,4 phần trăm của Tel Aviv. Thành phần dân số chủ yếu của các thành phố phát triển là người Mizrahiyim, mà đại đa số tù nhân trong các nhà tù cũng là người Mizrahiyim. Tỷ lệ những người Ashkenazi học đại học và làm bác sĩ, luật sư, và giám đốc cũng cao hơn hẳn so với những người Sephardim. Chung chung, trung bình họ kiếm được số lương cao gấp rưỡi những người Sephardim. Tại Sderot, lương tháng trung bình là khoảng 3.000 đồng shekel Do Thái (NIS), nghĩa là chỉ gần bằng một phần ba mức lương trung bình trên cả nước.

Tippex, một ban nhạc xuất thân từ Sderot đã trở thành một trong những ban nhạc nổi tiếng nhất vào thập niên 1990, đã giễu cợt các"thành phô' phát triển"bằng một bài ca mang tên "Đỉnh cao Tro bụi."

Gần đây, các tài năng âm nhạc của Sderot đã mọc lên như nấm, và trở thành lò đào tạo của ít nhất là nửa tá ban nhạc nổi tiếng phối hợp các yếu tố âm nhạc đông tây. Dân cư tại đây thích ví thành phố Sderot của họ với Liverpool, quê hương của nhóm Beatles. Không có các Hang Câu Lạc Bộ cho những người say mê âm nhạc lui tới. Bù lại, những ai muốn trở thành những ngôi sao trong tương lai thường tới các hầm trú bom để tập dượt sau các giờ học.

Không ai có thể giải thích chính xác động cơ nào đã thúc đẩy cuộc phục hưng âm nhạc tại Sderot. Tuy nhiên, điều chắc chắn là Haim Uliel là khuôn mặt trung tâm. Tiếp tôi tại nhà riêng của anh trong bộ quần soọc và áo thun, anh không có vẻ gì giống với người khai sinh ra thể nhạc mới này của Israel, chắc chắn là thứ âm nhạc Israel chân chính đầu tiên. Anh thường nghe nhạc Ma Rốc và Ả Rập tại quán cà phê của bố anh, nhưng anh thấy nhạc ấy kỳ cục. Khi anh bắt đầu chơi trong một ban nhạc địa phương, ban nhạc này đang chơi các bản nhạc Led Zeppelin. Tuy nhiên, với thời gian, anh thấy mình càng ngày càng hợp với phong cách phương Đông hơn. Ban nhạc của Uliel theo phong cách Maroc, lấy tên là Sfatayim, hay "Cặp Môi" trình làng năm 1990 với thành công vang dội. Thành công của ban nhạc đã gợi hứng cho một ban khác, ban Phục hưng, với bộ tam ca chỉ hát các bản Ả Rập Maroc. Rồi xuất hiện ban Tippex, lấy tên tiếng Anh là Tea-Packs, đứng đầu là Kobi Oz, từng là tay chơi organ của Sfatayim.

Uliel chưa bao giờ rời Sderot. "Tôi biết rằng nếu đến chơi ở Tel Aviv tôi sẽ thành công hơn gấp mười lần" anh nói. "Tôi không hiểu tại sao tôi yêu nơi này". Trong phòng ở của anh, với bộ bàn ghế xếp vừa khít giữa hai bức tường quét vôi trắng, Uliel chơi một bản từ đĩa CD mới nhất của anh. "Từ Maroc tới Zion" một ca khúc phương Đông với nền trống theo nhịp phức tạp, là một bài thơ ca ngợi lòng quả cảm của thế hệ cha mẹ anh. Uliel nói về Maroc như một thiên đàng đã mất, là nơi mà mọi gia đình Do Thái đều có tiền của, đất đai và "hai hay ba người hầu Ả Rập trong nhà". Lời bình luận của anh làm tôi liên tưởng tới bài thơ của Erez Biton về số phận của Zohara al-Fasia, một nữ nhạc sĩ và ca sĩ đã từng nổi tiếng trong thế giới Ả Rập trước khi cô đến Israel.

Zohara Al-Fasia

Nàng ca sĩ từng hát trong triểu đình Muhammad Đệ Ngũ tại Rabat Ma Rốc.

Họ kể rằng khi cô cất giọng ca

Các binh lính đồng loạt tuốt gươm

Rẽ đám đông đi tới

Để được sờ vào tà áo cô

Để được hôn lẽn bàn tay cô

Để được trao cho cô những đồng riyal bạc tỏ lòng tri ân.

Zohara Al-Fasia

Ngày nay bạn có thể gặp được cô

Tại phố Ashkelon, Lô số 3, cạnh văn phòng xã hội

Mùi những lon cá hộp đã ăn trên chiếc bàn ba chân khập khiễng

Nằm trên chiếc giường Đại diện Do Thái phủ thảm đỏ hoàng vương

Trong bộ đồ dạ vũ, cô ngắm nghía

Hàng giờ hàng giờ trong gương

Loại phấn son rẻ tiền

Và khi cô lên tiếng: Muhammad Đệ Ngũ

Là con ngươi mắt tôi

Lúc đầu bạn không hiểu.

Cha mẹ của Uliel đã nhập cư Israel năm 1954. Họ đến trại ở Sderot vừa lúc thành phố đang được xây dựng. Chỉ có một ít túp lều. Như đa số đàn ông tại đây, cha anh đi tìm việc làm theo mùa tại các khu kiều dân. Không có đủ việc làm cho số dân nhập cư khoảng 3 ngàn người. Những người có nghề thì bỏ đi; những người còn lại sống trong cảnh nghèo khổ. Sự thất vọng bùng nổ năm 1956, một tháng sau chiến dịch Sinai. Nước uống ở Sderot bị cắt, chỉ có một vòi được mở, vì thị xã đã không trả tiền. Khi nhân viên phát tiền bị bệnh và không đến đúng ngày, đã nổ ra một cuộc bạo loạn đòi "nước và lương thực" dám đông xông vào văn phòng việc làm và đốt văn phòng này. Cha của Uliel là một trong số những lãnh tụ cuộc bạo loạn. Uliel nói, "Cha tôi bảo nếu không có việc làm tại Sderot, thì văn phòng việc làm có ích gì?"

Uliel nói cuộc nổi loạn đã châm ngòi cho "chiến tranh". Ba năm sau, người Maroc nổi dậy ở Wadi Salib, một khu ổ chuột có thời từng là một khu người Ả Rập tại Haifa. Vào đầu thập niên 1970, một nhóm đấu tranh người Do Thái phương Đông tự xưng là nhóm Báo Đen, theo tên gọi của phong trào Da Đen Mỹ vào thập niên 1960, đã dấy loạn để đòi cải thiện điều kiện sống cho người Sephardim. Golda Meir cho thấy bà không còn nắm được thực tế của đảng Lao động trong những ngày tàn, đã chỉ có thể mô tả nhóm Báo Đen như là "những chú bé không dễ chơi". Cả sau khi đảng Lao động thua nhục nhã năm 1977, nó vẫn giữ thái độ kiêu ngạo.

Người Do Thái phương Đông ủng hộ đảng Likud trong các cuộc bầu cử, mặc dù chính sách của đảng Lao động về việc chuyển tiền từ các khu định cư Bờ Tây sang cho việc phát triển các đô thị có lợi cho nhiều người Do Thái phương Đông. Theo Uliel, nhiều quan điểm chính trị của người Do Thái Maroc có thể là bảo thủ về xã hội nhưng lại ôn hoà trong các vấn đề chiến tranh và hoà bình. Nhưng họ vẫn còn rất oán hận. "Chúng tôi bầu cho đảng Likud không phải vì ghét người Ả Rập" anh giải thích như thể đó là chuyện đương nhiên. "Chúng tôi bầu cho đảng Likud vì chúng tôi ghét đảng Lao động".

Sự thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa những người nhập cư phương Đông và chính phủ Lao động trong những thập niên đầu của nhà nước Israel được mô tả trong cuốn Tarnegol Kapparot, "Bày Gà Tế Vật" một tiểu thuyết của Eli Amir xuất bản năm 1983. Trong câu truyện về một thiếu niên nhập cư đã rời bỏ một kibbut để trở về trại nhập cư, tác giả thách thức lý tưởng đang phổ biến của nhóm tiên phong phục quốc, ông diễn tả sự thất vọng mà ông cảm nghiệm khi bỏ Baghdad để về Israel năm 1950, năm ấy ông 12 tuổi.

Câu truyện mở đầu với nhân vật chính Nuri, một thiếu niên vừa từ Irắc đến, đón xe buýt tới một chỗ tụ tập để các đại diện kibbut tuyển chọn các người nhập cư vào các cộng đồng của họ. Khi đoàn người tràn trề hy vọng đứng xếp hàng để chờ được tuyển chọn vào những kibbut đáng mơ ước nhất, Nuri nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên với Israel-khi bị phun thuốc DDT:

Chúng tôi vừa tới Lod thì đoàn người phun thuốc diệt trùng đã ập đến, tay cầm các bình xịt. Bụi trắng mịt mù làm tôi cay mắt và làm tôi muốn khóc và la lên: "Tôi không phải một trái bị sâu! Các ông đang làm gì tôi vậy!” Rồi bất ngờ tôi trông thấy bố tôi, trong bộ đồ đẹp nhất để sẵn sàng chào đón cô dâu ông từng ao ước bấy lâu, mảnh đất mà ông cày xới ba lần mỗi ngày-vậy mà bây giờ bộ áo sọc xanh của ông bị lấm tấm những mảng bụi trắng [...] khiến ông vô cùng bối rối và thất vọng; tôi muốn khóc vì họ đối xử với bố tôi như thế.

Từ lâu đã có câu nói rằng người Do Thái thích nhập cư, nhưng ghét người nhập cư. Vào thập niên 1950, nhiều người Israel bản xứ than phiền rằng người Do Thái nhập cư sống dựa vào ngân sách nhà nước. Đầu thập niên 1990, thái độ này được lặp lại khi có làn sóng những người nhập cư từ Nga tràn tới sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Bây giờ đến lượt những người Do Thái đã nhập cư trước than phiền về gánh nặng mà những "người Nga" chất trên vai họ.

Dân số của Sderot đã tăng hơn gấp đôi, từ khoảng 10.000 tới 23.000 vào thập niên 1990. "Sderot trước kia giống như một đại gia đình" Uliel lẩm bẩm. "Bạn có thể nhìn vào mặt một đứa trẻ để biết được bố mẹ nó là ai". Nhưng bây giờ, Uliel than phiền, Sderot đã thay đổi rồi. "Bạn không thể hòa nhập với đông đảo thứ người như thế nữa. Bây giờ bạn nghe thấy người ta đứng xếp hàng ở một ngân hàng và chửi rủa những người mới nhập cư. Những người đàn ông Maroc đã bắt đầu bỏ vợ để lấy vợ người Nga. Chính phủ đã đưa đến đây những con người không hề biết tôn giáo là gì. Ngày Sabbath họ vẫn nấu nướng linh đình. Coi kỳ lắm. Suốt 40 năm qua người ta không ai đi lại vào ngày Xá Tội (Yom Kippur), nay thì xe vẫn cứ chạy đầy đường"

Một giai điệu dương cầm nhè nhẹ lọt qua cửa trước căn hộ. Tôi chờ một lúc ở bậc thang phía trước rồi gõ cửa. Dòng nhạc bị cắt đứt đột ngột. Một phụ nữ tóc vàng-vàng hoe-bước ra mỉm cười đón tôi.

Natasha Gnatovskaya là người quản gia và bạn âm nhạc của Edith Kraus, một nhạc sĩ dương cầm chuyên nghiệp từng bị một cơn đột quị năm năm trước. Bản thân Gnatovskaya cũng là một nhạc sĩ dương cầm có tiếng tại Ukraina nơi cô sinh trưởng, nhưng giống như các dân nhập cư khác, cô và chồng, cũng là một nhạc sĩ, đang phải kiếm sống bằng công việc dọn dẹp nhà cửa.

Câu truyện của họ là câu truyện chung của bao người Do Thái khác tại Xô Viết vào thập niên 1990. Những người có chuyên môn rất cao phải đi làm các công việc lặt vặt và ít tiền, nhiều người không bao giờ tìm lại được tiếng tăm mà họ từng có khi còn là những bác sĩ, nhạc sĩ, kỹ sư hay nhà khoa học. Gần một nửa số vụ tự tử tại Israel trong những năm 1990 là bởi những người nhập cư từ Đông Âu.

Tuy nhiên Gnatovskaya cũng có được một niềm an ủi: Kraus đối với cô không chỉ là một chủ nhà mà còn là người bạn tâm sự. Kraus sinh tại Vienna, cha mẹ là người Tiệp. Gustav Mahler là ông trẻ bên họ bố của bà. Năm 1949 bà bỏ Praha đến Israel cùng với chồng và đứa con gái hai tuổi. Bà dạy nhạc tại Givatayim, nay thuộc thành phố Tel Aviv mở rộng, trong khi chồng bà làm trong một nhà máy và sau này thử đi vào nghề dệt. "Bắt đầu anh ấy bán cà vạt. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì lạ đây. Ở Tel Aviv không ai thắt cà vạt cả" bà nói. Kraus không ngại những khó khăn trong việc thích nghi đời sống tại Israel. "Chúng tôi không mong đợi một thiên đàng" bà nói.

Kraus đặc biệt thích chơi các tác phẩm của Viktor Ullmann và Pavel Haas, hai nhà soạn nhạc này cũng ở Theresienstadt như bà. Nhưng khác với Kraus, họ bị sát hại tại Auschwitz năm 1944. Kraus chuyển tới Jerusalem sau khi chồng bà qua đời năm 1984, nhưng bà tiếp tục làm việc nhiều năm, thu đĩa những bản cuối cùng của bà trước khi bà bị đột quỵ năm 1993. Bất chấp bệnh tật của Kraus, Gnatovskaya vẫn luôn hết sức khâm phục tài năng của bà. "Khi tôi nghe bà chơi đàn, tôi như thể thấy một nhạc sĩ ở tuổi 20 vậy" cô nói.

Hai phụ nữ này làm thành một cặp kỳ lạ. Một người là dân mới nhập cư, rất sinh động, thoải mái. Người kia là một bà quý tộc Trung Âu mà cung cách quý tộc của bà không hề bị mai một dù là bởi cả một thời gian ba năm trong tại tập trung "kiểu" Quốc xã ở Theresienstadt, hay bởi hàng chục năm sống giữa những người Israel khó chịu, hay bởi cơn đột quỵ đã làm bà bị bán thân bất toại.

Gnatovskaya đến Israel từ Kharkov của Ukraina năm 1991, vào lúc cao trào của làn sóng di cư từ Liên Xô. Có một câu nói dí dỏm thời ấy rằng bất cứ người Xô Viết nhập cư nào không mang theo đàn vĩ cầm thì chắc chắn là một tay dương cầm. Gnatovskaya là một trong số những người không mang theo đàn vĩ cầm. Cô từng dạy nhạc tại nhạc viện của Kharkov, và chơi trong các ban hoà tấu ở nước ngoài. Hơn 700.000 người Do Thái từ Xô Viết đã nhập cư Israel kể từ 1990, trong cao trào nhập cư lớn nhất kể từ những biến động của người Do Thái phương Đông vào thập niên 1950.

Khác với những người nhập cư thời kỳ đầu, những "người Nga" hôm nay đã đến với một nền kinh tế phương Tây phát triển. Họ không bị nhồi nhét trong các trại lều, nhưng được ở trong những căn hộ hay khách sạn, được phân phát khẩu phần, phát tiền để mua đồ gia dụng, và được đi học miễn phí. Những điều này cũng không phải xa xỉ gì, nhưng nó cũng nổi lên một sự rộng rãi chưa từng có sánh với tình trạng thiếu thốn mà người Maroc và những người khác đã từng phải chịu trước kia. Dù vậy, Gnatovskaya nói, không có gì dễ dàng. "Nước rất nhỏ, và có quá nhiều nhạc sĩ đến Israel. Có rất nhiều nhạc sĩ tầm thường, nhưng bạn không thể đơn giản tới và ném họ đi để đưa những người ngoài vào" cô cắt nghĩa bằng tiếng Do Thái với một giọng Nga rất nặng.Công việc đầu tiên của tôi cũng giống như bao người khác, dọn dẹp nhà cửa. Tôi không bao giờ hình dung rằng mình sẽ phải làm loại công việc này. Không biết tiếng, không tiếp xúc với người Israel, không người tư vấn, không giúp đỡ. Một nửa triệu người nhập cư, và tất cả đều giống như những con cừu.

Nếu những người Sephardim từng bị xúc phạm vì thái độ vô đạo tại Israel vào thập niên 1950, thì những người Nga lại thường chịu sự áp bức tôn giáo tại Israel. Họ thường bị sỉ nhục bởi những kinh sư Do Thái chính thống không muốn nhìn nhận tính Do Thái của họ. Có những trường hợp người Nga nhập cư bị giết hại trong các cuộc tấn công khủng bố vì bị coi là người Do Thái, để rồi lại bị từ chối chôn cất trong nghĩa trang Do Thái vì bị nghi ngờ là người ngoại đạo. Có nhiều trường hợp các giáo sĩ Do Thái cắt bì các thi thể người Nga nhập cư trước khi chôn cất họ. Một lớp người Nga đã rời Israel và thường thích đến Canada.

Người Nga nhập cư ở Israel có lẽ là nhóm thiếu ổn định nhất và quan trọng nhất trong việc thay đổi cán cân chính trị tại Israel. Tại một đất nước mà khung bầu cử rất khắt khe, người Nga đã giúp đảng Lao động lên cầm quyền năm 1992, đảng Likud năm 1996, Lao động năm 1999, và đến lượt Likud năm 2000. Người Sephardim phải mất cả một thế hệ để tạo được ảnh hưởng chính trị của họ, trong khi người Nga đã thành công lập được đảng riêng của họ dưới sự lãnh đạo của một người Xô Viết bất mãn trước đây, Natan Sharansky, người lần đầu tiên có chân trong chính phủ năm 1996, chỉ năm năm sau khi làn sóng nhập cư người Nga đổ vào Israel. Người Nga bị lôi kéo theo mọi hướng. Phe cánh hữu muốn đưa họ đến ở Bờ Tây, phe cánh tả coi họ là một tiền đồn chống lại sự bó buộc tôn giáo, các nhà chiến lược coi họ là một vũ khí trong cuộc chiến dân số chống lại người Ả Rập, các nhà kinh tế tính toán tầm quan trọng của họ như là một nguồn vốn nhân lực, trong khi những người ham thích thể thao hi vọng họ sẽ giúp cải thiện vị trí của Israel trong các cuộc tranh tài thể thao quốc tế. Ở một mức độ nào đó, tất cả đều đã thất vọng; đa số người Nga quá quan tâm tới vấn đề sinh sống hằng ngày khiến họ không còn tâm trí để ý đến các vấn đề lớn của quốc gia.

Dù sao các người Nga nhập cư Israel cũng đã là một bước ngoặt quyết định trong các biến cố tại Israel. Nếu bức tường Berlin sụp đổ đã cho phép hai nước Đức thống nhất, nó cũng cho phép Israel tái phát hiện những người Ashkenazi tản cư còn ở lại trên đất Nga, cái nôi của phong trào phục quốc tiên phong. Ngày 9 tháng Mười Một 1917, tờ Times đã tường thuật song song hai sự kiện. Một bên là một tin ngắn mang bản văn của Tuyên ngôn Bolshevik; bên kia là tin tức về sự nổi dậy của nhóm Bolshevik tại Liên Xô. Dưới hàng tít ĐẢO CHÁNH TẠI PETRO- GRAD, tờ báo viết rằng "Cánh cấp tiến của Xô Viết Petrograd, dưới sự lãnh đạo của Lênin, tuyên bố rằng nó đã hạ bệ chính phủ lâm thời của ông Kerensky..."

Sân bay Ben-Gurion lúc 20 giờ 45 ngày 24 tháng Năm 1991. Đó là đêm thứ sáu. Một chiếc phản lực jumbo E1 AI hạ cánh rồi dừng lại trước một đoàn đông đảo binh lính, giới chức chính phủ và báo chí. Máy bay ghi hàng chữ lớn CARGO "hàng hóa".

Ít phút sau, cánh cửa mở ra cho thấy mặt hàng quý: hàng trăm người Do Thái Ethiopia với dáng vẻ nhút nhát, ngỡ ngàng và tiều tụy. Một cậu bé vẫy tay lia lịa. Các ông già bận áo dài trắng bước xuống bậc thang máy bay, tay vịn bao lơn. Một phụ nữ mù được một đứa bé dắt xuống. Nhiều người đi chân đất. Đúng là cảnh tượng của cuộc Xuất Hành trong Kinh thánh, chỉ khác là người Do Thái không đi qua Biển Đỏ nhưng được chở bằng máy bay ngang qua Biển Đỏ, một sự kiện mà nhiều người nhập cư coi cứ như là một phép lạ.

Họ không mang theo của cải gì ngoại trừ một vài người cố giữ chặt những túi xách nhựa của họ. Binh lính Israel chạy lại thang máy bay giúp đỡ những người già yếu. Nhiều người trên trán vẫn còn dính những nhãn đã được các viên chức Israel dán vào để phân biệt các dòng tộc được không vận ra khỏi Addis Ababa. Ban tiếp tân đã quên hết những thủ tục khách sáo và tràn ra đón những người mới đến. Trong dòng người ào ra, tôi thấy như có cái gì chạm vào tay tôi. Một cậu bé người Ethiopia nắm lấy các ngón tay tôi và lầu bầu trong miệng. "Shalom" nó nói.

Cảnh này đã diễn ra chỉ ít tháng sau khi Israel đã trở thành bất lực vì cơn mưa tên lửa Scud của Iraq xuống các thành phố của Israel trong Cuộc chiến Vùng Vịnh. Cuối cùng thì cũng đã có cái gì để vui vẻ ở đây. Nó là một giờ phút tuyệt vời đối với mọi người Do Thái tại Israel; phong trào Phục quốc Do Thái đang chứng tỏ vai trò là nơi tị nạn của nó. Lần đầu tiên trong lịch sử, Thủ tướng Yitzhak Shamir tuyên bố, dân da đen đang được đưa đến cảnh tự do chứ không phải đến cảnh nô lệ.

Vụ chở những người Do Thái Ethiopia, tự gọi mình là Beta Israel (Nhà của Israel) là một phần của cùng một cuộc tái bố trí của thế giới hậu-Chiến tranh lạnh vốn đã chở những người Do Thái Nga tới. Khi Liên Xô sụp đổ, đồng minh Ethiopia thân cận của nó là nhà độc tài Mác xít Mengistu Haile Mariam cũng thua trong cuộc nội chiến. Với những đạo quân nổi loạn đang áp sát Addis Ababa, Israel đã bảo đảm cho phép một cuộc không vận những người Do Thái Ethiopia ở thủ đô còn đang chờ đợi một cơ máy thoát ra khỏi cảnh hỗn loạn. Đây là một cơ may rất nhỏ, được mở ra với sự trợ giúp của áp lực ngoại giao của Mỹ và một món tiền đút lót chiến lược khoảng 30 triệu mỹ kim. Nói tóm, Israel đã chuộc những người Do Thái Ethiopia với giá mỗi người khoảng 2 ngàn mỹ kim.

Khoảng hơn hai chục máy bay, các máy bay dân dụng của E1 Al, các máy bay vận tải quân sự, và cả một máy bay của Ethiopia Airlines-đã chở khoảng 15 ngàn người Beta Israel trong một cầu không vận liên tục trong chỉ hơn một ngày dưới tên gọi "Chiến dịch Solomon". Sân bay Addis Ababa lúc đó đã trở thành một sự mở rộng của chủ quyền Israel. Không cần giấy nhập cảnh nào cả; bạn chỉ cần được giới chức Israel cho phép dựa trên cơ sở ai có quyền quyết định ai là người Do Thái và ai không. Các chuyên gia quân cụ tính rằng nếu gỡ bỏ mọi trang thiết bị trong máy bay xuống mức tối thiểu (một số máy bay chỉ giữ lại một tấm thảm dày để hành khách dễ chịu) và ước tính rằng vì trọng lượng cơ thể trung bình của người Ethiopia thiếu ăn thì nhẹ hơn người Do Thái, nên các máy bay có thể chuyên chở được vô số hành khách. Chiếc Jumbo mà tôi trông thấy chở 1.068 hành khách, một kỷ lục trong các sách hàng không.

Giống như những người Yemen đến đây hơn bốn thập niên trước, người Ethiopia được coi là một bộ tộc lãng mạn và hấp dẫn của Israel. Các câu truyện dân gian của Beta Israel kể rằng cộng đồng này phát xuất từ những người Do Thái đồ đệ của Menelik, người được tôn kính trong các truyền thuyết Ethiopia như là con trai của cuộc phối hợp giữa Vua Solomon và nữ hoàng Sheba, và là người sáng lập hoàng tộc Ethiopia. Họ được những người Ethiopia khác gọi là "Falasha", một từ có nghĩa là "Những kẻ lang thang" hay "Kẻ lạ".Tên gọi này có thời được dùng phổ biến, nhưng bây giờ được coi là có ý nhục mạ.

Người Beta Israel theo một dạng tín ngưỡng dựa trên các giới luật của Kinh thánh chứ không theo các lời giảng dạy của các kinh sư. Sự tồn tại của những người Do Thái Ethiopia đã từng được biết đến vào thế kỷ XII bởi nhà lữ hành người Do Thái, Benjamin Tudela, và nhà địa đồ học Ả Rập Idrisi cùng thời với ông. Vào thế kỷ XVI, Giáo sĩ David ibn Zimra ra một luật rằng người Falashas là "thuộc dòng giống Israel, chi tộc Dan". Các nhà truyền giáo của Kito giáo viết nhiều về những người Falasha và cố gắng cải đạo họ, nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX, những người Do Thái khác trên thế giới mới bắt đầu có sự quan tâm tích cực tới số phận người Beta Israel, phần lớn như là một phản ứng chống lại các hoạt động của các nhà truyền giáo.

Sau khi Israel được thiết lập, một phong trào ủng hộ Falasha đã cho một nhóm trẻ em Ethiopia học tiếng Do Thái, nhận nền giáo dục Do Thái và trở về Ethiopia truyền bá kiến thức. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Israel chống đốì mọi cuộc nhập cư ào ạt: các lá thư viết vào năm 1949 và 1950 được Tom Segev trích trong cuốn 1949: Những Người Israel Đầu Tiên gồm thư của các viên chức Israel nói rằng họ "kinh hãi" trước các báo cáo về việc người Falasha có thể được nhập cư vào Israel. Một lá thư than phiền rằng "những cách sống của dân này không khác bao nhiêu với cách sống của người Abyssini", "chuyện hôn nhân khác tôn giáo là chuyện thường tình giữa họ" và "họ có rất nhiều người mắc các chứng bệnh hoa liễu".

Người Do Thái Ethiopia nhập cư vào đất Israel với số lượng ít ỏi không trên vài chục người mỗi năm cho tới thập niên 1970. Sau khi quốc vương Haile Selassie bị lật đổ, ngày càng có những đòi hỏi của người Ethiopia tại Israel và các người Do Thái tại Mỹ ủng hộ họ để đòi đưa những người Falasha về Israel. Năm 1973, Giáo sĩ Ovadia Yosef, lúc ấy là trưởng giáo của phái Sephardi, ra một luật quan trọng qui định rằng "người Falasha là người Do Thái mà chúng ta có bổn phận cứu thoát họ khỏi bị đồng hoá, mau chóng đưa họ nhập cư Israel, giáo dục họ trong tinh thần luật thánh Torah của chúng ta, và biến họ trở thành những cộng sự trong công việc xây dựng đất thánh của chúng ta".

Menachem Begin thiện cảm với người Ethiopia hơn các tiền nhiệm của ông, và năm 1979 ông tuyên bố đẩy mạnh cuộc nhập cư của họ. Israel đã có thể đưa về một số ít người Do Thái để đổi lại việc họ cung cấp vũ khí cho chế độ Mác xít, nhưng thoả hiệp này bị tiết lộ năm 1978 đã phá vỡ thỏa thuận. Từ 1980, nhóm Mossad lập một đường dây lậu qua ngả Sudan. Do tình trạng áp bức thúc đẩy, và được lôi cuốn bởi các tin tức về đường dây nhập cư lậu tới Israel, một dòng người Do Thái Ethiopia như thác đổ về phía bắc. Dưới sức ép của Mỹ, Sudan cho phép một cuộc không vận khoảng 8 ngàn người Beta Israel trong Chiến dịch Moses, nhưng cuộc không vận này bị gián đoạn vì bị tiết lộ quá sớm. Phải đợi đến khi Mengistu sụp đổ, những người Do Thái còn lại mới được trở về với các thân nhân của họ ở Israel.

"Một nửa giấc mơ của tôi đã thành hiện thực" Tamir Tamiat nói. Ông là một giáo viên sinh tại vùng Gondar ở phía bắc Ethiopia và đã được đưa về Israel năm ông 16 tuổi trong Chiến dịch Moses. "Tôi luôn luôn mơ rằng tôi có thể tìm thấy Jerusalem như được mô tả trong Kinh thánh. Khi tôi đến nơi, tôi thấy nó đã bị phá. Giấc mơ không trở thành hiện thực".

Người Ethiopia không phải chịu những sự chà đạp nhân phẩm bằng việc xịt thuốc DDT như những người nhập cư phương Đông, nhưng họ phải chịu các điều sỉ nhục khác. Trước hết họ phải chịu luật của giới Do Thái chính thống buộc họ phải chịu sự cắt bì biểu tượng và nghi lễ dìm xuống nước như là một sự "đổi mới của Do Thái giáo"; nói khác đi, các giáo sĩ nghi ngờ tính chất Do Thái của người Ethiopia. Nhiều giáo sĩ từ chối cưới vợ người Ethiopia và chống lại mọi cố gắng chính thức nhìn nhận giới kessim (tư tế) của Ethiopia. Năm 1995, xảy ra vụ các viên chức y tế của Israel thường xuyên loại bỏ tất cả máu mà người Ethiopia hiến tặng bởi vì họ sợ nguy cơ nhiễm HIV.

Hơn 60 ngàn người Do Thái Ethiopia đang sinh sống tại Israel vẫn là những người nhập cư nghèo nhất và ít học nhất. Đa phần họ sống lây lất trong các công viên tạm bợ của các đoàn lữ hành cách ly với các trung tâm dân cư khác hay tại các khu vực giống như ổ chuột. Trên 10 phần trăm trẻ em Ethiopia đến từ Chiến dịch Moses đã bỏ học. Người Do Thái Ethiopia không có thế mạnh của số đông như những người Sephardim hay người Nga. Màu da của họ lập tức cách ly họ với phần còn lại của xã hội. Bến xe khách Tel Aviv là nơi qui tụ của các thanh niên Ethiopia, tại đây một số giết thời giờ bằng rượu, số khác trộm cắp hay sử dụng ma túy.

Những người có khả năng tiền bạc thì qua các đêm cuối tuần tại Soweto, một câu lạc bộ ở bãi trước của Tel Aviv. Hội trường rung chuyển với những nhịp nhạc Jamaica của Bob Mariey. Các bức tường dán đầy các bức hình tạo ảo giác của thần tượng Jamaica này và của Haile Selassie, "Con Sư tử Oai hùng của Chi tộc Judas" được người Rastafari coi là Thiên Chúa nhập thể. Vào một đêm thứ sáu, tôi đến câu lạc bộ Soweto lúc đã về khuya. Đa số những người vui chơi đã về nhà. Một ít thiếu niên đang tập khiêu vũ trước các tấm gương. Nhịp đập thình thình của bài hát của Marley, "Sư tử sắt của Zion" vang dội quanh tôi, nhưng đột nhiên, nghe giọng hát bằng tiếng Do Thái, nó mang một ý nghĩa mới và kỳ lạ.

Zion của Bob Marley không phải là Israel, nhưng là Ethiopia, và các con của anh không phải người Do Thái, nhưng là người da đen. Giống như ta đang nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc trong một tấm gương méo mó. Tên gọi của câu lạc bộ... Các bài hát trữ tình của Marley... Các thiếu niên Ethiopia này đang được đưa trở lại châu Phi. Họ không phải là một bộ phận của dân Do Thái đã về lại Đất Hứa của họ, cho bằng họ là một bộ phận của dân da đen lưu vong trên thế giới.

Chiến Dịch Solomon không phải là điểm kết thúc của cuộc lưu vong Ethiopia. Không lâu sau khi hoàn thành cuộc không vận 1991, người ta phát hiện ra rằng các cộng đồng người Beta Israel ở xa đã bị bỏ sót lại. Ngoài ra, Israel còn phải đối diện với tình trạng khó xử là phải làm gì với hàng ngàn người gọi là Falas Mora, các bộ tộc người Do Thái Ethiopia đã trở lại Kito giáo và đang mong trở về đoàn tụ với người thân của họ ở Israel. Họ vẫn còn sự gắn bó rất mạnh với Do Thái giáo, và khi một người thân đưa một người thân khác về, thì sẽ kéo theo vô số người Ethiopia khác có thể đòi hỏi quyền công dân của họ trên đất Israel.

Trên khắp thế giới có vô số những người giống như những người Do Thái Ethiopia, đòi hỏi quyền là thành viên của "Các bộ tộc đã mất" của Israel-mười bộ tộc mà Kinh thánh nói là đã bị tản mác khắp nơi khi vương quốc phía bắc (tách ra khỏi vương quốc phía nam của vua Solomon) bị quân Assyria thôn tính.

Hàng chục, có lẽ hàng trăm nhóm ở khắp nơi xa xôi gồm hàng chục triệu người tự nhận mình là dòng dõi của mười bộ tộc Israel. Họ là những người Patha, một bộ tộc các chiến binh Hồi giáo dòng Sunni sống rải rác dọc theo cả hai biên giới Afghanistan và Pakistan và đông đến 15 triệu người. Một số người Ibo ở Nigeria, gồm gần 20 triệu người, đa số theo Kito giáo, đã bị từ chối nhập cư trong tư cách là dòng dõi Israel. Nghiên cứu vào cuối thập niên 1990 cho thấy những người Lemba ở khu vực nam châu Phi, tự nhận mình là người Do Thái, có một tỉ lệ cao theo chỉ số DNA gọi là "Gen Conhen"

Việc phát hiện các bộ tộc đã mất của Israel không ngừng là điều hấp dẫn đối với người Do Thái. Một số người Israel, như nhóm gọi là Amishav (Dân Ta Trở về), tích cực tìm kiếm các bộ tộc đã mất và tổ chức cuộc nhập cư của họ. Vào đầu thập niên 1990, nhóm này đã dàn xếp cuộc cải đạo Do Thái cho những thành viên của bộ lạc Shinlung sống trên biên giới Ấn Độ-Miến Điện và giúp họ hội nhập vào Israel.

Nếu Ben-Gurion đã có lần lý luận rằng Israel phải chấp nhận bất cứ ai đủ liều lĩnh để tự xưng là người Do Thái, thì ngày nay các lãnh đạo Israel đang lo lắng về việc làm thế nào ngăn cản đoàn lũ những người nghèo khổ của thế giới. Dòng nhập cư hàng chục ngàn người không phải Do Thái giữa các người nhập cư từ Nga-khoảng 10 đến 50 phần trăm dân số nhập cư, tuỳ theo ai làm ước tính, đã mở lại các tranh luận về việc xác định ai là người Do Thái. Ngày càng có nhiều đòi hỏi phải xiết chặt luật hồi hương. Trong một bài báo trên tạp chí Jerusalem Report kêu gọi hạn chế nhập cư, tác giả Ze'ev Chafets hỏi: "Ai không phải là người Do Thái?"

Làn sóng nhập cư ồ ạt của đầu thập niên 1990 đã hầu như rút cạn những người Do Thái trong cảnh cùng quẫn. Các nhà quan sát đã bắt đầu nói đến "Kết thúc của thời Nhập cư". Nhiệm vụ cứu thoát người Do Thái của phong trào Phục quốc đã ít nhiều cũng hoàn tất. Phần còn lại là số dân Do Thái đã hòa nhập rất tốt ở thế giới phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, mà con số 6 triệu người Do Thái ở đây đông hơn hẳn so với dân số Do Thái tại Israel. Thành phố Do Thái lớn nhất trên thế giới không phải là Tel Aviv, nhưng là New York.

Các quan chức đặc trách vấn đề nhập cư Israel nói đến việc thuyết phục những người Do Thái thành đạt này rằng tuy họ không ở trong nguy hiểm về thể chất, họ đang đối diện với một đời sống "đau khổ tinh thần" vì sự đồng hóa liên tục. Một số nhà lãnh đạo Israel thậm chí còn dám gợi ý rằng Israel không chỉ cần những người Do Thái ở Mỹ phải tồn tại, nhưng cần người Do Thái ở Mỹ phải gắn bó với Israel để bảo tồn bản sắc Israel của mình. Hàng năm có không đến 20 ngàn người Do Thái tại Mỹ trở về Israel. Họ thường là những người hoạt động chính trị hay tôn giáo, hay những người không thể thích ứng. Trong ít năm gần đây, nhiều người trở lại nước Mỹ.

Trong Altneuland, Herzl tiên đoán rằng người Do Thái đã từng di cư đến Hoa Kỳ sẽ lại một lần nữa ra đi để trở về Palestine. Tuy nhiên, gần một thế kỷ sau, đa số người Do Thái tại Mỹ muốn ở lại để được hưởng một bầu khí bao dung tôn giáo, tự do dân chủ, và tư bản chủ nghĩa, dù phải trả giá bằng sự đồng hóa, hơn là trở về Israel. Trước sự xung đột trường kỳ với người Ả Rập, sự khắt khe của các giáo sĩ, và sự độc đoán của chính quyền, Đất Cơ hội đang tỏ ra hấp dẫn hơn Đất Hứa.