← Quay lại trang sách

- 7 - Nỗi đau của hòa bình

Những chiếc trực thăng Apache xuất hiện trên bầu trời Địa Trung hải giữa ban ngày. Chúng bắn các tên lửa về phía bờ Gaza suốt hơn một giờ, các tên lửa nổ tung tại các căn cứ của lực lượng an ninh Palestine, các văn phòng của phong trào Fatah, và cả các tàu nhỏ ọp ẹp của "hải quân" Palestine tội nghiệp.

Cuộc tấn công quy mô lớn chưa từng thấy kể từ ngày Palestine được quyền tự trị, là để trả đũa vụ hai lính trù bị Israel bị một đám quá khích Palestine sát hại tại thành phố Ramallah chỉ ít giờ trước đó, ngày 12 tháng Mười 2000. Tuy nhiên đây không chỉ là một đòn trả thù. Nó bộc lộ một sự giận dữ vô vọng; một sự nhìn nhận thất bại công khai. Bảy năm sau khi ký hiệp ước Oslo, Israel đang ném sức mạnh quân sự vào "đối tác hòa bình" của nó. Chỉ vài tuần trước, Israel vẫn còn coi các lực lượng an ninh Palestine như là những liên minh sống còn để ngăn chặn các "kẻ thù của hòa bình". Giờ thì họ là kẻ thù.

Từ văn phòng của ông tại bờ Gaza, Yasser Arafat nhìn ra biển như thể Israel đang gửi cho ông một lời cảnh báo thẳng thừng rằng tất cả những gì ông đã nhọc công thành đạt được từ ngày mà phái đoàn Palestine tại các cuộc hòa đàm Madrid năm 1991 đứng lên để nói bằng tiếng nói của chính mình, có thể bị tiêu tan hết. "Nhà nước" còn trong trứng nước của Arafat-với các bộ, các lực lượng an ninh, cờ và sân bay quốc tế, có thể bị san bằng trong nháy mắt.

Thế nhưng các phụ tá của Arafat thấy vị "Tổng thống" Palestine bình thản một cách lạ thường, thậm chí có vẻ thư giãn là đàng khác. "Giống như ông đang trở về với những ngày xa xưa ở Beirut" một phụ tá nói. "Tổng thống nhìn ra ngoài trời và lắc đầu. Quân an ninh thúc giục Tổng thống rời khỏi đó. Nhưng ông đáp: "Tất cả các anh có thể đi. Tôi sẽ ở lại". Tất cả chúng tôi đều ở lại. Ông tiếp tục ngồi tại bàn làm việc, gọi điện để hỏi xem điều gì đang xảy ra. Một số tên lửa rớt chỉ cách văn phòng vài trăm mét. Trong ít phút, hàng ngàn người tới quyết chí bảo vệ dinh tổng thống bằng lá chắn người, nhưng chúng tôi xin họ trở về nhà".

Vào lúc xảy ra vụ tấn công, Arafat đang gặp đặc sứ Liên Hiệp quốc Terje Larsen. "Tất cả tòa nhà rung chuyển. Larsen hoảng hồn và muốn chạy ra xe bọc thép của ông", một cận vệ của Arafat vừa nói vừa cười, khi chúng tôi ngồi uống cà phê tại một phòng trên lầu một của văn phòng Arafat tối hôm ấy. "Chúng tôi không sợ hãi. Người Israel mạnh hơn chúng tôi. Họ có thể mở đầu cuộc chiến, nhưng chỉ chúng tôi có thể quyết định kết thúc cuộc chiến và nếu có một cuộc chiến thì nó sẽ chỉ kết thúc ở Tel Aviv". Cho tới đêm hôm đó, sự bạo động đã nhận chìm Bờ Tây và Dải Gaza trong nửa tháng qua có thể đã là một nỗi đau khác (thậm chí dữ dội hơn) làm chặn đứng tiến trình hoà bình còn đang rất bấp bênh. Trước đó Arafat đã bị Israel tố cáo là không mạnh tay đủ để chặn đứng bạo động. Với vụ trực thăng bắn phá, người Israel muốn cho thấy rõ họ tin Arafat là động cơ chính đàng sau tình trạng bạo lực.

Bất chấp những nỗ lực to lớn của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn cản sự gia tăng các cuộc đổ máu, người Israel và Palestine bị mắc kẹt trong cuộc đối đầu không thể tránh thường được gọi là cuộc nổi dậy Al-Aqsa Intifada. Cuộc nổi dậy của Palestine là một sự phối hợp kỳ lạ giữa sự giận dữ mang tính nghi thức của các cuộc bạo động ném đá, các cuộc phục kích, các cuộc khủng bố chém giết, và sự hỗn loạn của một cuộc nội chiến. Các hậu quả của nó không thể nào lường trước được. Liệu cuộc nổi dậy có leo thang lên thành một cuộc chiến rộng lớn hơn, lôi kéo các quốc gia Ả Rập khác vào cuộc và dẫn đến nguy cơ sử dụng các tên lửa và vũ khí huỷ diệt hàng loạt hay không? Hay nó là một trận đánh cao điểm cuối cùng trước khi cả hai phía đã kiệt lực và chấp nhận một cuộc thương thảo không thể tránh?

Tình trạng rối loạn có vẻ như đẩy Trung Đông trở về thời kỳ thù nghịch ra mặt mà tưởng như đã được khắc phục với các thỏa ước Oslo năm 1993 và việc thiết lập quyền tự trị của Palestine và đưa Arafat về lại quê hương ông. Khi viết bài này, tháng Giêng 2002, các thống kê về số người chết đã vượt quá con số một ngàn trong mười sáu tháng rối loạn. Hơn ba phần tư số người chết là người Palestine, đa số là dân thường. Nhiều người chết là thanh thiếu niên. Các tuyên truyền chống Israel nổi lên trong khắp thế giới Ả Rập khi vệ tinh truyền hình Ả Rập chiếu các hình ảnh về cuộc chiến Palestine trực tiếp tới các máy truyền hình tại các gia đình.

Giai đoạn đầu của phong trào Intifada thường xuyên xảy ra những cuộc nổi dậy của quần chúng, với nhóm shebab, hay tuổi trẻ Palestine, dựng lên những rào chắn và ném đá vào các vị trí Israel. Các cuộc đụng độ này tạo cho Intifada những hình ảnh biểu tượng của sức mạnh, như cảnh David chọi với Goliath ở Faris Odeh, một cậu bé 12 tuổi ném đá xe tăng Israel tại Dải Gaza. Bất chấp những lời cảnh cáo của nhà trường, bị cha đánh và mẹ nài nỉ đừng đi ném đá, Faris vẫn quyết tâm trở thành một tử đạo, một shahid. Cậu đã đạt được ước nguyện khi cậu bị bắn chết tại ngã tư Kami mười ngày sau khi người ta chụp được tấm ảnh nổi tiếng. Muhammad al-Durrah, một cậu bé khác cùng tuổi, đã trở thành một biểu tượng khác nữa mặc dù cậu không có ý định trở thành tử đạo. Những thước phim xé lòng về cái chết của cậu ngày 30 tháng Chín 2000 diễn lại cảnh cậu run rẩy hoảng sợ khi cha cậu mặc dù cố gắng hết sức nhưng đã không thể che chắn cho cậu khỏi bị trúng đạn của quân lính Israel đang bắn trả các tay súng Palestine. Tên cậu đã trở thành nguồn cảm hứng cho các bài hát và bài thơ trong khắp thế giới Ả Rập.

Phong trào kháng chiến Al-Aqsa Intifada mau chóng phát triển thành một cuộc kháng chiến gần giống với cuộc kháng chiến vũ trang cũ, với các ổ phục kích và bắn tỉa trong các khu bị chiếm đóng, và các vụ gài bom tự sát chống lại các thường dân tại Israel. Lái xe ban đêm trên các con đường tại Bờ Tây và Dải Gaza gần như không thể nào được. Các khu định cư cô lập tại Dải Gaza đã trở thành mục tiêu tấn công thường xuyên của quân Palestine. Thường xuyên có các vụ bắn trả lẫn nhau bằng súng máy, súng cối và xe tăng qua thung lũng giữa Gilo, một khu vực rộng của người Do Thái trong phần phía đông Jerusalem bị sát nhập, và Beit Jala, một làng của người Kito giáo ở ngoài Bethlehem.

Israel đã đáp trả bằng đủ loại biện pháp, từ dựng các rào chắn bảo vệ tại các con đường có nguy hiểm bị tấn công đặc biệt, cho tới việc trừng trị tập thể những người Palestine, như "đóng cửa" hạn chế di chuyển vào và ra thành phố của họ. Hàng ngàn cây bị nhổ tung gốc kể cả cây ôliu, biểu tượng của hoà bình. Israel đã sử dụng hỏa lực vượt trội của họ để chặn đứng những người bắn vào các mục tiêu Do Thái, và đã trả đũa bằng việc nã rốc két vào các toà nhà có dính líu với các lực lượng an ninh Palestine-là chính lực lượng mà Israel đòi hỏi phải có hành động chống lại "bọn khủng bố". Tính đến cuối năm 2001, chính sách "tiêu diệt có chọn lọc" của Israel-người Palestine gọi là "ám sát"-đã lấy đi sinh mạng của hơn 40 người bị gọi là các phần tử khủng bố và các trùm khủng bố, và khoảng một chục thường dân.

Tháng Mười Một 2000, một viên chức của tể chức Ân xá Quốc tế thẳng thừng cảnh cáo Israel: "Có một hình thức vi phạm nhân quyền thô bạo có thể bị khép vào tội phạm chiến tranh". Nhóm Quan sát Nhân quyền có trụ sở tại Nữu ước quy lỗi chủ yếu cho Israel vì những lạm dụng của họ trong việc "sử dụng sức mạnh không cần thiết chống lại những người biểu tình không có vũ khí, những cuộc giết người phi pháp, những cuộc bắn trả bừa bãi và quá mức cần thiết chống lại các cuộc tấn công của Palestine, và việc cố tình làm ngơ không bảo vệ thường dân Palestine chống lại các cuộc tấn công của những người định cư Israel". Tổ chức này cũng tố cáo Israel vi phạm nghiêm trọng Điều 4 Công ước Geneva về việc đối xử với thường dân tại các vùng bị chiếm đóng. Người Palestine cũng bị lên án, nhưng với giọng điệu nhẹ hơn, trong các vụ tấn công thường dân Israel, đặc biệt các vụ bắn vào các người định cư và các vụ gài bom ở Israel.

Thay vì chấm dứt một thế kỷ xung đột giữa người Do Thái và Ả Rập, thỏa thuận Oslo có vẻ như chỉ đưa cuộc chiến trở lại chiến trường cũ sau khi nó đã vượt ra ngoài biên giới Israel trong 5 thập niên. Trong cố gắng thiết lập quyền tự trị của Palestine, vùng đất Bờ Tây đã trở nên "Lebanon hóa" thành một mảng chắp vá loạn xạ các quận của Israel và của Palestine, với vô số các nhóm vũ trang của cả các người định cư Do Thái lẫn các phe nhóm Palestine.

Tại Lebanon và trước đó tại Jordan, người Palestine đã tạo ra một kiểu "nhà nước trong nhà nước" và giúp đẩy nhanh một cuộc nội chiến hỗn loạn. Với thất bại của Ehud Barak trong cuộc bầu cử tại Israel năm 2001, Ariel Sharon và Yasser Arafat, hai địch thủ chính của cuộc chiến Lebanon 1982, cả hai nay đã ở tuổi bảy mươi, một lần nữa lại phải đứng trước sự chú ý của thế giới. Các cuộc đánh bom tự sát, một chiến thuật được nghĩ ra lần đầu tiên tại Lebanon, nay đã trở thành chuyện thường ngày.

Cảnh Israel rút quân khỏi miền nam Lebanon hồi đầu năm, sau gần hai thập niên chiếm đóng, đã khiến nhiều người Palestine nghĩ rằng họ cũng có thể gây đủ thiệt hại cho Israel để buộc họ phải triệt thoái khỏi các lãnh thổ đã chiếm từ năm 1967. Chắc hẳn người Palestine không có các loại súng máy, pháo binh và xe tăng như họ đã có ở Lebanon. Nhưng họ có đủ vũ khí khiến cho chính quyền Do Thái, lần đầu tiên kể từ khi họ chiếm vùng Bờ Tây và Dải Gaza, đã buộc phải liên tục sử dụng các vũ khí hạng nặng như xe tăng, trực thăng gắn súng máy và thậm chí máy bay phản lực.

Đến cuối năm 2001, chính phủ của Ariel Sharon tuyên bố chính quyền Palestine là một thực thể đỡ đầu cho khủng bố và gạt bỏ vai trò của Arafat. Xe tăng Israel bao vây dinh thự của Arafat ở Ramallah và bắn thẳng vào văn phòng ông, tỏ ý đe dọa lật đô ông. Cảnh này gợi nhớ cảnh bao vây Beirut. Có một khác biệt quan trọng giữa tình huống hôm nay và cuộc đối đầu giữa Sharon và Arafat tại Lebanon năm 1982: người Palestine đang chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy tại chính quê hương họ. Cho dù chính quyền Palestine có khuyết điểm, nó là chính quyền hợp pháp trong và ngoài nước. Cái giá chính trị phải trả cho việc đẩy ông Arafat ra khỏi Gaza đối với Israel sẽ lớn hơn hồi ông bị đẩy ra khỏi Beirut. Bất luận thế nào, loại trừ Arafat không có nghĩa là loại bỏ được vấn đề Palestine.

Thế là bây giờ Israel là một anh khổng lồ khập khiễng, rất mạnh về quân sự, nhưng bị hạn chế về chính trị để có thể gây một cuộc chiến ngã ngũ. Chiến dịch của Israel gồm sự ngăn chặn và đánh trả, đồng thời tố cáo người Palestine là khủng bố. Mặc dù cuộc chiến đã quá thê thảm, đẫm máu và kinh hoàng, nhưng vào lúc viết bài này, sự đối đầu vẫn còn là một cuộc chiến tiêu hao dần. Mục tiêu của cả Arafat lẫn Sharon không phải là nhằm chiếm đất, nhưng là làm suy yếu dần ý chí chính trị của kẻ thù rồi loại họ khỏi quyền lực.

Tại sao sự việc đã có thể đi sai như vậy? Tại sao niềm hy vọng phát sinh từ cái bắt tay lịch sử giữa Arafat và Yitzhak Rabin trên sân cỏ của tòa Bạch Ốc lại biến thành thất vọng? Thỏa ước Oslo đã bị băm nát ra hàng trăm mảnh. Các tập ghi chép của tôi từ sau nghi lễ ký thỏa thuận bây giờ chứa đầy những chi tiết về các cuộc tàn sát, các vụ đánh bom tự sát, bạo động, chém giết, bắn trả lẫn nhau, và vụ ám sát chính ông Rabin. Các lý do có thể kể ra là thái độ đối xử cứng rắn của chính quyền Israel đốì với người Palestine, sự tước đoạt không thương tiếc vùng đất bị chiếm đóng cả khi nó thương lượng hòa bình, tính không đáng tin cậy của Arafat và chính quyền chuyên chế hỗn loạn của ông, việc sử dụng bạo lực và thái độ cuồng tín của chính trị tôn giáo. Chữ viết và tinh thần của thỏa ước Oslo đã liên tục bị vi phạm từ mọi phía-các phương tiện truyền thông Palestine liên tục tuyên truyền chống Israel, trong khi Israel từ chối thả các tù nhân mà nó đã hứa thả; Arafat không thực lòng chấm dứt khủng bố, nhưng với sự mở rộng các khu định cư và từ chối các cuộc "tái bố trí", Israel có vẻ như không muốn chấm dứt việc chiếm đóng. Danh sách các lý do còn rất dài.

Trong cảnh giết chóc lẫn nhau một cách thê thảm, Israel càng có những nhân nhượng thì con số thường dân Israel thương vong càng tăng, trong khi phía thường dân Palestine phải chịu những biện pháp an ninh ngộp thở và bị xiết chặt kinh tế. về nhiều phương diện, "tiến trình hòa bình" càng kéo dài thì sự khủng bố càng trở nên ghê sợ và việc chiếm đóng càng làm cho ngột ngạt. Các mức sống của người Palestine xuống rất thấp do hậu quả của các hạn chế và trừng phạt của an ninh Israel. Không ai được nếm cảm lâu "hương vị của hoà bình" Hòa bình trở thành một nỗi đau.

"Tuyên bố về Nguyên tắc" giữa Israel và Palestine được thương lượng kín tại Oslo và được ký công khai tại Hoa Thịnh Đốn năm 1993 là bước đột phá lớn vào thời ấy, nhưng chúng không đưa ra giải pháp dứt khoát cho cuộc xung đột cơ bản giữa Israel và Palestine. Các tuyên bố đầy thiện chí nhưng mơ hồ về việc giải quyết các bất đồng bằng các phương tiện hòa bình cho thấy chúng là một mỏ neo rất yếu trong cơn bão của bạo lực cực đoan.

Trong các thỏa ước tại Trại David năm 1978, Israel và Ai Cập đã đề ra nguyên tắc cơ bản cho hòa bình-Israel rút hoàn toàn ra khỏi Sinai và đồng ý về các phương thức trong các cuộc thương thảo tiếp theo. Nhưng thỏa ước Oslo chỉ đề ra các phương thức ban đầu-rút các lực lượng Israel khỏi phần lớn Dải Gaza và một khu vực xung quanh Jericho, một sự "tái bố trí từng giai đoạn" ra khỏi các mảnh đất không xác định ở vùng Bờ Tây, và một thời biểu cho các cuộc dàn xếp trong tương lai. Nhưng Oslo không cho thấy làm thế nào có thể đạt được một nền hòa bình lâu dài. Các vấn đề khó nhất địa vị của Jerusalem, biên giới của "thực thể" Palestine (và các vấn đề liên quan như việc kiểm soát nguồn nước), số phận các khu định cư và tương lai của người tị nạn-tất cả các vấn đề này được để lại cho một thỏa thuận về vị trí cuối cùng trong tương lai. Phương pháp từng giai đoạn này là một mối đe dọa ngầm rằng Israel có thể ngưng hay thậm chí đảo ngược tiến trình bất cứ lúc nào.

Oslo cố ý mập mờ. Nó gợi ý về một nhà nước Palestine tương lai, nhưng nó để lại nhiều điều không được nói đến để đảng Lao động có thể hiểu nó chỉ như là một đề nghị tự trị được chính phủ Likud chấp thuận tại Trại David. Israel cho Palestine một "khoản tiền cọc"-dưới dạng nhìn nhận PLO và rút khỏi Gaza và Jericho-nhưng cái "giá" cuối cùng chưa được quyết định. Nó cũng giống như thỏa thuận bán nhà, nhưng người chủ mới đã vào nhà mà chưa thỏa thuận được giá tiền chính thức phải trả.

Ý muốn ở đây là xây dựng sự tin cậy. Ngược lại, vì mỗi bên đều sợ rằng một sự nhượng bộ nho nhỏ lúc này có thể có nghĩa là một sự thua to trong các cuộc đàm phán về số phận cuối cùng, nên tiến trình thương lượng ngày càng tạo ra nhiều sự nghi ngờ lẫn nhau. Sự mơ hồ của thỏa ước Oslo có nghĩa là nó trở thành con tin trong tay các phe cực đoan của cả hai phía, các phe này vì nghĩ rằng mình bị phản bội nên đã bắt đầu phá hoại thỏa ước và từ 1994 đã bắt đầu tiến hành các cuộc tấn công và trả đũa.

Khía cạnh đáng lo ngại nhất của Al-Aqsa Intifada là nó nổ ra quá sớm sau khi Israel tiết lộ kế hoạch hòa bình lâu dài của mình. Phía Palestine từ lâu đã than phiền về sự dậm chân tại chỗ của Israel trong các cuộc thương lượng và cho rằng sự trì hoãn này làm cho Palestine thất vọng, nên họ đã làm hỏng kế hoạch khi Israel đưa ra những đề nghị quảng đại nhất của họ.

Trong ba tuần của tháng Bảy 2001, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đưa Ehud Barak và Arafat trở lại Trại David để đàm phán về một thỏa thuận cuối cùng và lâu dài về hòa bình, đỉnh cao của những năm tiến trình Oslo. Clinton hy vọng đánh dấu nhiệm kỳ tổng thống của ông bằng việc tái tạo lại phép mầu của Jimmy Carter khi ông này đứng ra làm trung gian giữa Israel và Ai Cập và đã dẫn đến các thỏa thuận của Trại David năm 1978. Nhưng ngược lại, vô tình Clinton đã đổ thêm dầu vào lửa dẫn đến sự đổ vỡ của các thỏa ước Oslo mà chính ông đã chủ trì lễ ký kết tại tòa Bạch Ốc bảy năm trước. Các nhà chính trị, ngoại giao, và các nhà nghiên cứu sẽ còn phải tranh luận nhiều năm để biết điều gì đã sai ở Trại David. Có phải là vì chiến thuật đàm phán dở, xung đột tính cách, Israel muốn đánh lừa, hay là vì phía Palestine không muốn từ bỏ huyền thoại đấu tranh của họ?

Vào cuối cuộc họp thượng đỉnh, Israel đã gợi ý, nhưng không chính thức đề nghị, một "cơ sở để thảo luận" đó là họ sẽ trao trả khoảng 91 phần trăm vùng Bờ Tây, bù cho người Palestine phần đất tại sa mạc Negev tương đương với 1 phần trăm vùng Bờ Tây. Vào ngày cuối cùng, hai bên tập trung thương thảo về vấn đề nhạy cảm là chia Jerusalem, mà từ trước đến giờ Israel vẫn coi là thủ đô không thể chia cắt của mình. Đề nghị chính là dành cho Palestine chủ quyền trên khu vực Ả Rập bên ngoài Jerusalem, và "quyền tự trị hoạt động" ở khu vực trong Jerusalem. Cũng có các đề nghị cho Palestine chủ quyền tại hai trong số bốn khu của Thành cổ. Núi Đền Thờ sẽ thuộc chủ quyền của Israel nhưng Palestine được "quyền cai quản thường xuyên" đối với Haram al-Sharif. Theo suy nghĩ của Israel, đây quả là một sự nhượng bộ quá lớn rồi, nhưng phía Palestine bác bỏ các đề nghị này. Theo một bài báo Palestine, việc Arafat bảo vệ các nơi thánh của Hồi giáo đã làm cho phái đoàn đàm phán Palestine chảy nước mắt khi ông bác bỏ sức ép của Clinton qua những lời sau: "Các ông muốn đến dự đám tang của tôi sao? Tôi sẽ không từ bỏ Jerusalem và các nơi thánh". Đặc sứ Mỹ Dennis Ross thì mô tả các sự kiện này theo một nhãn quan khác, ông nói rằng trong khi đàm phán về Núi Thánh, Arafat đã thẳng thừng bác bỏ quyền của Israel đốì với các nơi thánh, đến độ tuyên bố rằng đền thờ của người Do Thái đã được xây tại Nablus chứ không phải tại Jerusalem.

Clinton rõ ràng đổ lỗi sự thất bại cho Arafat, và ca ngợi lòng can đảm của Barak trong việc phá vỡ những cấm kỵ chính trị Israel. Còn phía Palestine thì cãi lại rằng đề nghị của Israel chỉ là một sự đánh lừa với cái "vỏ bọc ngọt ngào" Con số 91 phần trăm đất bị chiếm đóng có thể rất ấn tượng, nhưng người Palestine cho rằng con số thật có phần thấp hơn bởi Israel đã không tính các phần đất của Jerusalem, phần đất trước kia không thuộc bên nào, và một mảnh nhỏ của khu đất lồi Latrun mà Israel đã chiếm vào cuối cuộc chiến 1967. Hơn nữa, các khu định cư, các con đường quân sự và các trạm canh có nghĩa là Bờ Tây sẽ bị chia thành ba "quận" riêng biệt.

Phía Palestine không chịu nhượng bộ trong việc đòi Israel triệt thoái hoàn toàn khỏi các lãnh thể bị chiếm năm 1967, kể cả đông Jerusalem. Họ nghĩ họ đã tỏ ra linh động khi đồng ý có những điều chỉnh về biên giới để tính đến các khu định cư, nhưng với điều kiện Israel cũng bù lại một phần đất tương đương hay có chất lượng tương đương, theo tỷ lệ 1:1 chứ không phải 1:9. trong cổ Thành, phía Palestine đồng ý Israel được chủ quyền tại Khu Do Thái. "Bức tường Than khóc" nghĩa là khu vực cầu nguyện sát nơi đó, sẽ thuộc quyền Israel nhưng phần còn lại của bức tường ở phía tây của Hararn al-Sharif sẽ thuộc quyền Palestine. Ngoài ra, Palestine phải có chủ quyền hoàn toàn trên tất cả núi thánh, vấn đề gay cấn khác là số phận các dân tị nạn Palestine, cũng chỉ được nhắc đến sơ qua trước khi Trại David đổ vỡ một cách đáng tiếc.

Một năm sau vụ Trại David, theo một báo cáo của Robert Malley, một phụ tá đặc biệt của Clinton về các vấn đề Ả Rập-Israel và của Hussein Agha, một cây viết về vấn đề Palestine, đây là một cơ hội bị bỏ lỡ “không phải có ý đồ, nhưng là một sai lầm, một toan tính sai hơn là do ý đồ xấu”

Barak đã thúc đẩy có một cuộc họp thượng đỉnh sớm dựa trên cơ sở được ăn cả ngã về không, đồng thời ông cảnh cáo phía Palestine rằng chỉ có hai con đường: hoặc là thỏa thuận hay là đốì đầu. Cung cách thẳng thừng của Barak không có lợi. Con người từng được các đồng nghiệp Israel tặng cho biệt danh là "Napoleon" này từ chối thương lượng tay đôi với Arafat, cũng từ chối một cuộc đàm phán ba bên trong đó có Tổng thống Clinton. Barak muốn đi vào đàm phán giống như ông tiến hành các chiến dịch biệt kích trước kia của ông-di chuyển bí mật rồi bất ngờ tấn công chớp nhoáng với lực lượng hùng hậu khiến quân địch không kịp trở tay.

Trong lộ trình chuẩn bị cuộc họp thượng đỉnh, Barak cố hết sức để tỏ ra cứng rắn trong dáng vẻ bề ngoài và lời nói. Ban dầu ông không nhắc gì tới người Palestine và tìm cách theo đuổi các cuộc thương lượng ngầm với Syria. Khi đề cập đến vấn đề Palestine, ông từ chối thực thi cuộc tái bố trí từng phần như chính phủ trước của thủ tướng Benjamin Netanyahu đã hứa, và thậm chí rút lại một lời hứa trao trả ba làng gần Jerusalem cho người Palestine. Chính vì ông đã sẵn sàng có một sự nhân nhượng quan trọng cho thoả ước cuối cùng, nên Barak không muốn phí phạm đạn dược vào các trận đánh lẻ tẻ dọc đường.

Khi ông tung ra đề nghị của ông, phía Palestine tỏ ra bị bất ngờ và sợ mắc bẫy. Arafat vốn nghi ngờ thái độ diều hâu của Barak, nên luôn luôn ngại không muốn đến Trại David và đã xin có thêm thời gian “chuẩn bị” vì phía Palestine nói họ sợ rằng nếu thất bại sẽ dẫn tới sự bùng nổ. Arafat đã yêu cầu có một "lưới an toàn" dưới dạng một sự bảo đảm của Mỹ rằng kế hoạch tái bố trí bị tạm hoãn sẽ đuợc thực thi nếu cuộc đàm phán thất bại, nhưng Barak lại đòi hỏi một cuộc thương lượng sòng phẳng, không quanh co. Clinton cũng ý thức được các rủi ro nhưng vẫn ủng hộ quan điểm của Israel.

Phía Palestine đã làm cho Mỹ và Israel tức giận vì họ không đưa ra một đề nghị rõ ràng nào của phía họ cho các đề nghị sẵn sàng của Israel. Có một lúc, theo Malley và Agha, Clinton trách Arafat: "Nếu người Israel có thể có những nhượng bộ mà ông không thể, tôi sẽ phải về nhà thôi. Ông ở đây đã mười bốn ngày và ông đã nói không với tất cả các đề nghị. Điều này sẽ có những hậu quả; thất bại sẽ dẫn tới chấm dứt tiến trình hòa bình... Chúng ta đành để cho hỏa ngục hoành hành và sống với các hậu quả".

Sau thất bại ở Trại David, Clinton đã cố gắng cứu vãn những gì còn lại trong vai trò trung gian của ông. Cuối tháng Chín, cảm thấy rắc rối sắp nổ ra, Clinton gọi điện cho Arafat và bảo ông này rằng ông sắp sửa đưa ra một đề nghị cải thiện đề nghị tại Trại David. Nhưng vấn đề Jerusalem đã bị gạt ra ngoài. Nó tạo ra một bầu khí cuồng tín tôn giáo nguy hiểm và thái độ hoài nghi chính trị. Việc bạo động bùng nổ chỉ còn là vấn đề thời gian. Ariel Sharon, lãnh tụ đảng Likud đối lập, đã giúp châm ngòi nổ và trớ trêu thay, đó lại chính là động cơ giúp ông lên nắm quyền. Ông tuần hành đến Haram al-Sharif của Jerusalem ngày 28 tháng Chín 2000 để đòi hỏi rằng Israel không được nhường Núi Thánh cho Arafat và tùy tùng của ông. Đeo kính đen, Sharon tự cho phép mình diễn vai hề một lúc khi ông nói với một đội ngũ làm truyền hình rằng ông không khiêu khích người Palestine, ông đến để tìm kiếm "hòa bình."

Sharon được hộ tống bởi khoảng một ngàn sĩ quan cảnh sát. Đối với người Palestine, cuộc "viếng thăm" này giống như là một cuộc xâm lăng hơn là một cuộc tham quan du lịch. Lý luận rằng Sharon có thể được hộ tống bởi một lực lượng cảnh sát hùng hậu như thế hẳn là phải có sự chấp thuận của Barak, nên họ lập tức đứng dậy "bảo vệ" Al-Aqsa chống lại cuộc tấn công chính trị của Sharon, và cảnh sát Israel đã mạnh tay giết chết bốn người Palestine trong cuộc bạo động vào giờ cầu nguyện ngày thứ sáu sau chuyến viếng thăm.

Phong trào Al-Aqsa Intifada được khai sinh. Cuộc xung đột quốc gia giữa Israel và Palestine giờ đây giống như một cuộc thánh chiến. Người ta vẫn còn có thể tranh cãi là có phải Arafat, theo như phía Israel nói, đã cố tình châm ngòi nổ cho làn sóng bạo động, hay có phải Intifada là một sự bùng nổ bột phát và phản ứng mạnh của Israel đã biến nó thành một làn sóng bạo động hay không. Theo nhóm nhân quyền Israel BTselem, 279 người Palestine, hầu hết là dân thường, đã bị giết trong ba tháng nổi dậy, so với 41 người Israel bị giết, khoảng một phần ba trong số này là các lực lượng an ninh.

Không mấy ai nghi ngờ rằng, một khi Intifada đã bắt đầu, Arafat chắc chắn sẽ tìm cách khai thác sự giận dữ của người Palestine và thậm chí kích động nó bằng những lời hô hào nảy lửa trên truyền thanh và truyền hình. Arafat đã phải đi trên sợi dây căng thẳng giữa cơn giận dữ của dân ông và sự thất vọng của Israel. Cuộc nổi dậy mang những nguy cơ to lớn, nhưng cũng đem đến những cơ hội.

Ở tuổi 71, Arafat đã lấy lại được sự tinh anh nơi mắt ông. Trước đó, trông ông có vẻ ngày càng tàn tạ, môi dưới ông run rẩy như bị bệnh Parkinson và những công tác quân sự của ông trông như những gánh nặng vô lý đè trên bộ khung của một ông già ốm yếu. Tiếng tăm của con người từng được nhận những tước hiệu như "Tổng thống", "Biểu tượng" đã lu mờ quá nhanh. Ông bị chôn chân trong một chỗ giống như một ngôi làng Bantu trên đất Palestine, giống như những vết da báo của các khu vực tự trị ở lác đác trên đất Israel vẫn còn nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội Israel. Nhưng nhờ cuộc nổi dậy Al-Aqsa Intifada, Arafat phần nào lấy lại được uy quyền trước kia của ông. Bây giờ ông làm việc cùng với dân tộc bị thất vọng của ông; ông không còn bị tố cáo là một kẻ hợp tác với Israel.

Có một thời gian, các nỗ lực đàn áp bằng vũ lực của Israel, cái chết của quá nhiều thanh niên Palestine, và sự quy lỗi cho Sharon về việc châm ngòi Intifada, đã giúp làm dịu bớt các lời chỉ trích thái độ của Arafat tại Trại David. Ngoại trưởng Anh Robin Cook, người đã vượt qua Dải Gaza vào đêm xảy ra cuộc tấn công bằng trực thăng của Israel, rất ấn tượng trước sự hiện diện của Arafat. "Ông rất tập trung, rất kiên quyết, rất dũng cảm" Cook kể lại.

Trong thế giới Ả Rập, các đám đông phản đối đổ ra các đường phố để bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với người Palestine. Một số người còn kêu gọi mở một cuộc chiến nữa với Israel. Các quốc vương, thái tử và tổng thống của thế giới Ả Rập là những đảm bảo cho người Palestine và họ đã bày tỏ tình đoàn kết với người Palestine. Tại một cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp tại Cairo, cuộc họp đầu tiên từ sau Cuộc chiến Vùng Vịnh, họ tố cáo Israel, chỉ trích phương Tây, và mau chóng mở hầu bao một lần nữa để hỗ trợ Arafat. "Sự giận dữ của thế giới Ả Rập là một tấm thẻ mạnh cho người Palestine" một phái viên cao cấp Palestine nói.

Cái giá mà Arafat phải trả cho cuộc nổi dậy là phải mất một đối tác thương thảo là Israel, và sự ra đi của một tổng thống Mỹ vốn hết sức quan tâm tới vấn đề hòa bình Trung Đông cho tới những ngày cuối nhiệm kỳ tổng thống của ông. Sau này, Arafat sẽ phải đối diện với vấn đề làm thế nào chấm dứt phong trào Intifada mà không bị tố cáo là phản bội.

Phía sau cơn giận dữ của Intifada, các cuộc thương thảo giữa Israel và Palestine vẫn cố gắng tiếp tục. Tháng Mười Hai 2000, Bill Clinton ném con súc sắc lần cuối bằng việc đưa ra những đề nghị mới của ông về hòa bình. Theo đề nghị cứu vãn này, người Israel sẽ rút khỏi từ 94 đến 96 phần trăm lãnh thổ Bờ Tây và bù lại họ sẽ nhận một phần đất tương đương từ 1 đến 3 phần trăm-tương đương với một tổng số 97 phần trăm. Số 3 phần trăm cân đối sẽ tính vào "con đường an toàn" giữa Bờ Tây và Dải Gaza dưới sự kiểm soát của Palestine. Người Israel sẽ rút từng giai đoạn, lãnh thổ Palestine sẽ là "phi quân sự" và một lực lượng quốc tế sẽ được triển khai để tạo sự yên tâm.

Ông đề nghị chia Jerusalem trên cơ sở phần nào là Do Thái sẽ thuộc Israel, và phần nào là Ả Rập sẽ thuộc Palestine. Điểm nòng cốt là Haram al-Sharif sẽ thuộc chủ quyền Palestine, với Bức tường phía Tây thuộc chủ quyền Israel. Cũng sẽ có những lời nhìn nhận tính chất linh thiêng cho người Do Thái đối với "Nơi Cực Thánh" nằm phía dưới Haram al-Sharif, một sự nhìn nhận bị người Palestine bác bỏ. Các dân tị nạn Palestine sẽ có quyền trở về "quê hương" của họ, nhưng việc họ đi vào đất Israel sẽ tùy thuộc quyết định của Israel-một cách nói khôn khéo rằng Israel sẽ chỉ giữ lại một con số tượng trưng. Mọi người tị nạn sẽ được đền bù và trợ giúp từ cộng đồng quốc tế.

Phía Israel đồng ý với đôi chút dè dặt. Sau một chút trì hoãn, Arafat cũng đồng ý, nhưng câu trả lời của ông kèm theo các điều kiện khiến một số viên chức Mỹ hiểu đó là một lời nói "Không" Tháng Giêng 2001, các nhà thương thuyết Israel và Palestine họp nhau tại Taba và báo cáo là đã đến rất gần một thoả ước cuối cùng. Tuy nhiên lúc ấy Barak đã tổ chức một cuộc bầu cử sớm và trên thực tế ông đã là một thủ tướng sắp mãn hạn. Arafat đã không làm gì để cứu chính phủ Lao động. Tháng Hai, Ariel đắc cử với một đại đa số phiếu có một nhiệm vụ rõ ràng là bác bỏ các đề nghị ở Trại David và Taba. Không hiểu Arafat có biết trước được rằng đây là hậu quả tất yếu của cuộc khủng hoảng mà ông đã khơi mào hay không?

Nhiều người Palestine tỏ ra bất cần. Từ "Intifada" mang nghĩa của sự "giũ bỏ" Nhiều người Palestine cảm thấy được trút khỏi gánh nặng sự mong đợi của thế giới rằng họ phải tỏ ra như thể có hoà bình với Israel, bất chấp sự thật là Israel vẫn tiếp tục mở rộng các khu định cư, hạn chế sự di chuyển của người Palestine, giành phần nước sạch, và tiếp tục đối xử với người Ả Rập với thái độ kẻ cả. “Cuộc nổi dậy lần đầu tiên của Intifada là nhằm buộc Israel vào bàn thương nghị” một đồng sự Palestine giải thích, "lần này là để buộc họ triệt thoái khỏi các nơi chiếm đóng".

Giọng nói oang oang của Motta Gur từ xa vang lại có một sức truyền cảm mãnh liệt mãi cho tới tận hôm nay, nhiều thập niên sau khi ông phát thanh thông tin kỳ diệu từ Bộ Tư lệnh Israel: "Har ha-Bayt he-yadeynu Har ha-Bayt be-yadeynu..." "Núi Thánh đã về tay chúng ta... Núi Thánh đã về tay chúng ta..." Đó là một ngày ghi đậm nét trong ý thức của người Israel, là đỉnh điểm nhiệm mầu của một cuộc chiến phi thường, là ngày mà ngay cả những người Do Thái thế tục nhất cũng phải cảm thấy rằng Thiên Chúa đang mỉm cười với họ. Trong sáu ngày năm 1967, người Israel đã đi từ mối lo âu thăm thẳm của một cuộc tàn sát sắp ập xuống trên họ, đến một đỉnh cao lâng lâng của sự hoàn thành lời hứa tiên tri về cuộc khôi phục Jerusalem cho người Do Thái.

Đoạn ghi âm thông điệp của Gur được phát lại hằng năm vào ngày kỷ niệm Cuộc chiến Sáu Ngày, gọi là "Ngày Jerusalem." Các lời nói của viên tướng từng dẫn đội quân nhảy dù tiến vào cổ Thành đã trở thành một phần trong sưu tập các biểu tượng về những giờ phút hào hùng nhất của Israel, giờ phút rõ ràng và chắc chắn, khi tất cả đất nước cùng nhất trí về điều gì là đúng và điều gì là sai. Một bức ảnh chụp nổi tiếng thời đó cho thấy hình bộ trưởng quốc phòng, tướng Moshe Dayan, đầu đội nón cối, đang từ cổng Sư tử uy nghi tiến lên Via Dolorosa, bên cạnh là thủ tướng Yitzhak Rabin, và thiếu tướng Uzi Narkiss, chỉ huy trưởng tuyến giữa. Một hình khác cho thấy vị giáo sĩ của quân đội, Shlomo Goren, hiên ngang thổi chiếc kèn tù và shofa tại Kotel, từ nay sẽ không còn phải gọi là "Bức tường Than khóc" nữa. Bây giờ nó là đối tượng của sự hân hoan. Hình ảnh được yêu thích nhất của độc nhất vô nhị ấy, mà nay vẫn còn được bán làm bưu ảnh trên các góc phố ở Israel, là bức tranh biểu tượng của những quân lính nhảy dù dày dạn chiến trường, tay cầm nón cối và mắt hướng lên cao với sự tôn kính nhìn lên công trình kiến trúc nguy nga của Herod nay chỉ còn lại một bức tường. Họ là những người chiến thắng hiên ngang nhưng khiêm tốn, không phải những người khóc lóc cầu nguyện; họ là những chiến binh làm công việc của Thiên Chúa.

"Chúng ta đã trở về nơi cực thánh của quê hương chúng ta, và chúng ta sẽ không bao giờ xa cách nó. [...] Chúng ta đến không phải để chiếm đất thánh của những người khác, cũng không phải để hạn chế các quyền tôn giáo của họ, nhưng để bảo đảm sự thống nhất của thành thánh và để sống hòa hợp với những người khác trong thành thánh" Dayan đã tuyên bố ngày hôm ấy như thế. Ít phút trước đó, ông đã quan sát truyền thống ngàn đời của người Do Thái là nhét vào các vết nứt của tường các mảnh giấy trên có viết các lời cầu khẩn cùng Thiên Chúa. Trên miếng giấy của ông, ông viết: "Cầu cho Hòa Bình ngự xuống trên Toàn thể Nhà Israel".

Nhưng thực tế đã không diễn ra theo ước nguyện của ông. Tuy lúc đầu không thấy, nhưng cuộc đại thắng của người Do Thái năm 1967 đã biến thành một cuộc xâm chiếm quân sự lâu dài và tiêu hao. Khác với năm 1948, người Palestine đa số ở trong các thành phố và làng mạc của họ. Trên đất Israel có rất đông người Palestine và lòng họ chất chứa sự căm thù. Thất bại của các nước Ả Rập năm 1967 đã tạo ra những nhóm du kích cách mạng Palestine. Tại Israel, chiến thắng đã làm dấy lên phong trào tôn giáo-dân tộc Do Thái và phong trào này ngày càng tỏ ra hiếu chiến.

Cả một thế kỷ xung đột giữa Ả Rập và Israel được biểu tượng rõ nét nhất bằng cuộc chiến giành quyền kiểm soát Núi Thánh, hay cũng gọi là Haram al-Sharif. Ngọn đồi này có đỉnh bằng phẳng hình thang dài khoảng 475 yard và rộng 300 yard, là một bất động sản thánh rất nhạy cảm đến độ các nhà chiến lược thời Chiến tranh Lạnh thường nghĩ rằng một cuộc tranh chấp về Núi Thánh có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Moshe Dayan ý thức rất rõ rằng các nơi thánh của Jerusalem có thể là một ngòi nổ khi nó rơi vào tay người Israel. Ông đã có một quyết định phòng xa: cờ Israel sẽ được hạ khỏi nóc Đền Thờ Vòm Đá (của Hồi giáo), binh lính Israel sẽ rút khỏi Haram al-Sharif và các văn phòng của đạo binh Rabbi tại thánh điện sẽ đóng cửa. Quyền kiểm soát hàng ngày các nơi thánh của người Hồi giáo sẽ được trả lại cho các thẩm quyền Hồi giáo. Dayan chỉ đòi hỏi người Do Thái được quyền thăm viếng nơi đã có thời là đền thờ bị phá hủy của họ-nhưng họ không được cầu nguyện tại đây.

“Tôi tin chắc rằng chính vì bây giờ quyền kiểm soát nằm trong tay chúng tôi, nên đây là lúc chúng tôi phải tỏ lòng bao dung, một thái độ rất hiếm có trong các chế độ của các thập niên và các thế kỷ trước", ông viết trong Câu chuyện Đời Tôi. "Chắc chắn chúng tôi phải kính trọng Núi Thánh như một di tích lịch sử quá khứ của chúng tôi, nhưng chúng tôi không nên làm phiền những người Ả Rập đang sử dụng nó như một nơi thờ phượng của người Hồi giáo".

Thái độ bao dung này đã giúp tránh gây tức giận cho thế giới Hồi giáo. Nó cũng giúp ngăn ngừa sức ép của quốc tế khi Israel bắt đầu sát nhập phía Đông Jerusalem làm một phần của thủ đô "vĩnh cửu và không thể chia cắt" của nó, và bắt đầu một chính sách bố trí dân cư Israel không giấu giếm ý đồ tăng dân số Do Thái để duy trì một "đa số" Do Thái và giảm bớt-hay ít là kiểm soát-dân số Ả Rập trong thành phố. Israel sử dụng mọi biện pháp hành chính và kế hoạch để thực hiện ý đồ này.

Dayan được trợ giúp rất đắc lực bởi truyền thống giáo sĩ, theo truyền thống này thì người Do Thái bị cấm không được lên Núi Thánh, càng không được cầu nguyện tại đây. Các giáo sĩ nói rằng sự kiện đền thờ bị phá không thay đổi tính chất thánh thiêng của đất này. Vì người Do Thái ngày nay được coi là ở trong tình trạng ô uế theo nghi lễ mà chỉ có thể được tẩy sạch bằng tro của một con bê đỏ, mà ngày nay không còn tồn tại nữa, nên họ không được phép vi phạm khu vực đền thờ. Vì ngày nay người ta không thể biết chính xác "Gian Cực Thánh" của Đền Thờ nằm ở chỗ nào, nên toàn thể khu vực Haram al- Sharif đều bị cấm vào. Năm 1967, vị đại giáo trưởng Do Thái giáo đã ra quy luật rằng "chúng ta sẽ mắc tội nếu vi phạm lệnh cấm nghiêm khắc nhất liên quan đến việc làm ô uế nơi thánh này". Người ta cảm thấy rằng truyền thống tôn giáo có một yếu tố khôn ngoan chính trị rất lớn.

Tuy nhiên đối với một số người Israel, việc tiếp tục duy trì luật cấm này luôn luôn là nguyên nhân đáng buồn, một vết nhơ đối với danh dự quốc gia của Israel và là trái với ý muốn của Thiên Chúa. Giống như những người lưu đày đã xây dựng Đền Thờ Thứ Hai khi họ từ Babylon trở về, những người này đòi rằng người Israel ngày nay phải xây dựng Đền Thờ Thứ Ba.

Một thời gian ngắn trước khi ông qua đời năm 1997, tướng Uzi Narkiss kể lại rằng giáo sĩ trông coi đạo binh Do Thái giáo, Shlorno Goren (sau này làm đại giáo trưởng) đã gặp ông với một đề nghị lạnh lùng vào chính ngày Israel chiếm cổ Thành. "Đây là lúc để chúng ta đem lOOkg thuốc nổ vào Đền Thờ của Omar (Đền Thờ Vòm Đá) để có thể loại bỏ nó vĩnh viễn" Giáo sĩ Goren nói. Vị giáo sĩ này yêu cầu tướng Narkiss chớp lấy cơ hội độc nhất vô nhị này, nhưng bị Narkiss cảnh cáo thẳng thừng rằng ông sẽ phải ngồi tù nếu còn tiếp tục nhắc tới chuyện này.

Nhiều thập niên sau, Giáo sĩ Goren vẫn tiếp tục gây sức ép để đòi người Do Thái ít nhất là được phép cầu nguyện tại Núi Thánh. Ông tuyên bố rằng một số phần trên núi người Do Thái có thể đến được bởi vì chúng không nằm trong khu vực đền thờ cổ. Trong nhiều năm, các nhóm đấu tranh Do Thái đã chơi trò mèo vờn chuột với cảnh sát và lính canh Hồi giáo, họ tìm cách cải trang thành những du khách để đi vào Haram al-Sharif và lẩm nhẩm cầu nguyện trước khi bị tống cổ đi.

Những thái độ này có thể cũng chỉ là một sự kỳ quặc văn hóa mà thôi, nếu không xảy ra những vụ bạo động mà Núi Thánh có thể châm ngòi.

Ngày 8 tháng Mười 1990, một nhóm người sùng tín trong "Tín đồ Núi Thánh" đã khích động một cuộc bạo loạn dữ dội của hàng ngàn người Palestine khi nhóm ấy tìm cách đi lên Haram al-Sharif để đặt "viên đá đầu tiên" cho đền thờ mới. Họ bị cảnh sát chặn lại, nhưng những đụng độ sau đó đã làm 17 người Palestine bị các lực lượng an ninh giết chết trên khu vực nền đền thờ và một người khác nữa bị giết trong cổ Thành. Các chiếc áo thun nhuộm máu các "tử đạo" của ngày hôm ấy được trưng bày trong viện bảo tàng nhỏ ở Haram al-Sharif. Các hướng dẫn viên du lịch vẫn còn chỉ cho thấy những vết cà trên những phiến đá của Đền Thờ Vòm Đá do các viên đạn của người Israel bắn vào.

Bốn ngày sau cuộc tàn sát này, tôi ngạc nhiên chứng kiến cảnh hàng ngàn người Do Thái ở Bức tường phía Đông nhảy múa thành từng nhóm cuồng loạn với các cuộn sách kinh Torah trong tay để mừng ngày Simhat Torah, "Lễ mừng Torah". Đây có thể là biểu hiện sự dũng cảm của người Israel trong các lễ hội đứng trước các nghịch cảnh của họ; nhưng nhảy múa cuồng loạn ở chỗ chỉ cách xa nơi mà một dân tộc khác vừa phải chịu một tai họa có vẻ là biểu hiện của một sự nhẫn tâm.

Năm 1996, ba năm sau khi ký thỏa ước Oslo, thủ tướng Binyamin Netanyahu của đảng Likud không nghe lời khuyên của các cơ quan tình báo và đã phê chuẩn việc mở một đường hầm khảo cổ chạy từ Bức tường phía Tây tới Via Dolorosa, dọc theo nền của Núi Thánh, với lời tuyên bố của ông, "Không phải nói quá, chúng ta đang chạm tới nền sự tồn tại của chúng ta".

Đối với người Palestine, việc mở đường hầm này có nghĩa là người Israel đang "đụng vào" các nơi thánh của họ và thay đổi tình trạng hiện hữu của Jerusalem. Các vụ bạo động tiếp theo đã vĩnh viễn thay đổi các quy luật của Intitada. Thay vì chỉ có các cuộc bạo động ném đá như trước kia, bây giờ các lực lượng an ninh Palestine cũng nhập cuộc. Hơn 70 người Israel và Palestine đã bị giết trong thời kỳ đầu này của phong trào Al-Aqsa Intifada.

Nếu người Palestine đứng lên quá nhanh để bảo vệ Al-Aqsa Intifada, đó không phải chỉ vì nhiệt tình tôn giáo. Họ còn có lý do chính đáng để nghi ngờ các ý đồ của Israel. Năm 1984, các lực lượng an ninh Israel đã khám phá một âm mưu của một nhóm dân định cư Do Thái, gọi là nhóm Do Thái Bí mật, muốn phá nổ các đền thờ Hồi giáo trên Núi Thánh. Năm trước, một nhóm chúng sinh Do Thái bị bắt đang khi chuẩn bị đào một chỗ dưới núi để cử hành lễ Vượt qua gần khu phế tích của đền thờ. Có lời đồn rằng họ có kế hoạch thiết lập một khu "định cư" dưới hầm và thương lượng để được quyền cầu nguyện trên Núi Thánh.

Năm 1969, một du khách quá khích người Úc theo Kito giáo đã đốt đền thờ Al-Qawa và phá hủy giảng đài bằng gỗ nổi tiếng do đại giáo chủ Saladin tặng. Năm 1982 một người Do Thái ngông cuồng đã bắn vào một vệ binh Hồi giáo tại Đền Thờ Vòm Đá. Các sự cố như thế xảy ra rất nhiều.

Tất cả những sự cố này có thể không phải trực tiếp do chính quyền Israel chỉ đạo, nhưng người Palestine không thể tin tưởng chính quyền Israel. Trong những ngày sau khi chiếm cổ Thành, các xe ủi đất của Israel đã dọn sạch hơn 100 gia đình người A Rập khỏi khu vực Mughrabi phía trước mặt Bức tường phía Tây để làm một sân cầu nguyện cho người Do Thái. Bất chấp lời cam kết của Dayan là duy trì các nơi thánh, hai đền thờ Hồi giáo đã bị phá hủy.

Các nơi thánh khác của Hồi giáo tại Bờ Tây đã dần dần bị người Do Thái chiếm. Mộ của tổ phụ Abraham ở Hebron, của tể phụ Giuse ở Nablus và của tiên tri Samuel ở ngay ngoài Jerusalem-tất cả các nơi này vốn là các đền thờ Hồi giáo trước cuộc chiếm đóng của Israel-nay đã hoàn toàn hay một phần biến thành các nhà thờ Do Thái với sự ưng thuận và hợp tác của giới lãnh đạo quân sự Israel.

Theo thỏa ước Oslo, Israel giữ quyền kiểm soát một số nơi thánh: Mộ của bà Rachel ở Bethlelem, mộ của tổ phụ Giuse ở Nablus, và Hang các Tổ Phụ ở Hebron. Điều này có nghĩa là có sự hiện diện quân sự của Israel (và sự hiện diện của người định cư ở Hebron) ngay giữa lòng các thành phố Ả Rập. Mỗi khi có xung đột nổ ra, các tiền đồn tôn giáo nàv sẽ trở thành mục tiêu rất thuận tiện cho sự bạo động của Palestine. Khu vực xung quanh mộ bà Rachel thường bị ném lỏng chỏng những tảng đá. Mộ của tổ phụ Giuse đã trở thành một cạm bẫy thực sự trong thời kỳ rối ren từ 1996 tới 2000. Trong các cuộc rối loạn gần đây nhất, khu vực này bị người Palestine chiếm và thiêu rụi, nhưng đã được xây dựng lại theo lệnh của Arafat. Để trả đũa vụ các máy bay trực thăng Israel không kích đêm tháng Mười 2000, người Palestine tại Jericho đã đốt một nhà thờ Do Thái được xây trên nền cổ của một khu cầu nguyện của người Do Thái có nền được trang trí bằng một bức tranh ghép đá có từ 1.300 năm, vẽ hình một chiếc gạc nai, một cành chà là, và một cây đàn có đề hàng chữ Shalom AI Yisrael, "Hòa bình cho Israel"

Theodor Herzl đã từng nghĩ rằng sức mạnh của các nơi thánh có thể được trang bị cho nền nhân văn toàn cầu. Trong Altneuland, ông đã mường tượng ra việc xây dựng một Dinh thự Hòa bình tại Jerusalem, ở đó có thể tể chức các "hội nghị quốc tế của những người yêu hòa bình và những nhà khoa học". Thế mà giờ đây các nơi thánh luôn đi đôi với bạo lực chính trị tại Palestine. Các cuộc bạo động đầu tiên chống Do Thái nổ ra năm 1920, trong dịp lễ Hồi giáo tại Nebi Musa, nơi được coi là mồ của đại tiên tri Moses. Các địa danh Hebron, Bethlehem, Jerusalem/ và Shekhem có thể vẫn còn vang lên sự thánh thiêng cổ xưa, nhưng những thành phố nằm dọc theo các sườn núi của Bờ Tây đã trở thành những nơi đổ máu. Các nơi thánh của Palestine là những tia chớp của cuộc xung đột giữa người Do Thái và người Ả Rập, lôi kéo và tập trung sự giận dữ tràn bờ của cuộc tranh giành đất trên bình diện quốc gia và tôn giáo. Tại một vùng mà các bản kinh thánh cũng là các sách sử của các bộ tộc, các nơi thánh là những biểu tượng của đòi hỏi lịch sử của mỗi bên về chủ quyền đất dai của mình. Thiên Chúa của Trung Đông thật là một Thiên Chúa ghen tuông.

Đêm xuống, các trẻ em Do Thái ngủ yên đằng sau những cánh cửa sổ chất dày bao cát trong khi các cỗ súng máy nhả đạn liên tục trong các con đường mòn gần mộ Abraham. Ban ngày chúng chạy nhảy nô đùa trên sân mà không hề hay biết rằng chúng đang sống trên chiến tuyến của phong trào Al-Aqsa Intifada.

Trên những đường phố tối thui của vùng Hebron do Israel kiểm soát, những người Ả Rập nhổ nước miếng vào các chiếc xe jeep Israel và các binh lính nhìn vào bạn qua các ống nhắm của ổ súng máy. Sự căng thẳng lên tới cực độ khiến cho, vào lúc tôi viết bài này, người Palestine trong khu Do thái buộc phải ở trong nhà vì lệnh giới nghiêm gần như 24 giờ trong nhiều tuần nhiều tháng trong thời gian phong trào Al-Aqsa Intifada nổi dậy. Trong những khu vực nguy hiểm này, điều cuối cùng bạn có hi vọng gặp được khi bạn bước vào những căn hộ tường đá của Avraham Avinu là cảnh những chiếc xe đạp vứt bừa bãi và những đứa trẻ chơi trong các túp lều được dựng lên cho dịp lễ Sukkot, Lễ Lều.

Trong thế giới của người định cư Do Thái, chiếc xe đẩy trẻ con cũng có hiệu quả chính trị giống như một khẩu súng trường. Sự hiện diện của một đứa trẻ không thể tự vệ biểu thị cho sự cố chấp, sự đòi hỏi chủ quyền về đất bằng thịt và máu, một sự minh chứng lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa bảo vệ người Do Thái bất chấp những đe dọa và thử thách của hiện tại và khôi phục lại cho họ đất của tổ tiên.

Đời sống trên biên giới Israel là một sinh hoạt gia đình. Trong một thế giới mà những người đàn ông để râu lầm lì và ngoan cường đeo súng cả khi đi vào cửa tiệm tạp hoá, nơi mà các khu định cư được xây dựng thành những vòng tròn đồng tâm để tự vệ, có một cái gì siêu thực khi bạn thấy cảnh một phụ nữ Chính Thống giáo đi lang thang như đang mơ mộng, tay đẩy chiếc xe chở các con của bà. Với những khăn quàng trắng dài, những chiếc quần gin bạc màu, những cái váy và giày đi bộ, những phụ nữ này trông giống như một người lai giống giữa một phu nhân thời Victoria và một cô gái híppi của thập niên 60.

Người Israel tức giận vì chuyện các trẻ em Palestine được phép liều chết để ném đá vào binh lính Israel. Tại Hebron, trẻ em Do Thái cũng là thành phần của một trò chơi chính trị nguy hiểm. Tháng Ba 2001, một bé gái 10 tháng tuổi, Shalhevet Pass, bị giết tại Hebron bởi một tên bắn tỉa khi cô bé được cha đẩy trên một chiếc xe, còn cha em bị thương nặng. Các dân định cư trả đũa bằng cách lùng sục khắp các khu Ả Rập, đốt các xe hơi và nhà cửa. Ít ngày sau, năm trẻ em-Ả Rập và Do Thái-bị giết bởi súng và bom. Theo giới chức Palestine, khoảng 40 phần trăm số người Palestine bị giết là trẻ em dưới 18 tuổi, và một nửa số bị thương là ở đầu và cổ.

Các gia đình và trẻ em Do Thái cần có nhà ở, trường học, bệnh viện, và sự bảo vệ của quân đội. Các phụ nữ định cư đi đâu thì chắc chắn có nhà nước Israel đi theo tới đó. Cả những chuyện vặt vãnh nhất trong gia đình cũng mang một ý nghĩa chính trị, thậm chí tôn giáo. Lý tưởng ở đây không phải là tôn giáo của các kibubut về lao động ngoài đồng ruộng, nhưng là công việc trong nhà Mỗi một ngày sống trên đất Israel, mỗi một lần thay đổi tã lót cho trẻ em, mỗi một lời kinh nguyện ban sáng, đều là một bước đưa người ta tới cứu độ và tạo nên Vương quốc Thánh của Israel.

Khác với các pháo đài của người định cư Do Thái trên đỉnh đồi của vùng Bờ Tây, những người định cư ở Hebron ở ngay trước họng súng của người Palestine kiểm soát vùng đất cao. Một mục tiêu rõ rệt của các cuộc bạo loạn dẫn tới phong trào Al-Aqsa Intifada là quyết tâm của người Palestine biến đời sống của người định cư Do Thái trở thành một địa ngục để hy vọng có thể đuổi họ ra khỏi vùng Bờ Tây.

Michel Cohen, một giáo viên trạc 40 tuổi, đầu luôn đội chiếc mũ chỏm đen của người sùng đạo, kể cho tôi nghe khi tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng Mười 2000: "Quân đội có một cỗ súng máy lớn trên mái nhà, và lúc đầu đám trẻ con hoảng sợ vì tiếng súng. Nhưng chúng quen dần với nó khi chúng tôi giải thích cho chúng rằng đó là quân đội của chúng ta. Bây giờ thì chúng cười", "Chúng tôi phải cảnh giác, nhưng không sợ hãi. Thiên Chúa bảo vệ chúng tôi" anh tiếp, tay đập đập vào cái lều Sukkot. "Nếu Người truyền chúng tôi đi đến các lều bằng ván ép này, chúng tôi cũng không sợ. Chúng tôi vui. Điều này dạy chúng tôi biết rằng chúng tôi đúng. Người Roma, người Thổ Nhĩ Kỳ và người Anh đều không thể ngăn cản chúng tôi. Người Do Thái sẽ sống ở đây mãi mãi"

Những người định cư ở Hebron bây giờ cảm thấy thỏa mãn vì họ biết rằng không thể có hoà bình với "bọn khủng bố". David Wilder, người phát ngôn của dân định cư Hebron và hầu như là người duy nhất muốn nói chuyện với các nhà báo, đã nói: "Bốn năm trước, chúng tôi đã đưa tất cả các nhà chính trị và các tướng quân đội đi xem những địa điểm của chúng tôi có thể là mục tiêu của các họng súng. Tất cả những gì chúng tôi dự báo đều đã trở thành sự thật. Một số nơi bị bắn từ ba phía. Đó là điều hiển nhiên và tất yếu. Israel sẽ phải lấy lại phần lớn số đất đã tặng cho Arafat".

Các chuyên gia an ninh và phe cánh tả Israel thỉnh thoảng nói đến việc di dời người định cư ra khỏi Hebron bởi vì nơi này không thể bảo vệ hiệu quả nhưng các tiền đồn này là nguồn mạch thiêng liêng và ý thức hệ của phong trào định cư phục quốc tôn giáo. "Nếu chúng tôi bỏ nó, có nghĩa là chúng tôi chịu đầu hàng sự đe dọa của bọn khủng bố. Nếu bạn phải bỏ tất cả những nơi gặp nguy hiểm, bạn sẽ phải bỏ tất cả nước Israel" Wilder nói. Với việc người Palestine thường xuyên bắn vào khu vực Gilo gần Jerusalem, người định cư cho rằng bây giờ không còn có khác biệt giữa việc sống trong các khu định cư hay sống trên chính đất Israel, giữa các khu định cư "chính trị" và các khu định cư "an ninh" Tất cả đất Israel là một khu định cư.

Thế nhưng khu vực Hebron là một điểm xung đột thường ngày. Sự căm thù có thể nhận ra được. Cách khu vực Avraham Avinu một ít dãy phố, người Palestine tụ tập xung quanh một cửa hàng đã bị trúng đạn và tên lửa của Israel mấy hôm trước. Cánh cửạ bằng sắt của cửa hàng bị xé toang giống như người ta dùng một cái đồ mở hộp. "Cả trong Kinh thánh Do Thái lẫn kinh Koran đều không thấy chỗ nào nói sẽ có hoà bình giữa người Do Thái và người Ả Rập" Hijazi al-Shyoukhi, một luật sư 55 tuổi