Chương 1
Chiếc đồng hồ treo tường chỉ 10 giờ kém 20 phút tối. Namiki Yutaro nghĩ tối nay chắc sẽ không có thêm khách nào nữa. Từ trong bếp, anh nhìn qua quầy thanh toán xem tình hình bên trong cửa hàng. Trong quán chỉ còn lại hai vị khách nữ trung tuổi. Lúc vừa bước vào quán, một trong hai người phụ nữ đã thốt lên một câu đại ý rằng lâu lắm chị ta mới tới đây, thật là hoài niệm, chắc chị ta đã từng tới quán trước đây rồi. Namiki lén nhìn xem chị ta là ai. Anh có cảm giác từng thấy người này rồi, nhưng cũng có thể đó chỉ là ảo giác. Dù sao chị ta cũng không phải khách quen của quán.
Không lâu sau, một trong hai người phụ nữ cất tiếng gọi thanh toán. Machiko đang đứng rửa bát bên cạnh Namiki liền cất tiếng đáp rồi bước ra.
“Cảm ơn chị. Đồ ăn của quán ngon lắm.” Anh nghe thấy tiếng người phụ nữ.
“Cảm ơn quý khách. Nếu được, lần tới mời quý khách lại đến ạ.”
Machiko đáp.
“Nhất định tôi sẽ sớm quay lại. Thực ra mấy năm trước tôi từng tới quán nhà mình rồi. Khoảng 5,6 năm thì phải.”
“Ồ, thế ạ?”
“Hồi đó có một cô bé nhân viên quán rất xinh, tôi bắt chuyện thì biết cô bé là con gái của chủ quán. Khi ấy cô bé bảo đang học cấp ba thì phải. Cô bé vẫn khỏe chứ chị?”
Cánh tay đang dọn dẹp dao thớt của Namiki dừng lại. Không biết Machiko sẽ đáp lại câu hỏi hồn nhiên của vị khách nọ như thế nào, dẫu biết nghe là sẽ đau lòng nhưng anh vẫn dỏng tại lên.
“Dạ vâng, cháu nó vẫn bình thường ạ.” Giọng nói của Machiko thật ôn hòa. Người nghe không thể nhận ra chút xáo động tâm can nào trong giọng nói ấy.
“Thế à, vậy thì tốt rồi. Cô bé còn ở đây không vậy?”
“Dạ không, cháu chuyển ra sống riêng rồi ạ.”
“Ồ, thế ạ? Cũng phải, trông cô bé rất chững chạc mà. Chẳng bù cho mấy đứa nhà tôi, lớn tướng rồi mà vẫn dựa dẫm vào bố mẹ, phát ngán lên được.”
“Như vậy cũng có cái hay chứ ạ.”
“Vâng, người ta hay nói lúc còn được con cái dựa dẫm là khi hãy còn được chúng quan tâm tới chị nhỉ?”
“Phải đấy ạ.”
Nghe tiếng bước chân thì có lẽ Machiko và vị khách nữ đang đi về phía cửa. Cánh cửa được mở ra lạch cạch, Namiki nghe thấy Machiko chào khách “Cảm ơn quý khách”.
Namiki đặt con dao làm bếp xuống, bước ra ngoài quầy. Lúc này Machiko vừa dỡ rèm vải xuống và bước vào trong quán.
Ánh mắt hai người chạm nhau, Machiko nghiêng đầu hỏi “Sao vậy anh?”
“Không có gì, anh nghe thấy em nói chuyện với khách nên đi ra thôi.” Namiki gãi gãi sau đầu. “Em trả lời điềm tĩnh quá. À, đương nhiên anh biết trong lòng em không điềm tĩnh chút nào.”
Machiko khẽ mỉm cười “Vâng.”
“Chuyện đó có gì ghê gớm đâu. Em làm nghề phục vụ khách khứa bao nhiêu năm nay rồi mà.”
“Anh biết thế, nhưng mà…”
Machiko dựng tấm rèm cạnh tường rồi quay lại nhìn chồng. Cơ thể chị nhỏ nhắn, gương mặt cũng nhỏ, nhưng từ hồi trẻ ánh mắt chị đã rất mạnh mẽ. Khi bị ánh mắt ấy nhìn vào, ai cũng sẽ bất giác muốn lùi lại phía sau.
“Anh vẫn chưa quen à?”
“Quen gì cơ?”
“Chuyện của Saori ấy. Quen với việc con bé không còn ở đây nữa.
Em thì quen rồi. Anh chỉ ở trong bếp nên có lẽ không biết, chứ em thường xuyên bị khách hỏi thăm những câu như vừa nãy. Có lẽ Natsumi cũng vậy. Nhưng em cũng không thấy con bé kêu ca than trách bao giờ. Hẳn là con bé cũng quen rồi.”
Natsumi là con gái thứ hai của họ. Năm nay cô học năm hai đại học. Những ngày rảnh rỗi, Natsumi sẽ tới phụ giúp việc trong quán.
Namiki lặng thinh, Machiko bèn xin lỗi.
“Em không định trách cứ gì anh cả đâu. Ý em là anh không cần lo lắng cho em quá thôi.”
“Ừ, anh hiểu rồi.”
“Anh dọn dẹp bếp nốt giúp em được không? Em phải làm vài việc ở trên kia.” Machiko chỉ tay lên trần nhà. Tầng hai của quán là khu phòng ở của gia đình Namiki.
“Ừ, em lên đi.”
“Vâng, vậy em lên trước nhé.” Machiko bước lên bậc cầu thang nằm ở một góc của quán.
Namiki lắc lắc đầu. Anh không có hứng dọn dẹp ngay, thay vì thế anh kéo chiếc ghế bên cạnh rồi ngồi xuống. Anh không thể ngăn lưng mình còng xuống. Phụ nữ mạnh mẽ thật. Trước đây anh đã nhiều lần nghĩ thế, lần này càng cảm thấy rõ ràng hơn.
Saori là cô con gái đầu lòng của vợ chồng Namiki. Lúc mới chào đời, làn da cô bé hồng hào, đôi mắt rất lớn. Anh luôn mong con đầu lòng sẽ là con trai, nhưng khi cô bé chào đời, anh không còn bận tâm đến chuyện đó nữa. Không chỉ dừng ở mức “đáng yêu không chịu nổi”, mà anh đã thực lòng nghĩ mình có thể chết bất kỳ lúc nào vì sự an toàn của cô bé này.
Machiko là cánh tay chủ lực của cửa hàng Namikiya, cả trên cương vị đầu bếp lẫn cương vị nhân viên tiếp đón khách. Ngay khi chị trở lại quán sau thời gian nghỉ sinh, căn bếp và gian quán lập tức trở thành nơi nuôi dạy trẻ. Họ đã chuẩn bị tâm thế rằng việc này sẽ rất vất vả, nhưng không ngờ lại nhận được rất nhiều sự trợ giúp vô cùng quý báu. Những khi bận rộn, khách quen trong quán nào thì bế rồi dỗ dành Saori giúp họ. Nhờ thế, khi Saori lên 1 tuổi, họ thậm chí còn nghĩ mình có thể sinh thêm đứa thứ hai được rồi.
Được mọi người yêu thương, Saori lớn lên khỏe mạnh. Khi cô bé bắt đầu đi học mẫu giáo, trên đường tới trường rất nhiều người bắt chuyện hỏi han cô bé. Mỗi lần có người bảo họ thấy hạnh phúc khi Saori cất tiếng chào họ thật lớn, Namiki lại cảm thấy vô cùng tự hào.
Hồi tiểu học và cấp hai, Saori đều rất được yêu mến. Vào dịp tới thăm nhà học sinh, cô chủ nhiệm của cô bé còn khen với Machiko rằng Saori có ưu điểm là luôn thân thiện, vui vẻ với tất cả mọi người, dù có chuyện không vui cũng không tỏ ra khó chịu.
Thành tích học tập của cô bé không quá tốt, nhưng cả Namiki và Machiko đều không bận tâm nhiều. Họ nghĩ chỉ cần Saori không làm điều gì xấu là được. Về điểm này, họ tự tin rằng cách nuôi dạy của mình không hề sai. Saori là cô bé hiểu chuyện, hầu như không bao giờ cãi lại bố mẹ. Cô bé cũng dịu dàng và rất biết chăm cô em gái nhỏ hơn mình 3 tuổi.
Ngoài chuyện học hành, Saori có một tài năng sáng chói. Đó là ca hát. Từ nhỏ cô bé đã thích hát, nhưng khi tới những năm cuối tiểu học, tài năng đó mới bắt đầu gây chú ý. Chỉ cần nghe qua một lần, cô bé sẽ nhớ được hết dù bài hát ấy có khó đến đâu, chưa từng loạn nhịp lần nào. Nhờ con gái, cho tới lúc đó Namiki mới biết đến cụm từ “cảm âm tuyệt đối”.
Thế rồi có một cơ hội để cô bé phát huy hết tài năng kỳ diệu ấy của mình. Đó là lễ hội mùa thu. Tiết mục chính của lễ hội là diễu hành trong trang phục hóa trang, nhưng một trong những chương trình được người dân địa phương mong đợi nhất chính là đại hội thi hát. Lần đầu tiên tham gia lễ hội khi học lớp 4, Saori đã trình diễn xuất sắc ca khúc chủ đề “My heart will go on” của phim Titanic, khiến khán giả bên dưới vô cùng kinh ngạc. Namiki cũng có mặt ở đó, đó là lần đầu tiên anh thấy con gái nghiêm túc thể hiện một bài hát.
Kể từ đó, mỗi lần tới lễ hội mùa thu cô bé đều tham gia đại hội này. Saori dần trở nên nổi tiếng trong vùng, đến mức quảng trường đại hội thi hát chật cứng những khán giả tới chỉ để nghe Saori.
Lên cấp ba, Saori bắt đầu phụ việc trong quán vào dịp nghỉ hè.
Trong đám khách thối miệng, có kẻ còn từng trêu chọc, “Thế này mà đi làm ở mấy hộp đêm trên thành phố thì có mà kiếm ối tiền, lọ mọ ở cái quán ăn tồi tàn này làm gì cơ chứ?” Là một người bố, Namiki cũng nhận thấy con gái mình lớn lên thật xinh đẹp. Chỉ cần có Saori, không khí trong quán lập tức sáng bừng lên như trăm hoa đua nở.
Đương nhiên khách tới quán cũng đông hơn. Cô đúng là cô con gái xinh đẹp thu hút khách cho quán.
Lần đầu tiên ông Niikura tới quán ăn nhà họ là khi Saori học lớp 11. Ông Niikura là một người giàu nổi tiếng trong vùng. Nghe nói thời trẻ ông ấy từng mơ ước trở thành nhạc sĩ, và tới giờ vẫn giữ được mối quan hệ với người trong giới âm nhạc. Ông có tận vài phòng thu âm ở Tokyo, và nghe đâu ông cũng thường xuyên đi tìm kiếm các tài năng mới. Lần ấy ông cũng liệt kê cho họ tên những ca sĩ mà mình từng phát hiện và đào tạo.
“Con gái anh chị nhất định sẽ trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, thế nên hãy để cô bé tới chỗ tôi.” Ông Niikura nói với vợ chồng Namiki như vậy.
Namiki biết Saori thích ca hát, nhưng anh chưa từng nghĩ tới việc định hướng con trở thành ngôi sao giải trí, thế nên anh vô cùng bối rối trước lời đề nghị bất ngờ này. Machiko cũng vậy.
Sau khi ông Niikura ra về, hai vợ chồng bàn bạc với nhau. Cả hai đều chỉ mong Saori có một cuộc đời bình thường phẳng lặng, nhưng họ vẫn quyết định sẽ hỏi thử xem ý con thế nào.
Nghe chuyện, Saori nói muốn được thử sức xem sao. Cô bảo sợ bố mẹ phản đối nên không nói, chứ thực ra cô đã luôn muốn thử sức để trở thành một ca sĩ. Cô thú nhận rằng mình cũng có ý định học lên đại học, nhưng chỉ muốn chung chung vậy thôi, chứ không đặc biệt muốn theo học ngành nào cả.
Nếu người trong cuộc đã muốn thì đành vậy. Hai vợ chồng bàn bạc và thống nhất với nhau rằng nếu con bé đã thích thì phải để cho nó thử sức thôi, và thế là họ quyết định giao phó Saori cho Niikura.
Nếu không thành công thì lúc đó tính tiếp. Namiki nghĩ chắc mọi chuyện chẳng suôn sẻ đến thế đâu. Nhưng anh cũng nghĩ dẫu có thất bại thì chỉ cần thất bại ấy giúp con trưởng thành hơn trong cuộc sống sau này là được.
Cô con gái thứ Natsumi thực sự vui mừng cho chị. Saori còn chưa ra mắt khán giả, vậy mà Natsumi đã hứng khởi nghĩ đến hình ảnh đứng trên sân khấu lớn của chị gái.
Sau đó, vừa tới trường, Saori vừa theo học tại lò đào tạo của Niikura. Cũng may là Niikura không yêu cầu gia đình Namiki trả tiền học.
“Sau khi Saori ra mắt và trở thành ca sĩ ăn khách, tôi sẽ nhận tiền đào tạo của cô bé sau, anh chị không cần phải lo.”
Mỗi khi nhắc tới chuyện tiền nong Niikura lại nói như vậy. Ông Niikura cực kỳ ngưỡng mộ John Lennon, thành thử mái tóc dài và cặp kính tròn cũng trở thành thương hiệu của ông. Ông là một người nhẹ nhàng tử tế, không bao giờ tự đắc về việc mình là một người giàu có.
Chỉ có điều, bài giảng của ông rất khó. Saori thường than thở “Con cố gắng lắm rồi mà thầy Niikura chẳng bao giờ khen cả.” Đã vậy ông còn thường xuyên nhắc nhở các vấn đề khác trong sinh hoạt cá nhân của Saori nữa. Nghe nói đã nhiều lần ông Niikura dặn dò Saori rằng cô không nên dùng điện thoại, thứ đó chỉ cản trở việc học hát thôi. Nghe Saori kể, Namiki nghĩ thật may vì đã giao con gái cho ông Niikura bởi ông đã nói thay anh những điều anh muốn nói.
Không lâu sau, Saori tốt nghiệp cấp ba.
“Tôi định bữa tới sẽ để nhà sản xuất tôi quen nghe thử giọng hát của Saori.”
Ông Niikura tới quán vui vẻ thông báo, đó là khi năm mới vừa sang chưa được bao lâu. Saori lúc đó vừa bước sang tuổi 19.
Khoảng 2 tuần sau hôm đó. Hôm ấy, Saori ra khỏi nhà vào buổi chiều và mãi không thấy về. Namiki lo lắng gọi cho con nhưng không được.
Anh gọi điện hỏi bên nhà ông Niikura và tất cả những nơi anh nghĩ tới, nhưng vẫn không biết con gái ở đâu. Phải tới ngày hôm sau anh mới có thể báo cảnh sát.
Ngay sáng hôm ấy, cảnh sát chính thức vào cuộc. Họ tìm kiếm khắp các vùng xung quanh và kiểm tra hình ảnh của tất cả các camera an ninh được đặt ở các nơi.
Sau đó họ tìm thấy hình ảnh Saori đang đi bộ trong bộ nhớ của camera an ninh lắp trước một cửa hàng tiện lợi gần đó. Cô không đi cùng ai, tay áp điện thoại trên tai nên họ đoán khi ấy cô đang vừa đi vừa nói chuyện với ai đó.
Cảnh sát đã liên hệ với nhà mạng để tìm hiểu lịch sử cuộc gọi.
Nhưng cuộc gọi lúc ấy không gọi từ máy của Saori. Nghĩa là khi đó cô bé đang nhận điện thoại từ một người khác gọi tới. Nhà mạng cũng không nắm được lịch sử cuộc gọi đến.
Vì có khả năng Saori đã bị cuốn vào một vụ án nào đó nên cảnh sát đã mở rộng cuộc tìm kiếm. Họ thậm chí còn lùng sục cả dưới lòng con sông gần đó.
Nhưng vẫn không tìm thấy Saori. Cô đã biến mất như một làn khói.
Namiki, Machiko và Natsumi đã dán tờ rơi ở khắp nơi. Chủ các quán bên cạnh và khách quen của quán cũng giúp họ một tay. Nhưng cuối cùng vẫn không thu được thông tin hữu ích nào.
Vì quá khổ tâm, Machiko đổ bệnh, phải nằm nguyên một chỗ.
Natsumi ngày nào cũng khóc tới sung cả mắt, thường xuyên nghỉ học.
Quán Namikiya ngày càng nghỉ bán nhiều hơn nhưng những khách quen biết rõ sự tình thì không ai phàn nàn gì cả.
Không lâu sau, cảnh sát bảo họ hãy nộp thứ gì đó để có thể xét nghiệm được DNA của Saori. Namiki hiểu lời đề nghị ấy có nghĩa là khi tìm thấy một cái xác nào đấy, họ sẽ xét nghiệm DNA của cái xác để đối chiếu. Cảm giác của anh khi ấy giống như đột ngột bị đẩy xuống một cái hố sâu thăm thẳm.
Thế nhưng sau đó không có tin gì từ phía cảnh sát nữa. Có lẽ vì họ không tìm thấy thi thể nào có vẻ là của Saori. Dần dần, Namiki không biết có nên vui vì chuyện đó không nữa. Nếu quả thực Saori không còn trên thế giới này nữa thì anh muốn sớm tìm thấy thi thể con để chôn cất cho tử tế, có như thế Saori mới được yên nghỉ.
Tháng trước nữa là tròn 3 năm kể từ ngày Saori mất tích. Biết rằng vô ích, nhưng anh vẫn phát những tờ rơi để thu thập thông tin ở vài địa điểm, giống như năm ngoái và năm kia. Đúng như dự đoán, việc làm ấy chẳng mang lại kết quả gì, nhưng sự thất vọng trong lòng anh không nhiều. Bởi việc làm này sớm đã trở thành một nghi thức mất rồi.
Namiki nhìn đồng hồ. Đã quá 10 rưỡi. Anh đã ngồi thẫn thờ hơi lâu. Anh đứng dậy, vỗ vỗ vào má bên phải hòng lấy lại tinh thần. Có lẽ thực sự đã tới lúc anh nên quen với chuyện này rồi. Nếu mỗi lúc nghĩ tới Saori anh lại thẫn thờ như vậy thì sau này sẽ chẳng thể sống tốt được.
Lúc anh dợm bước quay lại bếp, chiếc điện thoại bàn trong quán reo vang. Ai gọi vào giờ này thế nhỉ? Mỗi người trong gia đình Namiki đều có điện thoại di động riêng, nếu ai đó cần liên hệ, theo lẽ thường họ sẽ gọi tới số di động riêng ấy mới phải.
Dẫu vậy anh vẫn nhấc ống nghe, trả lời “Vâng, tiệm Namikiya xin nghe” giống như trong giờ quán mở. “Đây là số của gia đình anh Namiki Yutaro đúng không ạ?” Một giọng nam trầm thấp cất lên.
“Vâng, anh là ai ạ?”
Câu trả lời của đối phương hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của anh.
“Tôi là người của Sở Cảnh sát tỉnh Shizuoka.” Người bên kia đầu dây đáp.