Phần 2 Thái Bình Dương-Chương 37
Tầu đắm. Nó chìm trong một tiếng động giống như một tiếng ợ kim loại ma quái. Mọi vật sủi bong bóng trêm mặt nước, rồi tất cả biến mất. Cái gì cũng đang gào thét: biển, gió, cõi lòng tôi. Từ trên xuồng cứu nạn, tôi thấy có cái gì trên mặt nước.
Tôi kêu, “Richard Parker, có phải mày đấy không? Khó nhìn quá. Ôi giá mà tạnh được mưa! Richard Parker? Richard Parker? Đúng mày rồi!”
Tôi có thể nhìn thấy cái đầu. Nó đang vùng vẫy để khỏi chìm.
“Ôi hay quá, đúng là mày rồi, Richard Parker! Con xin đội ơn tất cả các ngài Jesus, Mary, Muhammad và Vishnu! Nào cố lên, đừng bỏ cuộc. Đến đây với tao. Mày có nghe thấy tiếng còi này hay không? Tuýyyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyy! Mày nghe thấy chứ hả? Bơi đi, bơi! Mày bơi khỏe lắm mà. Chưa đến ba mươi mét đâu.”
Nó thấy tôi rồi. Trông nó hoảng hốt cực độ. Nó bắt đầu bơi về phía tôi. Mặt nước xung quanh nó dạt từ bên này sang bên nọ. Trông nó bé nhỏ và tuyệt vọng.
“Richard Parker, mày có tin được những gì vừa xảy ra với chúng ta không? Hãy nói đây chỉ là cơn ác mộng. Hay nói đây không phải là sự thực. Hãy nói tao đang nằm trong cái giừơng tầng ấy trên tàu Tsimtsum, trằn trọc bên này bên kia và sắp tỉnh dậy khỏi cơn các mộng này. Hãy nói tao vẫn đang hạnh phúc. Mẹ, vị thiên thần thông sáng bảo hộ dịu dàng của con, mẹ đâu rồi? Còn cha nữa, cha ơi, cha lúc nào cũng lo lắng vì chúng con? Anh nữa, anh Ravi, người hùng chói lọi thủơ thiếu thời của em? Xin thần Vishnu phù hộ cho con, xin đấng Allah hãy bảo vệ con, xin đấng Christ hãy cứu rỗi con, con không thể chịu đựng được nữa rồi. Tuýyyyyt! Tuýyyyyt Tuýyyyyt!”
Không có thương tích gì trên mình tôi, nhưng chưa bao giờ tôi thấy đau đớn đến cực điểm như thế, một cảm giác bị cắn xé tơi bời cả trong tâm trí và cõi lòng đến mức như thế.
Nó không thoát được mất. Nó sẽ chết chìm mất. Nó không bơi lên được tí nào và các động tác của nó thật yếu ớt. Mũi mồm nó cứ chìm lên chìm xuống. Chỉ có cặp mắt nó luôn gắn chặt vào tôi.
“Richard Parker, mày làm cái gì thế? Mà không muốn sống nữa sao? Bơi đi, bơi tiếp đi! Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt! Đạp chân đi! Đạp! Đạp! Đạp!”
Nó khuấy nước và bắt đầu bơi.
“Còn cả gia đình lớn của ta thì sao – chim chóc, thú vật và bò sát? Chúng chết đuối hết rồi sao? Tất cả những gì quý giá nhất trên đời đều bị huỷ diệt cả rồi. Và ta không được phép có một lời giải thích nào ư? Ta phải chịu hỏa ngục mà không có lời kết tội nào của thiên đường hay sao? Nếu quả như vậy, thì trí xét đoán còn ích gì, phải không hả Richard Parker? Nó chỉ soi sáng những thực tế nôm na – giúp ta kiếm đồ ăn áo mặc và một nơi trú ẩn thôi sao? Tại sao trí xét đoán không trả lời được những điều lớn lao hơn? Tại sao chúng ta không thể quăng một câu hỏi ra xa hơn nơi chúng ta có thể kéo về được một câu trả lời? Cần gì phải có một cái lưới rộng đến thế nếu như chỉ có vài con cá quanh quẩn cho ta bắt?”
Đầu nó chìm lỉm hết rồi. Nó rướn lên, ngước mắtnhìn như thu tóm cả bầu trời vào mình một lần cuối cùng. Có một cái phao buộc dây trên xuồng. Tôi túm lấy nó và huơ huơ lên trên không.
“Mày có thấy cái phao này không hả Richard Parker? Có nhìn thấy không? Bắt lấy nó! Um! Ta sẽ ném lại lần nữa. Um!”
Nó ở xa quá. Nhưng thấy cái phao bay về phía mình khiến nó hy vọng trở lại. Nó lấy lại sức và bắt đầu quẫy đạp rất mạnh.
“Đúng rồi! Một, hai. Một, hai. Thở được là thở nhé. Cẩn thận các ngọn sóng đấy. Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt!”
Lòng tôi cũng lạnh băng mất rồi. Tôi như ốm nặng vì đau buồn. Nhưng không thể để mình rơi vào một cơn choáng cóng lạnh như vậy. Chỉ được phép choáng trong hành động mà thôi. Có cái gìđó trong tôi không muốn tôi nằm im chịu chết, không được bỏ cuộc, phải chiến đấu đến cùng. Tôi lấy đâu ra cái đó, tôi cũng không biết nữa.
“Thật nực cười, phải không hả Richard Parker? Ta đã rơi vào địa ngục rồi mà sao vẫn còn sợ chết. Mày đã gần rồi đấy! Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt! Hoan hô, hoan hô! Được rồi đấy, Richard Parker, được rồi đấy. Bắt lấy này! Um!”
Tôi lấy hết sức quăng cái phao. Nó rơi xuống nước ngay trứơc mặt Richard Parker. Với chút sức lực cuối cùng, nó rướn lên và quặp lấy cái phao.
“Giữ chặt lấy! Ta sẽ kéo mày lên. Đừng bỏ ra. Nhìn ta đây này trong khi ta kéo mày. Ta kéo bằng tay, mày bằng mắt. Tí nữa thôi mày sẽ lên xuống cùng với ta. Gượm đã! Cùng với ta à? Ta với mày sẽ cùng nhau ở một chỗ à? Mình điên rồi hay sao?”
Tôi tỉnh ngộ về việc mình đang làm. Tôi giật cái dây một cái.
“Bỏ cái phao ra, Richard Parker! Ta bảo mày. Bỏ cái phao ra! Ta không muốn mày lên dây, hiểu chưa? Đi chỗ khác. Để mặc ta. Biến đi. Chết đuối đi! Chết đuối đi!”
Nó đang điên cuồng đạp nước bằng cả bốn chân. Tôi với lấy cái chèo. Tôi chọc mạnh vào nó, muốn đẩy nó ra. Tôi trượt và để rơi mất mái chèo.
Tôi vớ lấy cái chèo còn lại. Tôi lắp nó vào móc chèo và dồn sức khua nó xuống nước, muốn chèo cái xuồng đi chỗ khác. Tất cả nỗ lực của tôi chi đủ làm cho cái xuồng quay một chút, một đầu xuồng vào gần Richard Parker hơn.
Tôi sẽ phải đánh vào đầu nó! Tôi giơ cái chèo lên cao.
Nó nhanh quá. Nó vươn lên và trèo vào xuồng.
“Ôi, lạy chúa tôi.”
Ravi có lý. Quả thực tôi đã thành con dê tiếp theo. Tôi đã có con hổ Bengal ba tuổi trưởng thành, ướt đẩm, run rẩy, vừa thoát khỏi chết đuối, đang thở hồng hộc và ho sù sụ trên cái xuồng cứu nạn cùng với tôi. Richard Parker loạng choạng đứng lên, chân giẫm lên tấm bạt, mắt rực lửa khi gặp luồng mắt của tôi, hai tai cụp sát vào đầu, bao nhiêu vũ khí trút hết ra khỏi vỏ. Cái đầu nó to bằng và cùng màu với cái phao, đầy răng nhọn.
Tôi quay quắt ra đằng sau, bước qua con ngựa vằn rồi nhẩy ào xuống biển.
Chương 38
Tôi không hiểu được. Trong bao nhiêu ngày con tàu đã tuần tự nhi tiến, ngạo nghễ phớt lờ mọi thứ xung quanh nó. Mặt trời chói lọi, mưa rơi, gió thổi, nước dòng, sóng cao, vực sâu - con tầu Tsimtsum đều mặc kệ. Nó chạy với một sự tự tin, chậm chạp và khổng lồ của một châu lục.
Tôi đã mua một tấm bản đồ thế giới cho chuyến đi; tôi treo nó lên một cái bảng nút chai trong cabin của chúng tôi. Sáng sáng, tôi hỏi vị trí của tầu ở cầu chỉ huy và đánh dấu lên tấm bản đồ bằng một cái đinh ghim đầu tròn màu da cam. Chúng tôi đi từ Madras, ngang qua Vịnh Bengal, xuống dọc eo biển Malacca, vòng Singapore rồi ngược lên Manila. Tôi không thấy chán một chút nào trong suốt lộ trình ấy. Chúng tôi rất bận vì phải chăm sóc bầy thú. Đến đêm, lên giường ngủ thì ai nấy đều ê ẩm tận xương. Chúng tôi dừng lại ơ Manila hai hôm, vì chuyện thức ăn tươi cho bầy thú, lấy thêm hàng, và như chúng tôi được thông báo, còn để kiểm tra bảo dưỡng máy tàu nữa. Tôi chỉ để ý đến hai việc trước. Thức ăn tươi cho bầy thú có hàng tấn chuối, còn hàng mới là một con đười ươi cái Congo, một phần kết quả của những chạy vạy cho công việc của cha. Một tấn chuối và 2, 3 kí lô những con nhện to tướng đen xì. Một con đười ươi cũng giống như một con khỉ độc, nhỏ hơn, gầy hơn, nhưng trông lưu manh hơn, ít vẻ u buồn hơn. Một con đười ươi rùng mình nhăn mặt khi nó chạm vào một con nhện đen, cũng như anh và tôi, nhưng khác một cái là ngay sau đó nó sẽ giận dữ nghiền nát con nhện bằng các khớp ngón tay của nó. Tôi thấy chuối và một con đười ươi thú vị hơn nhiều cái cỗ máy cơ khí bẩn thỉu dưới lòng tầu. Ravi thì suốt ngày này qua ngày khác ở dưới đó, xem người ta chạy máy. Máy móc có cái gì đó không ổn, anh bảo vậy. Hay là việc bảo dưỡng đã chữa lợn lành thành lợn què? Tôi không biết. Chắc cũng chẳng ai biết. Câu trả lời là một bí ẩn đang nằm dưới hàng nghìn thước nước.
Chúng tôi rời Manila và tiến vào Thái Bình Dương. Đến ngày thứ tư, mới nửa đường đến Midway, thì tàu đắm. Con tàu biến mất tăm vào cái lỗ đinh ghim của tôi trên bản đồ. Một trái núi sụp đổ trước mắt tôi và mất dạng dưới chân tôi. Khắp xung quanh tôi là bãi nôn mửa của con tàu chết vì rối loạn tiêu hóa. Tôi nôn mửa. Tôi choáng. Tôi thấy trống rỗng lớn lao ở trong mình, rồi cái trống rỗng ấy lại bị sự im lặng lấp đầy. Trong nhiều ngày sau đó, một nỗi đau đớn và sợ hãi luôn đè chặt lên ngực tôi.
Hình như đã có một tiếng nổ. Nhưng tôi không chắc. Lúc đó tôi đang ngủ. Và đã bật dậy. Con tàu không phải là một tàu khách hạng sang. Nó là một tàu chở hàng hạng nặng thiết kế không phải để phục vụ khách có tiền và đòi hỏi tiện nghi. Lúc nào và chỗ nào trên tàu cũng ầm ĩ các loại tiếng động. Cũng chính vì mức độ ồn ào và ổn định ấy mà chúng tôi ngủ ngon như hài nhi. Đấy là một dạng im lặng không có gì phá vỡ được, kể cả tiếng ngáy của Ravi hay những lời mê ngủ của tôi. Cho nên tiếng nổ ấy, nếu có, cũng không phải là một tiếng động mới mẻ gì. Nó chỉ là một tiếng động bất thường. Tôi giật mình tỉnh dậy, như thể Ravi vừa bóp nổ một quả bóng hơi ngay tai tôi. Tôi nhìn đồng hồ. Mới quá bốn rưỡi sáng một tí. Tôi cúi xuống giường bên dưới. Ravi vẫn ngủ.
Tôi mặc quần áo và trèo xuống. Thường thì tôi ngủ rất say. Thường thí tôi sẽ nằm lại và ngủ tiếp. Không biết tại sao đêm đó tôi lại thức dậy như thế. Chính ra Ravi mới là người sẽ làm như vậy. Anh thích từ ''vẫy gọi''. Trong trường hợp ấy, Ravi sẽ bảo ''Phiêu lưu đang vẫy gọi,'' và sẽ chạy ra thám thính khắp các nơi trên tàu. Mức độ tiếng ồn lại trở lại như thường, nhưng hình như có khác về chất, có lẽ hơi nghèn nghẹt khác trước.
Tôi lay Ravi. Tôi gọi, ''Ravi ! Có tiếng gì lạ lắm. Mình ra xem sao đi.''
Anh ngái ngủ nhìn tôi. Anh lắc đầu và trở mình, kéo chăn lên tận má. Ôi, Ravi !
Tôi mở cửa cabin.
Tôi còn nhớ mình đi dọc hành lang, nơi cảnh vật lúc nào cũng thế cả ngày lẫn đêm. Nhưng tôi cảm thấy đêm tối ở trong mình lúc đó. Tôi dừng lại trước cabin của cha mẹ và đã định gõ cửa. Tôi nhớ mình có nhìn đồng hồ và quyết định thôi không gõ cửa nữa. Cha thích giấc ngủ của cha lắm. Tôi quyết định sẽ lên boong đón bình minh. Có thể tôi sẽ thấy một ngôi sao đổi ngôi.Tôi đã nghĩ đến điều đó, đến các ngôi sao đổi ngôi, khi trèo lên thang. Cabin của chúng tôi ở cách boong hai tầng. Tôi quên hẳn cái tiếng động lạ kia rồi.
Chỉ khi đẩy mở cánh cửa nặng dẫn lên boong, tôi mới nhận thấy thời tiết lúc ấy ra sao. Đã gọi được là bão chưa nhỉ? Đúng là đang mưa, nhưng không đến nỗi to lắm. Rõ ràng chưa phải là mưa giật như trong những trận bão gió mùa. Có gió. Những cơn gió giật cũng đủ mạnh để lật ô. Nhưng tôi vẫn đi trong gió ấy không mấy khó khăn. Còn biển, trông dữ dội thật, nhưng với một kẻ sống trong đất liền thì biển cả bao giờ chẳng ghê gớm, hùng vĩ và đầy nguy hiểm. Những con sóng trào lên, và bọt trắng bị gió thổi quật tơi bời vào thành tàu. Nhưng tôi đã từng thấy cảnh đấy và có con tàu nào đắm. Một con tàu hàng là một cấu trúc bền vững khổng lồ, một chiến công của kỹ thuật. Nó được thết kế để nổi trên mặt nước trong những điều kiện tồi tệ nhất. Thời tiết kiểu này chắc sẽ không thể làm đắm tàu được, có phải vậy không nhỉ? Lạ thật, chỉ cần đóng cánh cửa và sẽ không thấy gió bão gì nữa. Tôi tiến hẳn lên boong. Tôi bíu chắc lấy lan can và ngửa mặt đón bão. Thích thật, đây mới là phiêu lưu mạo hiểm.
''Hỡi Canada, ta đã đến đây!'' Tôi gào lên, ướt sũng và lạnh cóng. Tôi thấy mình thật can đảm. Vẫn còn tối, nhưng cũng đả đủ sáng để nhìn thấy xung quanh. Sáng để thấy hết cảnh thiên nhiên gào thét. Một sân khấu khổng lồ, với ánh sáng thật kịch tính, với vô vàn những phụ kiện, và một ngân sách không hạn chế cho những hiệu quả đặc biệt. Trước mắt tôi là một khung cảnh hoành tráng của gió và nước, một trận động đất của các giác quan mà ngay cả Hollywood cũng không thể bầy đặt ra được. Nhưng trận động đất ấy ngưng lại ngay dưới chân tôi. Tôi đang đứng trên một nền tảng vững chãi. Tôi như một khán giả ngồi yên ổn trong ghế của mình.
Chỉ đến khi nhìn lên chỗ cái xuống cứu nạn trên cầu tàu, tôi mới bắt đầu thấy lo lắng. Cái xuồng không nằm ngay ngắn trong vị trí treo lơ lửng của nó. Nó nghiêng hẳn vào phía trong của hai vòng giá treo. Các khớp ngón tay tôi trắng bệch. hóa ra, tôi phải bíu chặt lấy lan can như vậy không phải vì gió bão, mà là nếu không thì tôi đã ngã về phía trong con tàu, lúc đó đang nghiêng dần sang phía sườn bên trái. Chưa nghiêng nhiều lắm, nhưng đủ để tôi kinh ngạc. Khi tôi nhìn sang phía bên kia, cảnh vật không còn bình thường nữa. Tôi nhìn thấy cả sườn tàu đen sì.
Tôi run bắn lạnh hết cả người. Tôi nhất định nghĩ rằng chỉ vì cơn bão mà thôi. Đã đến lúc về cabin. Tôi bỏ tay, bước vội về phía vách, dướn người mở cửa.
Bên trong tàu có nhiều tiếng động. Những tiếng rền rĩ trầm đặc của cấu trúc. Tôi vấp ngã. Không sao. Tôi vùng dậy. Vịn vào tay cầu thang, tôi chạy xuống từng 4 bậc một. Mới xuống đến tầng thứ nhất ở dưới tôi đã thấy nước. Nước tràn lan. Ngập hết lối đi. Nước dâng lên ào ạt từ bên dưới như một đám đông nổi loạn, giận dữ, ngầu bọt và sôi sùng sục. Tôi không thể tin vào mắt mình. Tại sao lại có nước ở đây? Nó ở đâu ra? Tôi đứng đóng đanh tại chỗ, hốt hoảng, hoang mang, không biết phải làm gì tiếp. Cả gia đình tôi đang ở dưới kia.
Tôi chạy trở lên boong. Thời tiết không còn làm trò mua vui như trước nữa. Tôi sợ hãi lắm. Bây giờ thì rõ ràng quá rồi: con tàu đang lật nghiêng một cách trầm trọng. Mà không phải chỉ về một phía. Nó đang nghiêng cả từ phía mũi xuống phía đuôi tàu. Nhìn sang phía bên kia boong, tôi thấy nước biển có vẻ cách mình chưa đến 20m. Tau đang chìm. Tôi không thể chấp nhận ý nghĩ đó. Nó khó tin như chuyện mặt trăng bốc cháy vậy.
Sỹ quan và thủy thủ đâu cả rồi? Họ đang làm gì vậy? Về phía mũi tàu, tôi thấy lờ mờ có mấy bóng người đang chạy. Hình như tôi thấy cả mấy con thú nhưng tôi gạt những hình ảnh ấy đi, coi chúng chỉ là ảo ảnh do mưa và bóng tối gây ra. Chúng tôi có mở then các cửa khoang thú vật khi thời tiết tốt, nhưng chúng luôn luôn được nhốt kín trong cách chuồng riêng. Chúng tôi đang chở các con thú hoang nguy hiểm chứ đâu phải gia súc. Phía trên cầu tàu, tôi nghĩ tôi nghe thấy có tiếng người đang hò hét.
Con tàu lắc mạnh một cái rồi đến cái tiếng động ấy, cái tiếng ợ kim loại ma quái. Cái gì vậy? Có phải là một tiếng thét tập thể của người và thú phản kháng cái chết đang đến với họ? Hay là tiếng thở dốc của chính con tàu khi trút bỏ linh hồn? Tôi ngã lộn nhào. Tôi vùng đứng dậy. Tôi lại nhìn ngang boong tàu và thấy biển dâng lên. Sóng gần lắm rồi. Chúng tôi đang chìm rất nhanh.
Tôi nghe thấy rõ ràng tiếng khỉ kêu thét. Có cái gì đang làm rung cả sàn tàu. một con bò tót ấn Độ chạy đâm bnổ từ trong mưa về phía tôi, ầm ầm chây qua tôi, hoảng sợ đến phát rồ. Tôi chỉ biết chết lặng nhìn nó. Lạy Chúa tôi, không biết ai lại thả nó ra như thế?
Tôi chạy ra cầu thang dẫn lên cầu tàu. Trên đó sẽ có các sỹ quan, những người nói được tiếng Anh duy nhất trên tàu, trong tay họ là vận mệnh của chúng tôi, họ sẽ chỉnh đốn được tình hình. Họ sẽ giải thích mọi chuyện. Họ sẽ bảo vệ được gia đình tôi và tôi. Tôi trèo lên cầu tàu giữa. Không thấy có ai bên này, tôi chạy sang phía bên kia, thấy có hai người trong thuỷ thủ đoàn. Tôi ngã. Tôi vùng dậy. Họ đang nhìn cả ra biển. Tôi hét lên. Họ quay lại. Họ nhìn tôi rồi nhìn nhau. Họ nói cái gì đó. Họ chây ù về phía tôi. Tôi lập tức thấy yên tâm. Tôi nói: ''Ơn Chúa, tôi đã tìm thấy các anh. Có chuyện gì vậy? Tôi sợ lắm. Dưới đáy tàu toàn là nước. Tôi lo cho gia đình tôi wá. Tôi không thể xuống dưới tầng có cabin của chúng tôi. Bình thường có chuyện này không? Các anh nghĩ...''
Một người trong bọn họ ngắt lời tôi bằng cách ấn vào tay tôi một cái áo phao cấp cứu và quát cái gì đó bằng tiếng Trung Quốc. Tôi để ý thấy một cái còi màu da cam lủng lẳng ở cái túi phao. họ đều gật đầu lia lịa về phía tôi. Khi họ túm lấy tôi và nhấc bổng tôi lên, tôi chẳng phật ý gì hết. Tôi nghĩ họ đang giúp tôi. Tôi thấy tin họ đến mức còn cảm thấy biết ơn họ khi họ nhấc bổng tôi lên như vậy. Chỉ khi họ ném tôi xuống biển, tôi mới bắt đầu thấy nghi ngờ.
Chương 39
Tôi rơi xuống, nảy bần bật trên tấm vải bạt căng che bọc một cái xuồng cứu nạn, mới được tháo ra một nửa, hàng chục mét bên dưới cầu tàu. Rất lạ là tôi không đau đớn gì. Cái áo phao rơi đâu mất, trong tay tôi còn lại cái còi. Cái xuồng đã được hạ xuống nửa chừng, vẫn còn đang lơ lửng. Nó nghiêng khỏi hai cái đà treo, đung đưa trong gió bão, cách mặt biển chừng 6 thước. Tôi nhìn lên. Hai người trong bọn họ đang nhìn xuống tôi, lấy tay chỉ cuống quýt vào cái xuồng và hò hét loạn xị. Tôi không hiểu họ muốn tôi làm gì. Tôi tưởng họ sắp nhảy xuống cùng với tôi. Nhưng họ quay đi, trông rất hoảng sợ, rồi một con vật bất thần nhảy vọt ra không trung với dáng điệu duyên dáng của một con ngựa đua. Con ngựa vằn không rơi trúng tấm vải bạt. Nó là một con đực giống Grant, nặng trên hai tạ rưỡi. Nó rơi ầm xuống cái ghế dài cuối xuồng, làm vỡ tan cái ghế và khiến cả cái xuồng run lên bần bật. Con vật kêu lên. Nhẽ ra phải là một tiếng hí rền rĩ như một con la hoặc con ngựa. Nhưng hoàn toàn không phải. Chỉ có thể gọi đó là một tiếng sủa the thé đau đớn vô cùng; khônga-ha-ha, khônga-ha-ha, khônga-ha-ha... Cặp môi nó vén hết lên, run bần bật, để lộ những cái răng vàng và hàng lợi màu hồng sẫm. Cái xuồng và chúng tôi cùng rơi xuống mặt nước đang sủi sùng sục.
Chương 40
Richard Parker không nhảy xuống nước theo tôi. Cái chèo tôi định dùng để đánh nó nổi bập bềnh. Tôi vớ lấy nó khi bơi về cái phao mà con hổ vừa bỏ ra. Dưới nước thật khủng khiếp. Tôi có cảm tưởng như đang ở dưới đáy một cái giếng đang sụt lở. Nước sôi lên giận dữ, đen ngòm, lạnh buốt. Các con sông liên tiếp nhào xuống tôi. Chọc vào mắt tôi. Dìm tôi xuống. Khiến tôi ngạt thở. Nếu không có cái phao, chắc chắn tọi đã không thể sống lấy một phút.
Tôi thấy một hình tam giác rẽ nước đi cách tôi khoảng 5 thước. Vây cá mập. Một nỗi sợ hãi rần rật chạy lên chạy xuống dọc sống lưng tôi như một dòng nước lạnh toát. Tôi hết sức bơi thật nhanh về một đầu xuồng, phía vẫn còn có tấm bạt che phủ. Tôi chống tay nghển lên xuống. Không nhìn thấy Richard Parker đâucả. Không ở trên tấm bạt, cùng không trên cái ghế dài nào. Nó đang ở dưới đáy xuồng. Tôi dướn lên tí nữa. Tôi chỉ thoáng thấy ở đầu xuồng đàng kia cái đầu con ngựa vằn vật vã tứ phía. Tôi để người ngã xuống nước trở lại. Ngay trước mắt tôi, một cái vây cá mập lẳng lặng lướt qua.
tấm bạt màu da cam sáng được buộc bằng dây nilông chắc luồn qua các lỗ khuyết kim loại tán dọc mép bạt và những cái móc tròn bên mạn xuồng. Tình cờ, tôi đang bơi ở phía mũi xuồng. Đoạn bạt phủ trên phần mũi - một cái mũi rất ngắn, nếu ở trên mặt người thì là một cái mũi tẹt - không được buộc chắc như ở các đoạn xung quanh xuồng. Đoạn dây luồn từ cái móc bên này sang cái móc bên kia của mũi xuồng không được chặt lắm, khiến cho tấm bạt được phủ lỏng ra một chút. Tôi lấy cán mái chèo chọc vào cái khe hở chỗ bạt lỏng ấy và hết sức đẩy nó vào thật sâu, đến hết cỡ mới thôi. Cái mũi xuồng thế là mọc ra thêm được một đoạn, cho dù hơi vẹo vọ một chút. Tôi đu lên cái chèo, hai chân quặp lấy nó. Cán chèo thúc lên tấm bạt, nhưng cả bạt, dầy chằng và cái chèo đều nguyên vị. Tôi không phải ngâm mình dưới nước nữa, mặc dù vẫn lửng lơ lắc lư cách mặt nước chỉ hơn một thước. Những ngọn sóng lớn vẫn quất vào người tôi.
Chỉ còn mình tôi, côi cút, giữa Thái Bình Dương, bám lửng lơ vào một mái chèo, hổ dữ trước mặt, cá mập dưới lưng, xung quanh là bão tố. Nếu tôi nhìn nhận tình trạng ấy của mình bằng lí trí tỉnh táo, chắc hẳn tôi đã bỏ cuộc và buông khỏi mái chèo đó với hy vọng sẽ được chết chìm trước khi bị ăn thịt. Nhưng tôi không thể nhớ mình có chút ý nghĩ gì trong vài phút đầu tương đối an toàn đó. Tôi còn không thể thấy là trời đang rạng sáng. Tôi chỉ biết bám chặt lấy mái chèo, chỉ vậy thôi, chỉ có Thượng đế mới biết tại sao.
Một lúc sau, tôi bắt đầu tận dụng được cái phao. Tôi nhấc nó lên khỏi mặt nước và luồn nó vào cái chèo. Tôi dịch nó xuống dần cho đến khi vòng phao quặp lấy cái chèo thôi. Nếu Richard Parker xuất hiện, nhẩy ra khỏi mái chèo trong tư thế đó sẽ khó khăn hơn, nhưng hãy cứ lo từng thứ 1, Thái Bình Dương trước, hổ dữ sau.
Chương 41
Trời đất đã để tôi sống. Cái xuồng không chìm. Richard Parker không thấy đâu. Bầy cá mập lượn lờ nhưng không tấn công. Sóng đánh vào tôi tơi bời nhưng không cuốn tôi đi.
Tôi nhìn mãi con tàu lúc nó chìm xuống khối nước sủi sùng sục. Những ánh đèn nhập nhoạng rồi tắt ngấm. Tôi cố tìm gia đình tôi, những ai còn sống sót, một cái xuồng cứu nạn khác, bất cứ gì có thể làm tôi hy vọng. Nhưng không có gì cả. Chỉ có mưa, những cơn sóng dữ dội của đại dương đen ngòm và dư vị thảm họa.
Bóng tối đã tan đi trên bầu trời. Mưa đã tạnh.
Tôi không thể ở trong tư thế của mình mãi. Tôi rét. Cổ tôi đau nhừ vì phải giữ cái đầu và phải nghển lên nghển xuống mãi cho đến lúc đó. Lưng cũng đau vì dựa mãi vào cái phao. Và tôi cần phải ở cao hơn nữa mới có thể qun sát xem có cái xuồng cứu nạn nào nữa không.
Tôi dịch xuống dọc cái chèo cho đến lúc hai bàn chân đặc lên được mũi xuồng. Phải rất thận trọng. Tôi đoán Richard parker đang nằm dưới tấm bạt, quay lưng về phía tôi, quay mặt ra chỗ con ngữa vằn mà chắc chắn là nó đã thịt mất rồi. Trong 5 giác quan, hổ dùng nhiều đến mắt nhất. Nhãn lựa của chúng mạnh, nhất là phát hiện các chuyển động. Tai chúng cũng thính. Mũi chúng thì thường. Tất nhiên tôi muốn nói là nếu so với các loài vật khác. Bên cạnh Richard Parker thì tôi là thằng điếc, mù và tịt mũi đặc. Nhưng lúc ấy nó không thể nhìn thấy tôi, và tôi ướt sũng như vậy thì nó cũng có thể không ngửi thấy, còn với tiếng giò gào biển thét khi đó, nếu tôi cẩn thận thì chắc nó không thể nghe thấy tôi. Một khi nó còn chưa biết đến tôi thì còn có cơ hội sống. Nếu biết, nó sẽ giết tôi lập tức. Tôi băn khoăn không biết nó có thể vọt lên qua tấm bạt không.
Sợ hãi và lí trí tranh nhau trả lời. Sợ hãi bảo được chứ, nó là một con thú ăn thịt hung dữ và mạnh mẽ, nặng tới hơn hai tạ. Móng nào của nó cũng sắc như dao. Lí trí lại nói không được đâu, tấm bạt rất chắc, không phải là vách giấy Nhật Bản. Tôi đã từ tít trên cao rơi xuống nó. Richard Parker có thể dùng móng cào xé tấm bạt dễ dàng và nhanh chóng, nhưng không thể nhảy chui qua tấm bạt đến póp một cái như thằng hề trong hộp đồ chơi. Và nó conchừa thấy tôi. Chưa thấy tôi thì nó chẳng có lí do gì phải cào xé tấm bạt để chui qua cả.
Tôi trườn dọc cái chèo. Tôi để cả hai chân sang một phía và đặt chân lên mạn xuồng, cái mép trên của sườn xuồng, hay gọi là cái gọng trên cũng được. Tôi dịch thêm chút nữa cho đến khi hai chân ở trong xuồng. Tôi không rời mắt khỏi cái mép bên kia của tấm bạt. Bất kì giây phút nào Richard Parker cũng có thể trỗi dậy nhào đến tôi. Người tôi phát ra nhưng cơn sợ run bần bật rất nhiều lần. Đúng cái chỗ cần phải im nhất là đôi chân thì tôi lại là chỗ tôi bị run mạnh nhất. Hai chân tôi run đùng đùng như gõ trống trên tấm bạt, Đến gõ cửa gọi Richard Parker thì cũng chỉ thế là cùng. Cơn run lan từ chân lên tay và tôi chẳng thể nào cản nổi chúng. Rồi từng cơn run sợ cũng qua đi.
Khi người tôi đã phần lớn vào trong xuồng, tôi gượng đứng dậy. Tôi nhìn sang qua tấm mép bạt, và ngạc nhiên thấy con ngựa vằn vẫn còn sống. Nó nằm gần đuôi xuồng, chỗ nó đã rơi xuống, bất động, nhưng bụng vẫn phập phồng thở dốc và mắt vẫn đáo điêng đầy hoảng hốt. Nó nằm nghiêng, quay mặt về phía tôi, đầu và cổ nghẹo trên cái ghế băng bên mạn xuồng một cách vụng về. Một chân sau nó đã gãy thảm hại. Cái góc gập hoàn toàn không tự nhiên. Xương lòi khỏi da và có máu chảy. Chỉ hai chân trước thanh mảnh là có vẻ vẫn còn trong tư thế tự nhiên. Chúng gập lại và thu gọn xuống bên dưới phần thân thể đã vặn vẹo. Thỉnh thoảng, con ngựa vằn lại ngúc ngắc đầu, kêu nấc lên và thở phì phò. Còn thì nó nằm bất động.
Một con vật đáng yêu. Những cái vằn của nó ánh lên, sáng trắng và đen tuyền. Đang cơn khắc khoải chết người, tôi không để ý nhiều, nhưng vẫn kinh ngạc nhận thấy, dù chỉ thoáng qua, cái kiểu dáng thật lạ, thật sạch và thật đẹp, cũng như cái đầu thanh tú của nó. Cái hệ trong lớn hơn đối với tôi là điều hiển nhiên lạ lùng rằng Richard Parker đã không giết nó. Các loài thú ăn thịt chỉ biết: chúng phải giết con mồi. Trong hoàn cảnh lúc ấy, Richard Parker, căng thẳng và sợ hãi đến thế, chắc chắn sẽ càng hung dữ hơn nhiều. Nhẽ ra con ngựa vằn phải bị ăn thịt rồi mới phải.
Nguyên nhân của việc tha chết đó chỉ một lúc sau hiển hiện ra trước mặt tôi. Nó làm máu tôi đông lại, rồi cũng làm cho tôi có một chút yên tâm. Một cái đầu xuất hiện ở cuối tấm bạt. Nó nhìn thẳng vào tôi một cách sợ hãi, thụt xuống, ngẩng lên, lại thụt xuống, lại ngẩng lên, rồi biến hẳn. Một cái đầu hói hao hao giống gấu của một con linh cẩu lông chấm. Vườn thú của chúng tôi có một bộ lạc linh cẩu gồm 6 con, hai con cái chỉ huy và 4 con đực lâu la. Chúng đang trên đường đến Minesota. Con này là một con đực. Tôi nhận ra nó vì cái tai bên phải, bị rách bươm và vết sẹo lởm chởm vẫn làm chứng cho những vụ bạo hành ngày trước của nó. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao Richard Parker đã không giết con ngựa vằn: nó không còn ở trên xuồng nữa. Không thể có một con linh cẩu và một con hổ trong cùng một nơi chật hẹp như vậy. Chắc hẳn nó đã lăn từ tấm bạt xuống dưới biển và chết đuối rồi.
Thế còn tại sao lại có con linh cẩu này ở trên xuồng? Tôi không tin linh cẩu có thể bơi ngoài biển khơi. Chỉ có thể kết luận rằng nó đã ở trên xuồng từ trước, trốn lên tấm bạt, và tôi đã không thấy nó lúc rơi xuống xuồng. Tôi nhận ra một điều nữa: con linh cẩu là lí do những thuỷ thủ kia đã ném tôi xuông xuồng. Không phải họ định cứu tôi. May ra đó chỉ là ý định cuối cùng của họ. Họ muốn dùng tôi làm vật thí mạng. Họ hy vọng con linh cẩu sẽ tấn công tôi và may ra tôi sẽ trừ khử được nó và làm cho cái xuống được an toàn để họ xuống, tôi có chết cũng chẳng sao. Bây giờ thì tôi hiểu họ đã chỉ tay lia lịa vào cái gì dưới xuồng trước khi con ngựa vằn xuất hiện.
Tôi không bao giờ nghĩ rằng việc mình bị nhốt cùng với một con linh cẩu ở một nơi chật hẹp như thế lại là một tin lành, nhưng biết làm sao được. Mà thực ra tôi có những hai cái tin lành: nếu không có con linh cẩu thì đám thủy thủ đã chẳng ném tôi xuống xuồng và nhất định tôi đã chết chìm theo con tàu; còn việc phải chung cư với một con thú thì thà là với con chó dữ con hơn là con hổ hung bạo và nhanh như cắt kia. Để cho an toàn, tôi dịch trở lại lên cái chèo. Dạng chân sang hai bên, tôi ngồi lên mép cái phao, bàn chân trái đặt trên mỏm mũi xuồng, chân phải trên mép xuồng. Cũng đủ đễ chịu và cho phép tôi quay mặt vào xuồng.
Tôi nhìn quanh. Chẳng có gì ngoài biển và trời. Giống hệt như khi ta ở trên một đỉnh cao nào đó. Mặt biển thấp thoáng nhại lại các nét đặc trưng của đất liền - những ngọn đồi, những thung lũng, những cánh đồng. Những biến động địa chất được tăng tốc. Vòng quanh thế giới trong 80 ngọn sóng. Nhưng tôi chẳng tìm thấy gia đình tôi ở nơi nào trong cái thế giới ấy. Có những vật nổi bập bềnh trên mặt nước nhưng chẳng có cái nào mang lại chút hy vọng. Tôi không thể tìm thấy một xuồng cứu nạn nào khác.
Thời tiết thay đổi nhanh chóng. Mặt biển, mênh mông là thế, đến mức ngạt cả thở, đang dần dần trở lại ổn định trong một chuyển động đều đặn và mượt mà, với những con sóng đuổi theo nhau. Gió đang diu lại thành một làn mơn man đầy âm hưởng. Những đám mây trắng lúp xúp tỏa sáng đang bắt đầu sáng lên trên nền xanh nhạt tinh tế của vòm trời vô biên sâu thẳm. Đó là bình minh của một ngày đẹp trời trên Thái Bình Dương. Chiếc áo trên người tôi đã bắt đầu khô. Đêm tối biến đi nhanh chóng chẳng kém gì con tàu.
Tôi bắt đầu chờ đợi. Tâm trí tôi đảo điên. Hết tập trung vào những chi tiết thực tế của việc sống còn trước mắt rồi lại ngây dại trong đau đớn, khóc chẳng ra lời, miệng há, hai tay ôm đầu.
Chương 42
Nó tới, bập bềnh trên một hòn đảo chuối và trong một vầng hào quang, đẹp không khác gì Mary Đồng Trinh. Mặt trời đang mọc lên sau lưng nó. Lông tóc nó như bốc lửa trông thật sướng mắt.
Tôi kêu lên: ''Ôi chao! Hỡi Mẹ vĩ đại đầy ân điển, hỡi nữ thần sinh thực của vùng Pondicherry, người mang lại sữa và tình yêu, vòng tay an ủi tuyệt với, nỗi khủng khiếp của chấy rận, người ẳm bế những kẻ khóc lóc, chẳng nhẽ người cũng phải chứng kiến tấn thảm kịch này ư? Dịu dàng phải gặp khủng khiếp là không phải lẽ rồi. Sao người không chết ngay có hơn chăng? Gặp người thế này thật vui mừng và cay đắng biết bao. Người đem lại phần đau đớn và vui mừng ngang nhau. Vui mừng vì có người bên ta, nhưng đau đớn vì sẽ chẳng được mấy chốc. Người biết gì về biển cả? Không biết gì hết. Ta biết gì về biển cả? Cũng không biết gì hết. Không có tài xế, chiếc xe buýt này sẽ lạc mất thôi. Chúng ta thế là hết đời rồi. Hãy lên xuồng nếu số phận người vẫn còn mờ mịt - ta hãy cứ biết bến này đã. Ta có thể ngồi bên nhau. Người có thể lấy chỗ cạnh cửa sổ, nếu người thích. Nhưng quang cảnh sẽ buồn đấy. Ôi chao, lẩm cẩm thế đủ rồi. Để ta nói thẳng ra nhé: ta yêu n gười, ta yêu người, ta yêu người. Ta yêu người, ta yêu người, ta yêu người. Nhưng mà không được có bọn nhện đâu nhé.''
Đó là con Nước Cam - gọi nó thế vì nó hay rớt rãi lòng thòng - con khỉ độc cái vùng Borneo quí giá, minh tinh của vườn thú và mẹ của hai thằng con xinh xắn, xung quanh là cả một đám nhện đen lổm ngổm bò như một đám tín đồ hắc ám. Những quả chuối mà con khỉ độc ngồi lên trên được ràng với nhau bởi cái lưới nylông đựng chúng mà người ta đã cứ thế ròng xuống tàu. Khi con khỉ bước sang xuồng, đám chuối dập dềnh rồi lộn ngửa. Cái lưới tuột ra. Không suy nghĩ gì, chỉ vì thấy nó ngay gần và sắp chìm mất, tôi với tay túm lấy cái lưới và kéo lên xuồng, một việc ngẫu nhiên sau này đã cứu sống tôi nhiều lần. Cái lưới sẽ trở thành một trong những sở hữu quý giá nhất của tôi.
Những quả chuối tản ra. Bầy nhện bò như điên, nhưng tình thế của chúng là tuyệt vọng. Hòn đảo chuối tan rã dưới chân chúng. Chúng chết đuối hết cả. Trong giây lát, cái xuồng như trôi trên một biển chuối.
Tôi đã nhặt lên cái lưới mà tôi nghĩ là vô tích sự, nhưng lại không nghĩ đến việc nhặt những quả chuối kia. Thật vậy. Không một quả nào. Đó là một cuộc chia chác chuối theo nghĩa sai lầm nhất: biển cũng giải tán đám chuối ấy. Sự phí phạm khổng lồ ấy sau này khiến lòng tôi nặng trĩu. Tôi đã phải vật vã sầu muộn vì sự ngu ngốc của mình.
Nước Cam còn đang mù mịt như trong sương. Dáng điệu nó chậm chạp và dò dẫm. Mắt nó phản chiếu nỗi hoang mang tinh thần ghê gớm. Nó đang trong cơn choáng rất mạnh. Nó nằm thẳng đờ trên tấm bạt trong nhiều phút, im lìm, lặng lẽ, rồi dướn người lăn xuống lòng thuyền. Tôi nghe thấy con linh cẩu kêu thét lên một tiếng.
Chương 43
Dấu vết cuối cùng mà tôi nhìn thấy của con tàu là một vệt dầu loang lấp lánh trên mặt nước.
Tôi tin không phải chỉ có mình tôi. Không thể tưởng tượng được rằng con tàu Tsimtsum bị đắm mà không gây nên một chút quan tâm nào. Ngay lúc bấy giờ tại Tokyo, tại Panama City, Madras, Honolulu, và sao nữa, ngay cả ở Winnipeg, đèn đỏ đang reo, những cặp mắt trợn trừng sợ hãi, những cái miệng hổn hển thốt lên: ''Lạy Chúa! Tàu Tsimtsum đắm rồi!'', và những bàn tay chộp vội lấy ống nghe điện thoại. Thêm nhiều nữa đèn đỏ nhấp nháy và thêm nhiều nữa chuông báo động réo lên. Phi công đang chạy đến máy bay, vội vã đến mức chưa kịp cả buộc dây giày. Sỹ quan trên các con tàu thủy thủ vặn tay lái đến chóng mặt. Cả những con tàu ngầm cũng lượn vòng dưới nước để tham gia cuộc cứu nạn. Chúng tôi sắp được cứu. Một con tàu sẽ xuất hiện trên đường chân trời. Một khẩu súng sẽ giết con linh cẩu và đưa con ngựa vằn thoát khỏi tình trạng khốn khổ của nó. Có thể con Nước Cam cũng sẽ được cứu thoát. Tôi sẽ trèo lên tàu và gặp lại gia đình tôi. họ đã được người ta vớt lên từ một cái xuồng khác. Chỉ cần tôi làm sao sống sót được vài giờ nữa là tàu cứu nạn sẽ đến.
Tôi với xuống nhặt cái lưới, cuộn nó lại rồi ném nó xuống giữa tấm bạt để làm vật cản, cho dù thật cỏn con. Nước Cam hình như liệt hoàn toàn. Tôi đoán nó vẫn còn choáng. Chỉ có con linh cẩu làm tôi lo. Tôi có thể nghe tiếng nó rên rỉ. Tôi bám lấy hy vọng rằng một con ngựa vằn, vốn là mồi quen thuộc của nó, và một con khỉ độc, cũng có thể ăn được dù chưa quen, sẽ làm cho nó không nghĩ nhiều đến tôi.
Tôi để một mắt về phía chân trời, mắt kia về phía đuôi xuồng. Ngoài tiếng rền rĩ của con linh cẩu, tôi không nghe thấy gì nhiều từ phía mấy con thú, chỉ có vài tiếng móng cào lên một cái gì cứng và thảng hoặc có vài tiếng rên và tiếng kêu tắc nghẹn. Hình như không có đánh nhau gì giữa bọn chúng.
Giữa buổi sáng thì con linh cẩu lại xuất hiện. Mấy phút trước đó riếng rền rĩ của nó đã to hẳn lên thành một tiếng kêu thét thật sự. Nó nhảy qua con ngựa vằn lên đuôi xuồng, nơi hai mặt ghế ở hai bên sườn xuồng liền với nhau thành một hình tam giác.Đó là một vị trí khá lộ liễu, khoảng cách giữa mặt ghế và mép xuồng chỉ độ 30 phân. Con vật lo lắng nhìn ra ngoài xuồng. Nước biển mênh mông lên xuống có vẻ khiến nó khiếp đảm, vì nó lập tức thụt đầu nhảy tọt xuống lòng xuồng ngay sau con ngựa vằn. Chỗ ấy rất hẹp, ép giữa cái lưng rộng bè của con ngựa vằn và sườn các thùng phao chạy suốt quanh xuồng dưới gầm ghế, cho nên con linh cẩu không thể nằm được. Nó vật vã một lúc rồi lại trèo lên đuôi xuồng, nhẩy qua con ngựa vằn vào giữa xuồng, biến xuống dưới tấm bạt. Những việc đó diễn ra chưa đến 10 giây đồng hồ. Con linh cẩu đã chỉ cách tôi chưa đầy 5 mét. Phản ứng duy nhất của tôi là cứng người lại vì sợ. Con ngựa vằn thì vội nghển đầu lên và sủa ầm ĩ.
Tôi hy vọng con linh cẩu sẽ ở lại dưới tấm bạt. Nhưng nào có được. Gần như ngay lập tức, nó lại nhảy qua con ngựa vằn lên cái ghế ở đuôi tàu. Nó đứng quay tròn trên mặt ghế, kêu ư ử, có vẻ chần chừ cái gì đó. Tôi đang đoán nó sẽ giở trò gì tiếp theo thì nhoáng một cái, nó chúi đầu chạy vòng quanh con ngựa vằn, biến cái ghế dài đuôi xuồng, ghế hai bên mạn và cái chạy ngang xuồng ngay sát tấm bạt thành một vòng đua dài khoảng 6 mét. Nó chạy một vòng - hai - 3 - 4 - 5 - và cứ thế chạy tiếp, không nghỉ, cho đến khi tôi không đếm được nữa. Và trong suốt thời gian ấy, vòng này qua vòng khác, nó kêu liên tục bằng một giọng the thé: yip yip yip yip yip. Một lần nữa, tôi phản ứng rất chậm chạp. Tôi sững người vì sợ và chỉ có thể ngó trân trân con thú. Nó chạy rất khỏe và đều. Nó chẳng bé nhỏ chút nào, nó đã là một con đực trưởng thành, trông phải nặng đến 70 cân. Chân nó giậm trên mặt ghế làm cả xuồng run động, móng đập canh cách. Mỗi lần nó hạy khỏi phía đuôi xuồng là tôi lại căng thẳng. Nhìn con thú chạy về phía mình đủ làm tôi dựng tóc gáy, nghĩ đến cảnh nó cứ thế lao vào mình thì sợ vô cùng. Rõ ràng, Nước Cam, ở đâu thì ở, không thể cản đường nó được. Còn tấm bạy đã quấn lên một chút và cái cuộn lưới tôi đã ném lên đó thì còn là các vật phòng thủ thảm hại hơn. Nếu muốn là con thú có thể vọt lên mũi xuồng ngay sát chân tôi. Nhưng có vẻ nó không có ý định ấy. Lần nào chạy đến cái ghế ngang, nó cũng rẽ theo đó và tôi lại thấy cái lưng nó nhấp nhô rất nhanh dọc theo mép tấm bạt. Tuy nhiên, trong tình trạng này, hành động của con linh cẩu là không thể lường được và bất kì lúc nào nó cũng có thể bất ngờ tấn công tôi.
Sau nhiều vòng chạy, nó đột ngột dừng lại trên mặt ghế đuôi và phủ phục, đưa mắt nhìn chăm chăm xuống dưới gầm tấm bạt. Rồi nó ngước lên nhìn thẳng vào tôi. Vẻ nhìn gần như điển hình của loài linh cẩu - trống rỗng và thẳng thắn, rõ ràng là tò mò mà lại không để lộ một tâm trạng gì, hàm dưới trễ, đôi tai to dựng đứng, mắt sáng và đen tuyền - một vẻ căn thẳng ứa ra từ từng tế bào trên cơ thể, một nỗi khắc khoải khiến cho con thú bừng bừng lên như đang cơn sốt. Tôi chuẩn bị cho kết cục của mình. Nhưng chẳng có gì cả. Nó lại bắt đầu chạy vòng quanh.
Khi một con thú quyết định làm cái gì, nó có thể làm việc đó rất lâu. Suốt sáng, con linh cẩu chạy vòng tròn và kêu yip yip yip yip yip. Thỉnh thoáng nó dừng lại một tí trên cái ghế đuôi xuồng, còn thì vòng nào cũng hệt như nhau, không có thay đổi gì trong cách chạy, tốc độ, cao độ và âm lượng của những tiếng yip yip, hướng chạy ngược chiều kim đồng hồ. Tiếng yip yip của nó chói tai và khó chịu vô cùng. Nhìn nó chạy như thế mãi cũng phát chán và mệt mỏi, đến nỗi tôi phải quay đầu sang bên, chỉ hơi để mắt một chút đề phòng mà thôi. Ngay con ngựa vằn, lúc đầu cứ khịt lên ầm ĩ mỗi lần con linh cẩu chạy qua đầu, sau cũng nằm im lìm.
Thế mà cứ mỗi lần con lin cẩu dừng lại ở cái ghế đuôi xuồng, tôi lại thót tim. Cho dù đã cố chỉ để mắt về phía chân trời với hy vọng nhìn thấy 1con tàu cứu nạn, tôi vẫn không thể ngừng để ý đến con vật điên khùng kia.
Tôi không có thành kiến với bất kỳ một con thú nào, nhưng rõ ràng con linh cẩu lông chấm này đã không được chăm sóc cẩn thận. Trông nó xấu đến mức không thể thương được. Cái cổ to và đôi vai so lại, chạy xuôi xuống thân sau của nó trông như mẫu một con hươu cao cổ mà tạo hóa đã phải bỏ đi, còn bộ lông thì tơi tả như chấp vá từ những phế thải của tạo vật. Mầu nó là một hỗn tạp vàng xỉn, đen, vàng chanh, xám, với những cái chấm không có chút gì như vẻ phô trương quý phái của bộ lông chấm xếp thành hình hoa hồng ở loài báo; chúng giống như triệu chứng của một căn bệnh ngoài da thì đúng hơn, như một chứng ghẻ lở ác tính của động vật. Cái đầu rộng bè và quá khổ, cái trán cao như trán gấu nhưng lại bị một đường chân tóc thụt lùi làm xấu mã, đôi tai giống tai chuột một cách nực cười, vừa to vừa tròn, mõm lúc nào cũng há thở phì phò. Lỗ mũi quá to. Đuôi thì xơ xác và chẳng ve vẩy lúc nào. Dáng điệu vụng về. Tất cả các bộ phận ấy lắp vào thành ra giống như chó, nhưng là một con chó không ai muốn nuôi làm bạn.
Song tôi vẫn không quên lời cha tôi. Đây không phải là những con thú hèn nhát chuyên ăn thịt chết. Nếu tạp chí National Geographic đã mô tả chúng như vậy thì đó là họ chỉ quay phim chúng vào ban ngày. Còn khi trăng lên thì ngày mới thực sự bắt đầu đối với linh cẩu, và chúng đã chứng tỏ là những con thú săn mồi đáng sợ. Linh cẩu tấn công theo bầy, bất kì con thú gì chúng có thể đuổi kịp, và xé xác con mồi ngay khi còn đang chạy. Chúng săn ngựa vằn, sơn dương, trâu nước, không phải chỉ những con già yếu, mà cả những con cường tráng trong bấy. Chúng tấn công dữ dội, luôn vùng dậy lập tức nếu bị con mồi đè hoặc đá ngã, không bao giờ bỏ cuộc vì thoái chí. Và chúng tinh khôn, thích săn những con thú vừa lọt lòng mẹ. Một con sơn dương mới được 10 phút tuổi là món ăn ưa thích nhất của chúng. Nhưng linh cẩu cũng ăn cả sư tử và tê giác non. Chúng chu đáo hết sức khi đã bắt được con mồi. Chỉ sau 15 phút là cả một con ngựa vằn sẽ chỉ còn lại cái đầu lâu, cũng sẽ lại được lôi về hang để lũ con yên tâm gậm gạp. Không có gì bỏ phí; chúng ăn cả những đám cỏ đã dây máu của con mồi. Bụng linh cẩu phình ra rõ rệt khi chúng nuốt chửng những miếng mồi lớn. Nếu may mắn, chúng sẽ ăn nó đến độ lặc lè. Khi đã tiêu hóa, chúng ho ra những cục lông đặc sệt, liếm láp sạch những gì còn sót lại trên đó, rồi lăn người ra trên những cục lông ấy. Linh cẩu lỡ ăn thịt lẫn nhau khi mải mê cắn xé con mồi là chuyện thường. Khi chen vào ăn một con ngựa vằn chẳng hạn, một con linh cẩu có thể ngoạm đứt tai hoặc mũi một bạn bầy của nó, không hề có ý thù hằn gì. Linh cẩu không ghê tởm một lầm lỡ như vậy. Chúng có quá nhiều vui thú, không còn chỗ cho một cảm giác ghê tởm về bất cứ điều gì.
Trong thực tế, tính phóng khoáng trong thị hiếu ăn uống của linh cẩu là bất chi kì vị đến độ gần như bắt buộc người ta phải khâm phục. Một con linh cẩu sẽ uống ngay nước mà chính nó vừa đái vào. Nó còn dùng nước đái một cách rất đặc biệt: khi trời khô nóng, nó tự làm mát bằng cách đái xuống đất, lấy chân bới trộn thành một đám bùn rồi lăn mình nằm xuốngđó. Linh cẩu ăn phân của các loài ăn cỏ với những tiếng chép miệng ngon lành. Vấn đề ở đây là linh cẩu sẽ tha không ăn cái gì? Chúng ăn thịt đồng loại (ăn nốt phần còn lại của những con mà chúng đã khai vị bằng các mẩu tai và mũi) khi con kia đã chết và để đó được một ngày. Chúng tấn công cả các loại xe cộ - đèn pha, ống xả, gương chiếu hậu. Bụng dạ tiêu hóa không phải là hạn chế của chúng, mà là vấn đề hàm răng chúng khỏe đến đâu mà thôi. Mà răng chúng thì thật đáng sợ.
Đó là con thú đang chạy vòng tròn ngay trước mặt tôi. Một con thú khiến tôi đau mắt và lạnh ruột.
Mọi thứ kết thúc theo kiểu linh cẩu điển hình. Nó dừng lại ở đuôi xuồng và bắt đầu phát ra những tiếng rên rỉ trầm đặc xen lẫn những cơn thở dốc nặng nề. Tôi dịch người mãi lên cho đến lúc chỉ còn đầu ngón chân là chạm vào xuồng. Con thú sặc sụa và ho khan. Rồi đột nhiên nôn thốc. Một bãi nôn rơi toẹt xuống đằng sau con ngựa vằn. Con linh cẩu ngã người xuống bãi nôn của mình. Nó ở đó, run bần bật, rên ư ử, xoay tròn tại chỗ, như khám phá cho hết các ngõ ngách của cơn đau khổ thú vật của mình. Nó không ra khỏi cái chỗ chật hẹp ấy nữa. Thỉnh thoảng, con ngựa vằn lại làm ầm lên một lúc vì con linh cẩu ở ngay sau nó, còn phần lớn thời gian ngựa vằn chỉ tuyệt vọng nằm im thin thít.
Chương 44
Mặt trời leo lên đỉnh ngày rồi lại bắt đầu xuống. Suốt hôm đó tôi vắt vẻo trên cái chèo, chỉ động cựa đủ để giữ thăng bằng. Toàn bộ con người tôi chăm chú đợi một cái chấm sẽ xuất hiện ở chân trời và đến cứu tôi. Một trạng thái chán chường căng thẳng, ngạt thở. Những giờ phút đầu tiên ấy trong kí ức tôi gắn liền với một tiếng động, không phải như bạn đoán đâu, không phải tiếng yip yip của con linh cẩu hoặc tiếng sóng biển gầm thét, mà là tiếng ruồi bay vo ve. Có ruồi trên xuồng thật. Chúng chui ra và bay quanh quẩn theo kiểu ruồi, nghĩa là thành từng quĩ đạo rộng lười nhác, trừ những khi chúng gặp nhau và xoắn xuýt đến chóng mặt theo các đường xoáy trôn ốc với tiếng vù vù phát thành từng cơn. Có những con ruồi dám bay cả về phía tôi. Chúng bay thành vòng xung quanh tôi, nghe như tiếng máy bay một động cơ quay vè vè, rồi lại ù té bay ra chỗ khác. Không biết chúng vẫn ở sẵn trên xuồng hay đã bám theo một con thú nào tới, có thể nhất chỉ là con linh cẩu. Dù ở đâu ra, chúng cũng không tồn tại lâu; chỉ hai ngày sau là không thấy con ruồi nào nữa. Con linh cẩu ở đằng sau con ngựa vằn đã đớp và nuốt chửng một số. Những con khác có thể đã bị gió thổi xuống biển. Biết đâu chẳng có một số ít may mắn được chết vìđã hưởng trọn tuổi đời.
Càng gần đến tối tôi càng khắc khoải lo âu. Cái gì liên quan đến đoạn ngày tàn cũng làm tôi sợ hãi. Một con tàu sẽ khó lòng nhìn thấy tôi trong bóng tối. Đêm đến, con linh cẩu có thể hoạt bát trở lại và có khi cả con Nước Cam nữa.
Màn đêm buông xuống. Không trăng. Mây che hết sao. Mọi vật đều không phân biệt được rõ ràng nữa. tất cả đều biến mất, biển cả, chiếc xuồng, cả đến thân thể tôi. Biển lặng và hầu như không có gió, nên tôi cũng không thể neo mình vào âm thanh. Dường như tôi đang nổi trôi trong một vòmđen ngòm tinh khiết và trừu tượng. Tôi đăm đắm nhìn về nơi mà tôi nghĩ là chân trời, trong khi dỏng tai cảm giác dấu hiệu của các con thú. Tôi không thể tưởng tượng đã sống qua được đêm đó.
Có những lần trong đêm, con linh cẩu bắt đầu gầm gừ và con ngựa vằn vừa sủa vừa rên ư ử, rồi tôi nghe có tiếng gõ cành cạch liên hồi. Tôi lẩy bẩy - và chẳng dám giấu nữa - vãi đái dầm dề cả ra quần. Nhưng những tiếng động ấy là ở phía đằng kia của xuồng. tôi không thấy có tí lắc lư nào do chuyển động gây nên. Con thú kinh hoàng kia rõ ràng có vẻ không mon men về phía tôi. Gần hơn trong bóng tối, tôi bắt đầu nghe những tiếng thở hắt, rên rỉ, gầm gừ và tiếng chép miệng nhoen nhoét. Tôi không dám nghĩ đến chuyện con Nước Cam đang động cựa. Chỉ đành lờ nó đi. Cũng có cả những tiếng động phát ra từ bên dưới tôi, ở dưới nước. Những tiếng đập nước và rẽ nước thoắt đến thoắt đi. Cuộc đấu tranh sinh tồn diễn ra cả dưới đó nữa.
Chương 45
Từng phút giây chậm chạp, đêm đó rồi cũng qua.
Tôi rét. Đó chỉ là một quan sát lạc đề, như thể nó chẳng can hệ gì đến tôi. Ngày rạng. Nó diễn ra nhanh chóng, nhưng vẫn theo từng mức độ không nhận ra được. Một góc trời chuyển màu. Không trung bắt đầu ngập tràn ánh sáng. Biển cả bình thản mở ra xung quanh tôi như một cuốn sách lớn lao. Nhưng vẫn cảm thấy như còn trong đêm. Thế rồi thình lình ngày tới.
Cảm giác ấm áp chỉ đến khi mặt trời trông như một trái cam có thắp đèn điện, nhô lên khỏi chân trời, nhưng tôi đã không phải chờ đến lúc ấy mới cảm thấy được. Nó đã sống dậy cùng với những tia sáng đầu tiên: hy vọng. Khi mọi vật dần hiện ra với đường viền và màu sắc của chúng, niềm hi vọng cũng dâng cao cho đến lúc thành một bài ca trong lòng tôi. Ôi chao, đắm mình trong bài ca ấy mới kì diệu làm sao! Mọi thứ rồi sẽ đâu vào đấy. Cái tệ hại nhất đã qua rồi. Tôi đã sống được qua đêm. Hôm nay người ta sẽ cứu tôi. Nghĩ như thế, xâu từng chữ ấy vào với nhau trong đầu, đã là một nguồn hy vọng. Hy vọng sinh hy vọng. Khi chân trời đã thành một đường thẳng gọn gàng sắc nét, tôi háo hức đưa mắt nhìn dọc theo nó. Ngày trong vắt và tầm nhìn hoàn hảo. Tôi tưởng tượng Ravi sẽ là ng` đầu tiên gọi chào tôi với một câu trêu ngươi. ''Cái gì thế này?'' Anh ấy sẽ nói. ''Mày tìm được một cái xuồng vĩ đại và chất đầy thú vật lên đó ư? Mày tưởng mà là thánh Noah hay cái gì chứ?'' Cha sẽ râu ria không cạo và trông rất chán đời. Mẹ sẽ ngước nhìn trời và kéo tôi vào lòng. Tôi điểm qua hàng chục cảnh khác nhau của những gì có thể diễn ra khi tôi đã ở trên tàu cứu nạn, các biến tấu của chủ đề đoàn tụ ngọt ngào. Sáng hôm đó, chân trời có thể cong theo một chiều, còn môi tôi thì cương quyết cong theo chiều của một nụ cười.
Nghe thì lạ đấy, nhưng đúng là mãi về sau tôi mới bắt đầu để mắt nhìn xem cái gì đang xảy ra trên xuồng. Con linh cẩu đã tấn công con ngựa vằn. Mồm nó đỏ chói và đang nhai một mẩu da ngựa. Mắt tôi tự động tìm kiếm vết thương, chỗ con ngựa vằn bị tấn công. Tôi há hốc mềm vì khủng khiếp.
Cái chân gãy của con ngựa vằn không còn nữa. Con linh cẩu đã cắn nó rời ra và tha về cuối xuồng, ngay sau con ngựa. Một mảng da lủng lẳng dính trên cái mỏm cụt vẫn còn chảy máu ròng ròng. Nạn nhân chịu đựng một cách kiên nhẫn, không có vật vã bộ tích gì. Dấu hiệu đau đớn duy nhất của nó là hai hàm răng cứ chậm chạp đều đặn nghiến vào nhau liên tục. Một cảm giác choáng, quằn quại và căm giận trào lên trong tôi. Tôi cảm thấy căm thù con linh cẩu đến cao độ. Tôi đã nghĩ cách giết nó bằng cách nào đó. Nhưng tôi chẳng làm gì được. Và nỗi căm giận của tôi cũng chẳng được là mấy. Tôi phải trung thực trong chuyện này. Tôi không đủ lòng thương xót con ngựa vằn được lâu. Khi chính cuộc sống của ta bị đe dọa, ý thức thương cảm bị cùn đi bởi một thèm khát sống đầy ích kỉ. Thật buồn là nó phải đau đớn đến thế - một sinh linh gặp tử nạn mà chưa được giải thoát - nhưng tôi đâu có làm được gì. Tôi thấy thương cảm, rồi lại lo việc mình. Tôi không thể tự hào về chuyện đó. Tôi phiền lòng vì mình đã ghẻ lạnh như vậy. Thực ra tôi nào có quên được con ngựa vằn khốn khổ ấy và những gì nó phải trải qua. Không có lần cầu kinh nào tôi không nghĩ đến nó.
Vẫn không thấy có dấu hiện gì của con Nước Cam. Tôi lại đưa mắt về phía chân trời.
Chiều hôm đó có gió mạnh lên đôi chút và tôi để ý thấy một điều: cái xuồng trôi nổi trên mặt nước rất nhẹ nhàng, rõ ràng vì chở nhẹ hơn tải trọng của nó. Còn nhiếu chỗ trống trên xuồng, và khoảng cách giữa mặt nước và mép xuồng rất lớn; biển phải dữ dội lắm mới có thể đánh chìm được xuồng. Nhưng cũng chính vì tải nhẹ như vậy mà xuồng cứ bị xoay ngang khi có gió, khiến cho mạn xuồng luôn luôn phải hứng các con sóng đập vào. Sóng nhỏ thì như thế có ai nắm tay liên tục đấm vào mạn xuồng, còn sóng to thì làm xuồng bập bềnh rất mệt khi nó bị lắc liên tục từ mạn này sang mạn kia. Chuyển động lắc liên tục ấy làm tôi say sóng.
Có lẽ tôi sẽ thấy đỡ hơn trong một tư thế khác. Tôi trườn xuống và dịch chỗ trở lại mũi xuồng. Tôi ngồi quay mặt đón sóng, toàn bộ phần còn lại của xuồng ở phía tay trái tôi. Tôi gần con linh cẩu hơn, nhưng không thấy nó động cựa gì.
Đang khi hít thở thật sâu và tập trung vào việc ngăn chặn cơn say sóng thì tôi thấy Nước Cam. Tôi đã tưởng nó chọn một chỗ khuất dưới tấm bạt và gần mũi xuồng, càng xa con linh cẩu càng tốt. Nhưng không phải thế. Nó ở ngay trên một cái ghế bên sườn xuồng, sát cạnh con đường chạy vòng tròn của con linh cẩu và ngay trên chỗ tấm bạt được cuốn lên. Nó chỉ nhấc đầu lên độ hai phân gì đó và ngay lập tức tôi nhìn thấy nó.
Không cưỡng nổi tò mò, tôi muốn nhìn nó rõ ràng hơn. Mặc dù xuồng lắc lư, tôi vẫn cố gượng quỳ được lên. Con linh cẩu nhìn tôi, nhưng không nhúc nhích. Nước Cam hiện ra. Nó nằm chúi và bám chặt lấy mép xuồng bằng cả hai tay, đầu gục hẳn xuống. Mỏm nó há hốc, lưỡi th?