← Quay lại trang sách

Phần 2(tt) Thái Bình Dương-Chương 50

Nó sâu hơn một thước, rộng hai thước rưỡi và dài tám thước, chính xác. Tôi biết vì các kích thước đó đựoc in bằng chữ màu đen trên một cái ghế bên sườn. Còn ghi rõ là chiếc xuồng đựơc thiết kế để chở đựơc tối đa là ba mươi hai người. Liệu cùng chung xuồng với bằng ấy người có vui thú không đây? Chúng tôi chi có ba mà đã chật đến thế. Cái xuồng có hình đối xứng, hai đầu đều tròn khó phân biệt đầu đuôi. Nhận ra đằng đuôi vì có một cái bánh lái lắp cố định ở đó, chỉ như cái sống xuồng chạy nhô ra một tí, còn đằng mũi thì,

ngoài tôi ra, có một đoạn kéo dài thêm và kết thúc bằng một cái mũi có hình dáng buồn rầu, rẹt gí nhất trong lịch sử đóng tàu. Vỏ xuồng bằng nhôm đầy đinh tán và sơn màu trắng.

Đó là bên ngoài. Bên trong, nó không rộng như người ta tưởng vì có các hàng ghế hai bên và các thùng phao. Ghế bên chạy dọc suốt chiều dài xuồng, nối với nhau ở hai đầu thành các đoạn ghế mũi và đuôi có hình gần như là tam giác. Các đoạn ghế này chính là mặt trên của các thùng phao gắn kín. Ghế chạy hai bên rộng chừng hơn bốn muơi lăm phân, cònở hai đầu thì quãng chín mươi phân. Vì vậy, khoảng trống lộ thiên của xuồng chỉ dài hơn sáu thước và rộng khoảng thứơc rưỡi. Nó tạo nên một lãnh thổ chừng mươi thứơc vuông cho rp. Bắc ngang qua cái không gian đó là ba chiếc ghế dài nữa, kể cả cái bị cong vì con ngựa vằn đè gẫy. Các ghế ngang này rộng sáu muơi phân và cách đều nhau. Mặt ghế cách sàn xuồng sáu mươi phân. Nếu Richar Parker nằm dưới gầm ghế, nó chỉ có khoảng sáu mươi phân đó để xoay sở. Bên dưới tấm bát thì nó có thêm khoảng ba mươi phân nữa, là khoảng cách giữa mui xuồng có phủ bạt và mặt ghế, và như vậy có cả thẩy độ một thước không gian, may ra vừa vặt cho nó có thể đứng lên. Sàn xuồng phẳng phiu, lát các thanh gỗ hẹp đã xử lý chống nước, và mặt bên các thùng phao thì vuông góc với sàn. Vì vậy, cái xuồng tròn tròn ở cả hai bên sườn và hai đầu, nhưng bên trong thì lại là một khối vuông hình chữ nhật, trông cũng là lạ.

Có vẻ như mầu da cam - một mầu Hinđu tốt lành – là mầu của sống còn vì toàn bộ bên trong xuồng, tấm bạt và các áo phao, cái phao, mái chèo và hầu hết các thứ trên xuồng đều mầu da cam cả. Cả cái còi bằng nhựa không có bi kêu cũng thế.

Hai bên mũi xuồng có kẻ chữ Tsimtsum và Panama, chữ hoa kiểu La Mã đen nhánh và trần trụi.

Tấm bạt là loại vải bố rất chắc có phủ nhựa chống thấm, chạm phải một lúc là ráp da. Nó đã được cuộn lại vừa qua khỏi cái ghế ngang giữa xuồng. Cho nên trong chỗ ẩn nấp của rp; cái ghế ngang, giữa thì lộ thiên nhưng ngay sát mép bạt; còn cái thứ ba thì gẫy gục dưới con ngựa vằn đã chết.

Có sáu cái lõng đón chèo, là những lỗ khoét hình chữ u trên mép xuồng, và năm mái chèo, vì tôi đã để rơi mất một cái khi cố đẩy Richar Parker ra khỏi xuồng. Ba mái chèo nằm trên một cái ghế bên, một cái nữa trên cái ghế đối diện, và một cái đang là cái mũi xuồng cứu nạn của tôi. Tôi không tin có thể dùng chúng để chèo xuồng đi được. Cái xuồng này không phải là xuồng đua. Nó là một cấu trúc nặng và chắc nịch được thiết kể để nổi cho vững chứ không phải để vi hành. Giả dụ có ba mươi hai người cùng chèo thì may ra còn đi được chút đỉnh.

Tôi không thấy hết các chi tiết đó – và nhiều thứ nữa – ngay lập tức như vừa kể. Tôi đã thấy chúng dần dần, cần cái gì thì lại phát hiện ra thêm cái nấy. Cú khi tôi rơi và tình trạng thật khó khăn, không thấy tương lai đâu nữa, thì một thứ gì đó, nhỏ thôi, lại hiện ra trong óc tôi dưới một ánh sáng mới mẻ. Nó không còn là cái thứ nhỏ bé ấy nữa, mà là một thứ quan trọng nhất trên thế giới sẽ cứu sống tôi. Điều đó lặp lại nhiều lần. Quả thực người ta bảo cái khó ló cái khôn, quả thực là vậy.

Chương 51

Nhưng lần đầu tiên tôi quan sát cái xuồng thì tôi chưa nhìn ra chi tiết nào mình cần cả. Mặt ghế chạy liên tục gừ đuôi sang hai bên xuồng, cũng như cái vách đứng của các thùng phao. Mặt sàn nằm phẳng phiu sát đáy xuồng; không thể có khoang giấu đồ bên dưới. Chắc hẳn không có một hộc tủ, một cái thùng hay bất kì thứ gì có đựng đồ ở chỗ nào trên xuồng. Chỉ thấy các bề mặt nhẵn thín liền liền nhau màu da cam.

Tôi đâm ra nghi ngờ khả năng của các thuyền trưởng và đám nhà thầu. Hy vọng sống sót của tôi lụi dần. Chỉ có cơn khát là còn y nguyên.

Nhưng biết đâu đồ dự trữ họ để ở mũi xuồng, bên dưới tấm bạt thì sao? Tôi quay người bò trở lại. Cảm thấy mình là một con thằn lằn đang chết khô. Tôi dúi mạnh tấm bạt. Nó rất căng. Nếu cuộn được nó lên, tôi sẽ với đựơc đồ dự trự có thể cất ở phía dưới. Nhưng có nghĩa là tôi sẽ tạo ra một cái cửa xuống sào huyệt của Richar Parker.

Thây kệ. Cơn khát thúc giục tôi. Tôi rút nhẹ cái chèo ra khỏi bên dưới tấm bạt. Tôi quàng cái phao vào người. Tôi đặt cái chèo nằm ngang trên mũi xuồng. Tôi tì lên mui xuồng và dùng ngón tay cái cố ấn cho cái dây chằng bạt tuột ra khỏi một cái móc. Thật khó khăn. Nhưng sau cái móc đầu, cái thứ hai đã dễ hơn và cái thứ ba còn dễ nữa. Tôi làm như vậy ở phía bên kia mũi xuồng. Tấm bạt chùng xuống dứơi khuỷu tay tôi. Tôi nằm bẹp ở trên, hai chân chĩa về phía đuôi xuồng.

Tôi cuốn tấm bạt lên một chút. Ngay lập tức đựơc đền bù công sức đã bỏ ra. Cũng như đàng đuôi, mũi xuồng cũng có ghế. Và trên mặt ghế, chỉ cách mũi xuồng độ dăm bảy phân, là một cái chốt cửa sáng óng ánh như kim cương. Nhìn rõ đường viền của một cái nắp đậy. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Tôi cuốn tấm bạt thêm chút nữa. Tôi ghé xuống nhìn. Cái nắp hình chữ nhật bốn cạnh lượn tròn, rộng hơn chín mươi phân và sâu tám mươi phân. Đúng lúc đó tôi nhận thấy một khối to mầu da cam. Tôi thụt ngay đầu lên trên. Nhưng cái đám da cam ấy không động đậy, và trông nó không ra sao. Tôi lại thò đầu xuống. Không phải là con hổ mà là một cái áo phao cấp cứu. Có một lô áo phao ở sau sào huyệt của Richard Parker.

Một cơn ớn lạnh chạy khắp người tôi. Giữa các áo phao đó, như thể giữa một đám lá cây, tôi nhìn thấy rõ ràng lần đầu tiên hình ảnh thấp thoáng của Richard Parker. Tôi thấy rõ hai cái vai nhô lên và một phần lưng của nó. Vằn vện nổi bật cà kềnh càng trước mắt. Nó nằm sấp, quay mặt về phía đuôi xuồng. Nó nằm im, chỉ thấy hai bên sườn phập phồng theo nhịp thờ. Tôi hấp háy mắt, không thể tin rằng nó gần tôi đến thế. Nó ngay kia, dưới tôi chỉ năm sáu mươi phân. Tôi có thể với tay cấu đít nó đựơc. Giữa chúng tôi chỉ là một tấm bạt mỏng.

“Thượng đế hãy thương lấy con!” Không có lời nguyện nào lại thống thiết và nhỏ nhẹ như vậy trong hơi thở của tôi. Tôi nằm bất động tuyệt đối.

Tôi phải có nước uống. Tôi đưa tay xuống và lẳng lặng gỡ cái chốt. Tôi kéo cái nắp lên. Thì là một cái tủ hẳn hoi.

Tôi đã nhắc đến chuyện nhận ra những chi tiết cứu mạng. Đây là 1: bản lề của cái nắp tủ chỉ cách mép ghế vài phân - có nghĩa là khi mở lên, nó sẽ thành một cái vách ngăn kín hết khoảng trống 30 phân giữa mặt ghế và mui xuồng che bạt, chắn giữa tôi với đống áo phao rồi đến chỗ Richard Parker. Tôi mở cái nắp lên cho đến khi nó dựa được vào cái chèo bắc ngang mui và mép bạt. Tôi chuyển mình lên trên sống mũi xuồng, quay mặt vào trong, một chân đặt lên mép cái tủ đã mở nắp, chân kia lên cái nắp đã mở. Nếu Richard Parker định tấn công tôi từ phía dưới, nó sẽ phải đẩy cái nắp. Tôi sẽ biết ngay và đủ thời gian rút lên và nhào ngửa người xuống biển với cái phao. Nếu nó đi đường khác, trèo lên trên tấm bạt từ phía đuôi xuồng, tôi sẽ nhìn thấy nó ngay từ sớm và cũng kịp nhào xuống biển. Tôi nhìn quanh xuồng. Không thấy có cá mập.

Tôi ngó xuống giữa hai chân. Tôi tưởng mình sẽ ngất đi vì sướng. Cái tủ lấp lánh toàn những thứ mới tinh bóng nhoáng. Chao ôi, niềm khoái lạc của sản phẩm công nghiệp, những vật dụng do chính con người làm ra, những sáng tạo phẩm! Cái giây phút phát ngộ vật chất ấy đem lại một khoái cảm mãnh liệt - một trộn lộn chóng mặt của hy vọng, ngạc nhiên, ngỡ ngàng, ngây ngất, và lòng biết ơn, tất cả nghiền vào thành một món quà - hay hơn bất kì món quà nào khác mà cả đời tôi đã được nhận trong các dịp Giáng sinh, sinh nhật, cưới xin và các kì lễ lạt khác. Tôi thật sự hoa mắt chóng mặt vì hạnh phúc.

Mắt tôi lập tức nhìn thấy cái đang tìm. Cho dù đóng chai, đóng hộp kim loại hay hộp giấy, bao bì nước uống không có thể nhầm lẫn được. Trên cái xuồng cứu nạn ấy, món rượu vang của sự sống được cung phụng trong các hộp kim loại màu vàng nhạt nắm vừa khít tay. Nhãn hiệu bằng chữ đen đề rõ Nước uống. Tên công ty sản xuất: HP Food Ltd. 500 mililít một hộp. Có hàng dãy hộp như thế. Nhiều wá không thể liếc một cái mà đếm hết ngay được.

Tay run lẩy bẩy, tôi với xuống nhặt lên một hộp. Vừa sờ vào đã mát lạnh và nặng trĩu tay. Tôi lắc nó. Các bọt khí bên trong phát ra tiếng kêu glúp glúp glúp. Tôi sắp sửa được cứu thoát khỏi cơn khát hỏa ngục này. Mạch tôi rộn lên với ý nghĩ đó. Tôi chỉ việc mở cái hộp nước.

Tôi dừng lại. Mở nó thế nào đây?

Tôi có một cái hộp - chắc tôi phải mở được nó chứ? Tôi nhìn vào tủ. Có biết bao nhiêu là thứ. Tôi lục lọi. tôi mất bình tĩnh. Kì vọng lắm tất thất vọng nhiều. Tôi phải uống ngay bây giờ, nếu không tôi sẽ chết. Tôi không thể tìm thấy cáidụng cụ mình muốn. Nhưng không thể mất thì giờ buồn bực. Cần phải hành động. Dùng móng tay được chăng? Tôi thử. Không thể được. Dùng răng chăng? Thử cũng vô ích thôi. Tôi nhìn lên mép xuồng. Những cái móc buộc bạt. Ngắn, cùn, chắc chắn. Tôi quì lên mặt ghế và nghiêng người ra ngoài. Giữ cái hộp bằng cả hai tay, tôi thúc mạnh nó lên vào một cái móc. Một vết lõm kha khá. Tôi thúc cái nữa. Thêm một vết lõm nữa. Cứ thế, tôi làm thủng được hộp. Một hạt châu nước xuất hiện. Tôi liếm nó luôn. Tôi quay cái hộp và thúc đầu kia lên móc. Tôi thúc như quỉ. Tôi đục được một cái lỗ to hơn. Tôi ngồi xuống mui xuồng. Tôi giơ cái hộp lên trên mặt. Tôi há miệng. Tôi nghiêng hộp.

Có thể tưởng tượng ra những cảm giác của tôi lúc đó, nhưng khó có thể mô tả chúng. Theo nhịp ừng ực của cổ họng tham lam, dòng nước tinh khiết, ngon lành, đẹp đẽ và trong vắt như pha lê chảy vào cơ thể tôi. Nước của sự sống, đúng thế. Tôi dốc cạn cái chén vàng ấy cho đến giọt cuối cùng, mút mát cái lỗ thủng cho thật hết cả những ẩm ướt còn lại. Tôi thốt lên, ''Aaaaaaa!'', ném cái hộp xuống biển và lấy một hộp nữa. Tôi mở nó cũng nhanh như cái hộp kia và nốc cạn nó cũng nhanh chẳng kém. Rồi lại quẳng nó xuống biển và mở một hộp khác. Cũng lại nhanh chóng bị ném xuống biển. Rồi lại thêm một hộp nữa. Tôi uống hết 4 hộp, hai lít thuốc trường sinh tuyệt vời nhất, rồi mới thôi. Người ta sẽ nghĩ uống vội vàng sau khi đã chịu khát kéo dài như thế có thể sẽ làm đảo lộn cơ thể. Nhảm nhí cả! tôi chưa bao giờ thấy dễ chịu như vậy. Cứ sờ lông mày tôi thì thấy! Trán tôi ướt đẫm những giọt mồ hôi tươi mới, sạch sẽ và mát lạnh. Mọi thứ trong tôi, đến tận các lỗ chân lông, đều biểu lộ vui mừng.

Cảm giác khỏe khoắn nhanh chóng đến với tôi. Mồm miệng tôi ẩm và mềm mại. Quên sạch cả cái cổ họng. Da cũng mềm đi. Các khớp cử động dễ dàng. Tim tôi bắt đầu đập như một cái trống vui mừng và máu bắt đầu chảy qua huyết mạch như đoàn xe đám cưới inh ỏi bóp cò chạy qua thành phố. Sức lực và phản xạ trở lại trong cơ bắp tôi. Đầu óc tôi sáng suốt hẳn ra. Quả thực, tôi đã vừa từ cõi chết trở về. Vinh hiển thay! Vinh hiển thay! Để tôi nói bạn nghe, say rượu là một điều xấu hổ, nhưng say nước là một niềm si cuồng cao quí. Trong nhiều phút đồng hồ, tôi đắm mình tận hưởng đến cùng.

Rồi tôi cảm thấy một cái gì đó trống rỗng. Tôi sờ bụng. Một cái hốc lõm sâu cứng nhắc. Có cái gì ăn thì tốt. Một đĩa chả chay mềm có rưới nước sốt dừa! Một đĩa cary đậu! Ôi chao! Tôi đưa cả hai tay lên miệng - hoặc giá được một đĩa bánh bột lọc mẹ vẫn làm! Nghĩ đến đó, hai hàm răng tôi bỗng đau nhức lên và nước bọt ứa ra xối xả. Bàn tay phải tôi bắt đầu xoay xoay. Nó cứ thể bốc những miếng bánh tròn bèn bẹt làm bằng bột lọc trong trí tưởng tượng. Nó để các ngón tay tha hồ bấm sấu vào làn bột mềm nóng hổi...Nó nắn, vê một cái bánh thấm đẫm nước sốt...Nó đưa cái bánh ấy lên miệng...Tôi nhai...Ôi chao, thật đau đớn mà cũng thật tuyệt diệu.

Tôisục vào cái tủ. Tôi tìm thấy nhiều hộp giấy đựng các suất đồ ăn cấp cứu tiêu chuẩn của hãng Seven Seas, làm tận Bergen, Na Uy. Mỗi suất đề là có thể bù cho 9 bữa chưa được ăn gì, từng gói nửa kí, chắc nịch, đóng gói chân không trong giấy nhựa màu bạc có in chi chít các hướng dẫn sử dụng bằng 12 thứ tiếng. Bằng tiếng Anh, hướng dẫn nói suất ăn này có 18 cái bánh quy làm bằng bột mì nướng, mỡ động vật và đường glucô, không được ăn quá 6 cái trong vòng 24 giờ. Khổ nhất là nó có cả mỡ động vật. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt như thế, cái phần chay tịnh trong con người tôi chỉ có cánh bịt mũi mà ăn đại đi thôi.

Trên gói có chỗ đề Bóc chỗ này để mở, với một mũi tên đen chỉ vào cái mép nhựa. Tôi xé toạc chỗ đó ra. Chính cái góivuông vắn bọc giấy nến rơi ra. Tôi bóc một gói. Nó tự động tách ra làm đôi. hai cái bánh qui gần như vuông vắn, màu nhạt, mùi thơm. Tôi cắn một cái. Lạy Chúa tôi, ai mà biết được. Tôi không tưởng tượng nổi. Tôi vừa khám phá một bí mật: đồ ăn Na Uy là ngon nhất thế giới! Những cái bánh qui ấy ngon một cách lạ lùng. Chúng vừa đậm đà thơm ngon vừa tinh tế, không ngọt wá cũng không mặn quá. Chúng vỡ ra giữa hai hàm răng với một tiếng động giòn tan. Trộn với nước bọt, chúng thành một thứ bột bánh vẫn còn độ hạt rất vừa vặn. Và khi tôi nuốt, bụng tôi chỉ còn biết reo lên một chữ: Hallelujah! (1)

Cả hộp hết vep trong vòng vài phút, giây gói tơi tả bay theo gió. Tôi định mở một hộp nữa, nhưng lại thôi. Kiềm chế một chút bao giờ cũng tốt. hơn nữa, với nửa kí thức ăn cấp cứu trong bụng, tôi thấy no thực sự.

Tôi quyết định phải biết rõ có những thú gì trong cái hòm châu báu của mình. Đó là một cái tủ to, trong lòng rộng hơn phạm vi của cái nắp nhiều, vào hẳn đến vỏ xuồng và lan ra đến wá vị trí của hai cái ghế bên một chút. Tôi thò cả hai chân xuống lòng tủ và ngồi trên mép nó, lưng dựa vào cái sống nhô ra của mũi xuồng. Tôi đếm các hộp Seven Seas. Tôiđã ăn mất 1: vẫn còn 30 hộp nữa. Theo như hướng dẫn, mỗi hộp 500 gram là đủ dinh dưỡng cho một người sống được 3 ngày. Có nghĩa là tôi có đủ thức ăn dự trữ để sống trong 31 nhân 3 là 93 ngày! Hướng dẫn cũng khuyên chỉ nên uống nửa lít nước một ngày. Tôi đếm các hộp nước. Có 124 hộp. Mỗi hộp nửa lít. Vậy là tôi có đủ nước uống trong 124 ngày. Chưa bao giờ những phép tính số học đơn giản lại đem đến cho tôi một niềm hỉ hả như vậy.

Còn có những gì nữa nào? Tôi hẳm hở khoắng tủ và mang ra hết thứ này đến thứ khác, cái gì cũng kì diệu cả. Tôi thèm bạn đồng hành và cảm giác được an ủi đến xót xa mỗi khi chăm chú nâng một món đồ ấy trên tay, chúng không còn là hàng hóa được sản xuất hàng loạt nữa mà trở thành một cái gì đó thật đặc biệt và chỉ cho riêng tôi. Tôi lẩm bẩm luôn mồm, ''Cám ơn! Cám ơn! Cám ơn!''

--------------------------------------------------------------------

(1) Hellelujah!: Câu ca ngợi Chúa của ng` Cơ đốc giáo.

Chương 52

Sau khi đã điều tra kỹ lưỡng, tôi làm một danh mục đầy đủ:

- 192 viên thuốc chống say sóng

- 124 hộp nước uống bằng thiếc, mỗi hộp 500 mili-lít, vị chi là 62 lít tất cả

- 31 hộp thức ăn cấp cứu, mỗi hộp 500 gram, tất cả là 15 kí rưỡi

- 16 cái chăn len

- 12 cái cất nước dùng ánh sáng mặt trời

- Một chục cái áo phao cấp cứu màu da dam, cái nào cũng có một cái còi cũng màu da cam buộc ở áo

- 6 ống tiêm chứa morphine

- 6 quả pháo sáng cầm tay

- 5 mái chèo không chìm

- 4 quả pháo sáng thăng thiên có dù

- 3 túy nylon trong suốt rất chắc, mỗi cái có dung tích khoảng 50 lít.

- 3 cái mở hộp

- 3 cái cốc có thang vạch dung tích và miệng rót để đong nước uống

- hai hộp diêm cháy được trong nước

- hai cái phao tín hiệu khói

- hai thùng bằng nhựa cỡ trung bình màu da cam

- hai cái gáo múc nước bằng nhựa không chìm màu da cam

- hai thùng chứa đa năng bằng nhựa có nắp kín khí ]

- hai miếng bọt biển hình chữ nhật màu vàng

- hai cuộn dây sợi tổng hợp không chìm, mỗi cuộn 50m

- hai cuộn dây sợi tổng hợp không nổi được trong nước, không thấy đề dài bao nhiêu nhưng có lẽ mỗi cuộn khoảng 30m

- hai bộ đồ câu cá với đủi các loại lưỡi câu, dây và hạt chì

- hai cái lao móc cá có lưỡi kiểu dây thép gai rất sắc

- hai cái neo biển

- hai cái rìu

- hai cái hứng nước mưa

- hai cái bút bi mực đen

- một cái lưới đựng đồ bằng nylon

- một cái phao cứu nạn đặc, đường kính trong 40 phân và đường kính ngoài 80 phân, có dây nối liền

- một con dao săn lớn có cán liền, lưỡi nhọn, một cạnh sắc và một cạnh răng cưa, có dây dài buộc vào một cái vòng sắt trong tủ

- một bộ đồ khâu với các kim khâu thẳng và cong, cùng với chỉ trắng rất chắc

- một bộ đồ cấp cứu đựntg trong một hộp nhựa kín nước

- một cái gương dùng để ra tín hiệu

- một gói thuốc lá Trung Quốc có đầu lọc

- một thỏi sôcôla to

- một cuốn cẩm nang cho ng` gặp nạn đắm tàu

- một cái la bàn

- một cuốn vở ghi chép với các trang giấy có 98 dòng kẻ

- một thằng bé còn đủ một bộ quần áo mỏng trên người nhưng đã mất một chiếc giày

- một con linh cẩu lông chấm

- một con hổ Bengal

- một cái xuồng cứu nạn

- một Thượng đế

Tôi ăn một phần tư thỏi sôcôla to. Tôi xem xét kĩ một cái hứng nước mưa. Đó là một thứ dụng cụ trông giống một cái ô lật ngược, gồm một túi hứng nước rộng nối với một cái ống cao su.

Tôi khoanh tay trên cái phao choàng khít quanh người, gục đầu xuống và ngủ say sưa.

Chương 53

Tôi ngủ suốt buổi sáng. Rồi tôi thức dậy vì lo lắng. Đồ ăn, nước uống và nghỉ ngơi đã như một ngọn triều dâng lên trong cơ thể đang suy yếu của tôi, mang cho tôi một sức sống mới, nhưng đồng thời cũng làm cho tôi đủ tỉnh táo để nhận ra tình trạng tuyệt vọng của mình. Tôi tỉnh dậy để nhớ ra Richard Parker. Có một con hổ trên xuồng. Không muốn nhưng phải tin đó là sự thật. Và tôi phải cứu mạng mình như thế nào đây.

Có thể nhảy xuống biển và bơi đi, nhưng cơ thể tôi không chịu nhúc nhích. Tôi đang cách đất liền hàng trăm dặm, có khi hàng nghìn dặm cũng nên. Tôi không thể bơi xa như vậy, có phao cũng thế thôi. Rồi ăn gì? Uống gì? Làm sao ngăn cá mập? Làm sao cho khỏi rét mướt? Mà biết bơi theo hướng nào? Không thể nghi ngờ một tí gì nữa: rời khỏi xuồng có nghĩa là chết. Nhưng ở lại xuồng thì sao? Nó sẽ mò sang tôi như một con mèo điển hình, không một tiếng động. Chưa kịp biết thì nói đã ngoạm chặt lấy gáy hoặc cổ họng và tôi sẽ bị xuyên thủng với những lỗ răng nanh. Tôi sẽ không kịp nói gì hết. Dòng sinh huyết sẽ rời bỏ thân thể tôi không một lời trăng trối. Hoặc giả nó sẽ dùng móng vuốt ấy để quật chết tôi, bẻ gãy cổ tôi.

“Ta chết mất thôi,” tôi lắp bắp, môi run bắn.

Biết mình sắp chết đã đủ khủng khiếp rồi. Nhưng khủng khiếp hơn là biết mình sắp chết mà lại còn thời gian để thấy rõ những hạnh phúc mình đã có và có thể đã có. Ta thấy tất cả những gì mà ta đang mất, rõ mồn một. Những hình ảnh đó đã dìm ra vào một nỗi đau đớn và không một cỗ xe nào sắp đâm chết ta hoặc một làn nước nào sắp dìm chết ta có thể so sánh được. Cái cảm giác ấy thật sự không thể chịu nổi. Những từ cha, mẹ, ravi, ấn độ, winnipeg đâm vào tôi buối nhói đến xé lòng.

Tôi đang định đầu hàng. Và chắc chắn đã đầu hàng rồi, nếu không có một tiếng nói bỗng vọng lên trong đầu tôi. Tiếng ấy nói, “ta sẽ không chết. Ta không chấp nhận cái chết. Ta sẽ qua được cơn ác mộng này. Ta sẽ chiến thắng mọi rủi ro, cho dù chúng lớn đến mấy. Ta đã sống được cho đến bây giờ, một cách thần kỳ. Ta sẽ biến điều thần kỳ ấy thành lệ thường. Điều không thể tin được sẽ đến với ta hàng ngày. Ta sẽ làm tất cả những gì cần thiết. Đúng vậy, chừng nào thượng đế còn ở bên ta, ta sẽ không chết. Amen.”

Tôi làm mặt nghiêm nghị và cương quyết. Tôi không dám nói ngoa, nhưng quả thực vào lúc đó tôi mới phát hiện ra rằng mình có một ý chí sống thật mãnh liệt. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy đó không phải la một điều hiển nhiên. Có nhiều người trong số chúng ta chịu bỏ cuộc chỉ với một tiếng thở dài. Những người khác chiến đấu chút đỉnh, rồi mất hy vọng. Nhưng một số khác nữa, trong đó có tôi, thì không bao giờ bỏ cuộc. Chúng tôi chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu. Chúng tôi chiến đấu bất kể giá nào, bất kể những thất bại phải chịu, bất kể sự bất khả chiến thắng. Chúng tôi chiến đấu đến tận cùng. Đó không phải là vấn đề can đảm. Nó là một cái gì đó thuộc về bản chất, một tình trạng không có khả năng đầu hàng. Có thể cũng chỉ là sự ngu ngốc của lòng ham sống mà thôi.

Richard Parker bắt đầu gầm gừ vào đúng thời điểm tôi nghĩ đến những cái đó, cứ như thể nó đã đợi cho đến lúc tôi đã thành một đối thủ xứng đáng. Tôi thắt ngực lại vì sợ.

“Mau lên, nào, chóng lên,” tôi thì thào trong bụng. Tôi phải thu xếp việc sống còn của mình. Không thể phí một giây. Tôi cần nơi ẩn náu và cần ngay lập tức. Tôi nghĩ đến cái mái chèo mà tôi đã cắm vào mũi xuồng. Nhưng bây giờ tấm bạt đã cuộn lên ở đó, chẳng còn gì giữ được mái chèo nữa. Hơn nữa, làm sao có thể an toàn bằng cách treo người lên mái chèo như vậy được? Richard Parker sẽ dễ dàng tóm được tôi. Phải tìm cách khác. Đầu óc tôi quay như chong chóng.

Phải làm một cái bè. Những mái chèo, nếu ta còn nhớ, không bị chìm. Và tôi còn có đống áo phao với một cái phao cứu nạn chắc nịch.

Cố thở thật nhẹ, tôi đóng cái tủ rồi với xuống bên dưới tấm bạt để nhặt những cái chèo ở trên hai cái ghế bên xuồng. Richard Parker để ý. Tôi nhìn thấy nó qua các khe hở của đống áo phao. Khi tôi rút từng cái chéo lên - cẩn thận vô cùng, nó có phản ứng động đậy đôi chút, nhưng không quay lưng lại. Tôi lấy lên được ba cái chèo. Cái thứ tư đã nằm ngang trên tấm bạt. Tôi nhấc cái nắp đậy để chặn khoảng hở thông sang chỗ nằm của Richard Parker.

Tôi đã có bốn cái phao không chìm. Tôi xếp chúng trên tấm bạt, xung quanh cái phao tròn, làm thành một hình vuông. Cái bè của tôi giống như một ô cờ carô với một chữ o vừa mới vẽ cho nước cờ đầu tiên.

Phần nguy hiểm bắt đầu. Tôi phải lấy được các tấm áo phao. Tiếng gầm gừ của Richard Parker lúc ấy đã thành một âm thanh trầm và rền, rung hết cả không khí. Con linh cẩu đáp lại bằng một tiếng ư ử the thé và run rẩy. Chắc chắn sắp có chuyện.

Tôi không có sự lựa chọn nào khác. Phải hành động thôi. Tôi hạ cái nắp xuống. Đống áo phao nằm trong tầm tay với của tôi. Một số chúng chạm hẳn vào người Richard Parker. Con linh cẩu đột nhiên kêu ré lên.

Tôi với đến cái gần nhất. Khó khăn mới túm được nói vì tay tôi run bắn. Tôi kéo cái áo đó ra. Có vẻ Richard Parker không chú ý gì. Tôi kéo một cái áo nữa. Một cái nữa. Tôi gần muốn ngất vì sợ. Rất khó thở. Tôi tự nhủ, nếu cần thì mình có thể nhảy xuống biển với đống áo phao. Tôi lại kéo ra được một cái. Thế là bốn cái tất cả.

Tôi luồn các mái chèo qua các lỗ tay của từng cái ao phao ở bốn góc phà, buộc chắc chúng lại với nhau, rồi giật dây bơm căng chúng lên. Tôi lấy một cuộn dây không chìm, dùng dao cắt thanh bốn đoạn, rồi buộc thật chặt những đoạn hai mái chèo gác vào nhau. Nhờ trời, tôi đã được học và tập buộc các loại nút rất chu đáo. Tôi thắt mười nút trên các góc phà mà vẫn còn lo các mái chèo có thể sẽ bị lỏng và rời nhau ra. Tôi làm như lên cơn sốt, luôn mồn tự rủa mình ngu ngốc. Một con hổ trên xuồng mà tôi đã đợi ba ngày ba đêm rồi mới tính chuyện tự vệ bản thân.

Con linh cẩu bắt đầu kêu thét hết cỡ.

Vẫn còn một việc cuối cùng phải làm. “lạy chúa, xin cho con một lát nữa,” tôi cầu khẩn. Tôi túm lấy phần còn lại của cái dây không chìm. Có một cái lỗ xuyên qua gần đỉnh của thanh nhọn mũi xuồng. Tôi luồn sợi dây qua cái lỗ ấy và thắt nút. Chỉ cần buộc chặt đầu dây kia vào bè là tôi có thể thoát.

Con linh cẩu lại lặng im. Tim tôi ngừng bặt, rồi đập trở lại nhanh gấp ba lần. Tôi quay lại.

“Lạy Chúa Jesus, Đức Mẹ Mary, Thánh Muahamad và Thần Vishnu!”

Những gì hiển hiện trước mắt tôi lúc ấy sẽ hằn lại trong tôi cho đến chết. Richard Parker đã trỗi dậy và xuất đầu lộ diện. Nó cách tôi chưa đầy năm mét. Ôi, nó mới to lớn làm sao! Con linh cẩu tận số đến nơi rồi, và cả tôi nữa. Tôi đứng chôn chân tại chỗ, tê liệt hoàn toàn, hãi hùng chứng kiến những gì đang diễn ra trước mắt. Đã từng thấy mấy con thú hoang bỏ xổng trên xuồng quan hệ với nhau ra sao, tôi đã tưởng cuộc đổ máu sẽ phải ầm ĩ và đầy vật lộn. Nhưng nó xảy ra thật sự im lìm. Con linh cẩu chết không một tiếng rên la và Richard Parker đã giết con linh cẩu một cách im phăng phắc. Con thú ăn thịt màu lửa ấy đã trỗi dậy từ dưới tấm bạt và bước đến chỗ con linh cẩu. Con này đang đứng dựa vào chiếc ghế dưới xuồng, đằng sau xác con ngựa vằn, như bị đóng đanh vào đó. Nó không chống cự. Nó khuỵu xuống sàn, giơ một chân trước lên trong một dáng điệu tư vệ tuyệt vọng. Vẻ mặt nó là hình ảnh của sự hãi hùng. Móng vuốt khổng lồ của con hổ bổ xuống vai nó. Richard Parker ngoạm vào cổ nó, cặp mắt như men ướt trừng to hẳn ra. Tiếng thịt xương rau ráu khi thanh quản và dây sống bị nghiền nát. Con linh cẩu giãy một cái, mặt nó đờ ra. Thế là xong.

Richard Parker nhả mồi và cất tiếng gầm gừ. Một tiếng gầm gừ dường như chán nản và không hề muốn ai nghe thấy. Nó thở dốc, lưỡi thè lè. Nó liếm mép. Nó lắc đầu. Nó hít ngửi con linh cẩu đã chết. Nó ngẩng cao đầu và đón ngửi không khí. Nó chống cả hai chân trước lên mặt ghế băng và rướn lên. Hai chân nó giang rộng. Cái xuồng lắc lư, mặc dù rất nhẹ, rõ ràng đang làm nó khó chịu. Nó nhìn qua mạn xuồng ra phía biển khơi. Nó cất một tiếng gầm trầm trầm đặc và cáu kỉnh. Nó lại ngửi không khí. Nó từ từ quay đầu. Nó quay, quay hẳn lại đằng sau, cho đến lúc nhìn thẳng vào tôi.

Ước gì tôi có thể mô tả lại những gì xảy ra sau đó, không phải những cái tôi nhìn thấy, điều đó còn có thể ta được, mà là những gì tôi đã trải qua trong cảm giác của mình. Tôi nhìn Richard Parker từ một góc độc cho thấy hết vẻ đẹp ghê gớm của nó, nghĩa là từ sau lưng, khi nó đang vươn người lên và quay đầu lại. Dáng điệu ấy có vẻ như cố tình làm mẫu, thậm chí hơi quá, để phô trương nghệ thuật của sức mạnh. Mà quả thật cũng đáng là nghệ thuật, đáng là sức mạnh. Sự hiện diện của nó thật choáng ngợp và áp đảo, mà vẻ uyển chuyển thì thật duyên dáng. Người nó đầy cơ bắp, nhưng các khớp nhô ra lại gầy nhỏ và bộ da bóng bầy đang treo lỏng lẻo trên khung xương của nó. Thân thể nó, màu da cam sáng có sắc nâu với những vạch đứng đen tuyền, đẹp không thể so sánh với cái gì được, và thật hài hòa với màu trắng tinh khiết của bộ ngực và dưới hai bên sườn cũng như những vòng đen chạy suốt bộ đuôi dài. Khổ đầu nó to và tròn, phô trương bộ râu quai nón đáng kính nể, một chòm râu cằm sành điệu, và những sợi râu mép đẹp nhất trong thế giới hổ báo - dầy, dài và trắng tinh. Trên đỉnh đầu là đôi tai nhỏ sinh động có hình dáng của những mái vòm tuyệt hảo. Bộ mặt màu cam cà rốt có một sống mũi rộng, một chỏm mũi màu hồng, và được thiết kế rất phóng khoáng, táo bạo. Các chấm đen hình sóng chạy vòng quanh gương mặt theo một kiểu vừa nổi bật, vừa tinh tế, vì chúng thu hút sự chú ý vào chúng thì ít mà vào phần không có chúng thì nhiều, tức là phần sóng mũi sáng sủa gần như rỡ ràng. Các mảng trắng, phía trên mắt, xung quanh má và hai bên miệng nổi bật lên như những nét trang điểm cuối cùng xứng đáng với một vũ nữ Kathakali. Kết quả là một gương mặt trông giống như đôi cánh bướm và mang một vẻ gì đó hơi già nua Trung Quốc. Nhưng khi cặp mắt mầu hoàng ngọc của Richard Parker nhìn tôi, cái nhìn chằm chằm của nó thật căng thẳng, lạnh lùng và không nhượng bộ, không dễ dãi hoặc thân thiện chút nào, biểu lộ một thái độ tự chủ đến độ giận dữ sắp nổ tung ra được. Hai tai nó vẫy vẫy rồi quay tròn. Một môi bắt đầu vén lên hạ xuống, để lộ chiếc nanh vàng khè dài phải bằng ngón tay dài nhất của tôi.

Lông tóc trên người tôi dựng đứng hết cả, ngộp thở vì sợ hãi.

Đúng lúc đó thì con chuột xuất hiện. Không biết từ đâu, một con chuột nâu xơ xác hiện hình trên mặt ghế bên cạnh xuồng, hốt hoảng, hết hơi. Richard Parker có vẻ cũng kinh ngạc như tôi. Con chuột nhảy vọt lên tấm bạt và chạy về phía tôi. Thấy thế, vừa choáng vừa ngạc nhiên, hai chân tôi khuỵu xuống gần như ngã vào trong cái tủ bên dưới. Trước cặp mắt kinh hoàng của tôi con chuột nhảy thoăn thoắt qua các phần của cái bè, vọt lên người tôi và trèo luôn lên đỉnh đầu. Những cái móng tí xíu của nó bám chặt xuống da đầu tôi, khư khư níu lấy sự sống.

Cặp mắt của Richard Parker đã dõi theo con chuột. Bây giờ thì chúng nhìn chằm chằm vào đầu tôi.

Nó không quay đầu thêm nữa mà từ từ xoay người đồng thời đưa hai chân trước dọc theo ghế cạnh xuồng. Nó uyển chuyển và nhẹ nhàng nhảy xuống sàn xuồng. Tôi có thể thấy đỉnh đầu, cái lưng và cái đuôi dài uốn cong lên của nó. Hai tai nó ép sát xuống sọ. Chỉ ba bước nó đã về đến giữa xuồng. Cũng nhẹ nhàng như không, nó đứng hẳn nửa thân trước lên và vịn chân vào mép tấm bạt đã cuộn lên.

Nó chỉ cách tôi chừng hai mét. Đầu nó, ngực nó, chân nó – to quá! To quá! Hàm răng nó như cả một tiểu đoàn bộ binh. Nó đang sửa soạn nhảy lên tấm bạt. Tôi sắp chết rồi.

Nhưng tấm bạt bập bùng làm nó khó chịu. Nó ấn thử chân xuống chỗ này chỗ kia. Nó ngẩng lên có vẻ lo lắng – hình như khó chịu vì có quá nhiều ánh sáng và quá mênh mông ở chung quanh. Cái xuồng liên tục lắc lư cũng tiếp tục làm nó không yên. Trong giây lát, Richard Parker lưỡng lự.

Tôi túm con chuột và ném nó về phía con hổ. Tôi vẫn còn thấy nó trong kí ức khi nó bay vọt qua trong không gian – chân duỗi hết ra và cái đuôi dựng đứng, cái bìu dái dài dài nhỏ xíu và cái lỗ đít như lỗ châm kim. Richard Parker ngoác miệng ra và con chuột đang kêu chí chóe biến mất vào đó như một quả bóng chày chui tọt vào găng của người bắt bóng. Cái đuôi trụi thùi lụi của nó biến đi như một sợi mì ống bị mút chụt vào mồm.

Con hổ có vẻ hài lòng vì món quà. Nó lùi lại và quay về chỗ ở bên dưới tấm bạt. Chân tôi lập tức sinh động trở lại. Tôi nhảy lên mở cái nắp tủ để bịt khoảng trống giữa mặt ghế dài mũi xuồng và cái mui bạt.

Tôi nghe tiếng hít ngửi ầm ĩ và tiếng thịt nặng bị kéo lê trên sàn. Thân thể nó dịch chuyển khiến xuồng tròng trành. Tôi bắt đầu nghe tiếng ăn nhóp nhép. Tôi liếc xuống bên dưới tấm bạt. Nó đang ở giữa xuồng. Nó đang ăn con linh cẩu với từng miếng lớn, nhai nuốt liên tục. Không thể để lỡ cơ hội duy nhất này. Tôi với xuống và lấy lên được những chiếc áo phao còn lại – sáu chiếc tất cả - và cả cái chèo cuối cùng. Chúng sẽ củng cố thêm cho cái bè. Tôi để ý thấy có mùi gì. Không phải sặc sụa như mùi nước đái hổ. Mà là mùi nôn. Và tôi thấy cả một bãi nôn dưới sàn. Chắc hẳn là của Richard Parker. Như vậy là nó có bị say sóng thật.

Tôi buộc cái dây dài vào bè. Bây giờ thì bè đã được nối vào xuồng. Tiếp đó, tôi buộc thêm bốn chiếc áo phao vào bốn cạnh bè, ở phía dưới. Một chiếc áo phao nữa thì tôi buộc trải ngang qua cái phao để làm thành cái ghế ngồi. Tôi biến cái chèo cuối cùng thành cái để gác chân, chằng vào một cạnh bè, chiếc áo phao còn lại vào đó. Những ngón tay tôi run bắn, tôi hụt hơi và khó thở. Tôi kiểm tra đi kiểm tra lại các nút buộc.

Tôi nhìn ra xung quanh. Chỉ thấy những đợt sóng dài và nhẹ. Không có sóng bạc đầu. Gió thổi nhẹ và đều. Tôi nhìn xuống nước. Có nhiều cá – cá to với bộ trán dô và các vây lưng rất dài, thường gọi là các dorados, những con cá nhỏ hơn, mảnh và dài, tôi chưa từng thấy bao giờ, và các loại cá nhỏ hơn nữa - rồi thấy cả cá mập.

Tôi nhẹ nhàng thả cái bè ra khỏi xuồng. Nếu vì lý do nào đó mà nó không nổi thì tôi chỉ có chắc chết mà thôi. Nó xuống nước thật đẹp. Thực tế là các áo phao nổi mạnh đến nỗi chúng nhấc cả cái phao và các mái chèo lên hẳn khỏi mặt nước. Nhưng lòng tôi nặng trĩu. Vừa khi cái bè chạm nước, các bầy cá tản ngay ra, chỉ trừ bọn cá mập. Chúng ở lại. Ba hoặc bốn con. Một con bơi qua ngay dưới bè. Richard Parker hắng giọng.

Tôi thấy mình giống như một người tù bị bọn cướp biển bắt phải nhảy xuống biển.

Tôi kéo cái bè vào gần, cho đến khi các đầu mái chèo chạm hẳn và thành xuồng. Tôi nghiêng xuống đặt tay lên cái phao. Qua các kẽ hở trên mặt bè - gọi chúng là những khe hở toang hoác thì đúng hơn – tôi nhìn thẳng xuồng những tầng sâu thăm thẳm của biển cả. Tôi lại nghe thấy tiếng Richard Parker. Tôi trườn úp bụng xuống bè. Tôi nằm bẹp dí, dang hết chân tay và không dám cựa một ngón tay nào. Cái bè có thể lật bất kỳ lúc nào. Hoặc một con cá mập sẽ lao lên cắn thủng qua các áo phao và mái chèo. Nhưng không có gì xẩy ra. Cái bè chìm xuống một chút, bập bềnh và tròng trành, các đầu chèo chúi xuống dưới mặt nước, nhưng nó nổi một cách chắc chắn. Lũ cá mập đến gần, song không động chạm gì hết.

Tôi cảm thấy một cái giật dây nhẹ. Cái bè xoay một vòng. Tôi ngẩng đầu. Xuồng và bè đã cách xa nhau bằng hết đoạn dây, chừng mươi hai mươi ba thước. Sợi dây căng thẳng, bật lên khỏi mặt nước và rún rẩy trong không khí. Thật là một cảnh tượng đáng ghét. Tôi đã rời xuồng để cứu mạng mình. Và bây giờ thì lại muốn quay lại xuồng. Cái bè thật là một giải pháp chất chưởng. Chỉ cần một con cá mập cắn đứt dây, hoặc một cái nút bị tuột, hoặc một con sóng lớn ào xuống đầu tôi, thế là đi đứt. So với cái bè, chiếc xuồng bây giờ dường như là một chốn cư ngụ thật tiện nghi và an toàn.

Tôi lập cập trở mình. Tôi ngồi dậy. Cho đến lúc ấy, cái bè có vẻ khá ổn định. Cái để chân của tôi rất có tác dụng. Nhưng cái gì cũng quá nhỏ. Chỉ đủ chỗ để ngồi lên thôi, không hơn. Cái bè đồ chơi, cái bè mini, cái bè micro này có thể dùng để chu du trong một cái ao, không thể đi qua thái bình dương được. Tôi túm lấy sợi dây và kéo. Càng gần xuồng, tôi kéo càng chậm lại. Khi vào đến cạnh xuồng, tôi lại nghe tiếng Richard Parker. Nó vẫn đang ăn.

Tôi lưỡng lự nhiều phút dài.

Tôi ngồi nguyên dưới bè. Không biết có thể làm gì khác hơn thế. Các lựa chọn của tôi chỉ là vắt vẻo trên một con hổ hoặc lửng lơ trên bọn cá mập mà thôi. Tôi đã biết quá rõ Richard Parker nguy hiểm như thế nào. Còn cá mập thì tôi chưa thấy chúng nguy hiểm ra sao. Tôi kiểm tra các nút buộc của sợi dây của xuồng và bè. Tôi thả dây ra cho đến khi cách xuồng chừng mười mét, cái khoảng cách có vẻ cân bằng hai cái sợ của tôi: quá gần Richard Parker và quá xa chiếc xuồng. Đoạn dây còn lại, khoảng ba mét gì đó, tôi cuốn vòng quanh cái chèo để chân. Nếu cần, tôi có thể dễ dàng thả đoạn dây đó ra.

Ngày đang tàn. Mưa bắt đầu rơi. Trời đã nặng mây và ấm áp suốt ngày. Bây giờ thì nhiệt độ hạ hẳn xuống, mưa tầm tã và lạnh. Khắp xung quanh tôi, nhưng giọt nước ngọt nặng trĩu rơi rào rào và phí phạm xuống biển, làm nhăn nheo mặt sóng. Tôi lại kéo sợi dây. Vào sát mũi xuồng, tôi quỳ lên và ôm lấy chỗ thanh nhô. Tôi đu người lên và thận trọng nhìn qua mạn xuồng. Không thấy nó đâu.

Tôi vội vàng mò và tủ. Tôi vớ một cái hứng nước mưa, một túi nhựa năm mươi lít, một cái chăn và cuốn cẩm nang. Tôi dập cái nắp tủ xuống. Tôi không định làm thế, tuy cũng lo mưa vào ướt hết những của quý của tôi, nhưng cái nắp tuột khỏi bàn tay ướt nhoẹt của tôi. Đó là một sai lầm tệ hại. Hạ cái nắp xuống đã là hành động để lộ mình cho Richard Parker nhìn thấy rồi, mà lại còn làm đến rầm một cái để gọi nó nữa! Đang phủ phục trên con linh cẩu, nó lập tức quay đầu lại. Nhiều con thú rất ghét bị quấy rầy lúc đang ăn. Richard Parker gầm lên. Móng vuốt nó giương ra. Chỏm đuôi nó vẫy qua vẫy lại như có động cơ điện. Tôi nhảy ào xuống bè. Chắc chắn là sợ hãi đã khiến tôi nhanh đến thế. Và cùng với gió và nước ròng, chỉ nhoáng một cái là tôi đã ra xa xuồng. Tôi thả hết dây. Nhất định Richard Parker sẽ lao ra khỏi xuồng, vọt qua không trung nhe nanh giương vuốt vồ lấy tôi. Tôi không rời mắt khỏi chiếc xuồng. Càng nhìn càng hãi.

Nó không xuất hiện.

Để khi mở được cái hứng nước mưa ra trên đầu và buộc chân và trong cái túi nylon, người tôi đã ướt thấu đến xương. Cái chăn cũng ướt hết cả. Nhưng tôi vẫn quấn nó quanh người.

Đêm đến. Xung quanh tôi chỉ còn là bóng tối dầy đặc. Chỉ nhờ vào những cú kéo giật đều đặn của sợi dây mà tôi biết mình vẫn còn nối với xuồng. Biển, chỉ ở bên dưới tôi độ chục phân mà mắt tôi không thể thấy, im lặng nâng đỡ chiếc bè. Những ngón tay nước vụng trộm thò lên qua các khe hở và quệt ướt hết cả đít tôi.

Chương 54

Mưa suốt đêm. Một đêm mưa hãi hùng, không chợp mắt và đầy tiếng động. Mưa rơi xuống cái hứng nước rào rào như trống đánh, và rít lên trong bóng đen bủa vây khắp quanh tôi, như thể tôi đang ở giữa một ổ rắn khổng lồ đang giận dữ. Gió xoay chiều thổi bạt nước mưa hết hướng này sang hướng khác, khiến thân thể tôi cứ vừa hơi khô được một chỗ thì lại ướt sũng trở lại. Tôi xoay chuyển cái hứng mưa, nhưng chỉ được vài phút lại phải chuyển theo hướng gió đổi chiều khác. Tôi cố giữ cho ấm một tí ở ngực, nơi tôi độn cuốn hướng dẫn sống còn, nhưng nước lạnh kiên quyết lan khắp người tôi một cách bệnh hoạn. Tôi rét run cầm cập suốt cả đêm, lúc nào cũng lo cái bè vỡ, dây nối với xuồng bị tuột, hoặc cá mập tấn công. Hai tay tôi sờ nắn các đoạn dây và nút buộc không ngừng nghĩ, như thể đang đọc chúng như người mù đọc chữ nổi vậy.

Đêm càng khuya, gió càng mạnh và biển càng động dữ dằn hơn. Sợi dây nối bè vối xuồng không còn giật nhẹ nữa mà căng thẳng với những cú giật nẩy người, và cái bè tròng trành mạnh không theo nhịp độ nào nhất định. Nó tiếp tục nổi, cưỡi lên các con sóng, nhưng vì không có mạn che chắn nên sóng nước cứ việc ào qua trên người tôi như con sông chảy qua một hòn đá giữa dòng. Nước biển ấm hơn nước mưa, song người tôi thật không còn một chỗ tí xíu nào khô ráo trong suốt đêm hôm đó.

ít nhất thì tôi cũng được uống. Thực ra tôi không khát, mà tôi buộc mình phải uống nước. Cái hứng mưa giống như một cái ô để ngửa, một cái ô bị gió thổi lộn ngược. Nước mưa chảy vào chỗ trũng ở giữa, qua cái lỗ, vào cái ống cao-su rồi xuống cái túi chứa bằng nhựa đầy đặn và trong suốt. Lúc đầu, nước có vị cao-su, nhưng chỉ một lúc sau thì mọi thứ được rửa sạch và nước uống ngon lành.

Trong những giờ phút dài đằng đẵng, lạnh cóng và tói đen ấy, ù tai trong mưa, vất vưởng trên những ngọn sóng khi biển cả gầm rít, tôi vẫn đnh ninh một ý nghĩ: Richard Parker. Tôi nghĩ ra đủ các kế hoạch để thủ tiêu nó và giành lại chiếc xuồng.

Kế hoạch sồ 1: Đẩy nó ra khỏi xuồng. Liệu có ích gì không? trước hết là liệu có đủ sức đẩy một con thú dữ còn đang sống và nặng hơn hai tạ ra khỏi xuồng không? Và có chăng nữa, thì hổ lại là loài thú bơi giỏi. Tại Sundarban, người ta đã thấy hổ bơi hàng năm dặm ngoài biển khơi sóng dữ. Vậy thì có bị đẩy xuống biển, Richard Parker chỉ việc đạp vài cái, trèo lên xuồng trở lại và bắt tôi trả giá cho hành động phản bội của mình.

Kế hoạch số 2: Giết nó bằng 6 ống Morphine. Nhưng cũng không biết morphine có tác dụng gì không. Liệu có đủ để giết nó không? Và tôi sẽ tiêm morphine vào người nó như thế nào? Cứ cho là tôi có thể lừa được nó một lần và bất ngờ tiêm một ống. Nhưng làm sao lừa nó 6 lần liên tiếp? Không thể được. Chỉ cần cắm kim tiêm vào nó là tôi sẽ lạnh đủ một cú tát có thể rụng đầu rồi.

Kế hoạch số 3: Tấn công nó bằng tất cả những gì có thể dùng làm vũ khí. Phi lí và nực cười. Tôi đâu phải Tarzan. Tôi chỉ là một hình nhân ăn chay yếu ớt và nhỏ bé. Muốn săn giết hổ ở ấn Độ, cần phải cưỡi voi khỏe và dùng súng lớn. Còn ở đây thì tôi làm thế nào? Ném một quả pháo sáng vào mặt nó chăng? Xông vào nó với hai tay hai rìu và mồm ngậm dao găm chăng? Giết nó bằng các kim khâu cong và thẳng ư? Làm cho nó ngứa ngáy thôi cũng là một chiến công rồi chứ đừng nói gì đến giết! Và đổi lại, nó sẽ xé tôi ra từng mảnh, chân tay, gan ruột. Một con thú bị thương nguy hiểm hơn một con thú lành mạnh rất nhiều.

Kế hoạch số 4: Thắt cổ nó. Tôi có dây. Nếu tôi trụ ở mũi xuồng làm sao chạy được sợi dây vòng qua đuôi xuồng, rồi thắt một thòng lọng vào cổ nó, tôi sẽ kéo dây khi nó lao về phía tôi. Như thế, càng cố lao vào tôi, nó sẽ càng bị thít chặt cổ. Một kế hoạch tự vẫn thông minh.

Kế hoạch số 5: Đánh thuốc độc. Phóng hỏa. Phóng điện. Nhưng làm thế nào? Dùng cái gì?

Kế hoạch số 6: Đánh nhau kiểu vây hãm cho chết đói. Chỉ việc để mặc nó với các qui luật khắc nghiệt của tự nhiên và tôi sẽ chiến thắng. Chẳng phải nhọc sức làm gì. Cứ đợi cho nó đói khát cho đến chết. Tôi có dự trữ hàng nhiều tháng. Nó có gì? Chỉ một vài con mồi đã chết và sẽ thiu thối rất nhanh. Sau đó thì nó sẽ ăn gì? Và hơn nữa, nước đâu mà uống. Nó có thể nhịn ăn hàng nhiều tuần lễ, nhưng không có con thú nào, dù khỏe đến đâu, có thể nhịn uống trong một thời gian dài.

Một tia hy vọng nhỏ nhoi loé lên trong tôi, như ngọn nến trong đêm. Tôi đã có kế hoạch và là một kế hoạch tốt. Chỉ cần tôi sống sót là thành công.

Chương 55

Ngày rạng và mọi thứ càng tệ hơn. Vì bây giờ, ra khỏi bóng đêm, tôi nhìn thấy cả những gì mà trước đây chỉ có thể cảm thấy: những màn mưa mênh mang từ các tầng trời cao thẳm đổ xuống như muốn nghiền nát tôi, và những con sóng thay nhau cuốn tôi lên cao rồi dìm tôi xuống thấp.

Mắt đờ đẫn, run lẩy bẩy và tê dại, một tay quắp cái hứng mưa, tay kia bám chặt vào bè, tôi tiếp tục chờ đợi.

Một lúc sau, với sự bất ngờ được nhấn mạnh hơn nữa bằng cái yên ắng tiếp theo, mưa ngừng rơi. Trời trong, và dường như các con sóng đã theo mây mà biến đi. Thay đổi thật nhanh và triệt để, như khi ta đi từ nước này sang nước kia trên đất liền. bây giờ thì tôi đang ở trên một đại dương khác hẳn. Một lát sau, mặt trời ngự trị trên cái vòm xanh và biển cả là một làn da mịn phản chiếu ánh sáng với ức triệu mảnh gương lấp lánh.

Tôi tê cứng hết người, đau nhức và kiệt sức, chẳng biết có nên mừng vì còn sống hay không nữa. Những từ ''Kế hoạch số 6, Kế hoạch số 6, Kế hoạch số 6,'' lặp đi lặp lại trong đầu tôi như một câu thần chú và đem lại một chút an ủi, mặc dù tôi không còn nhớ nội dung của Kế hoạch số 6 là cái gì nữa. Xương cốt tôi bắt đầu ấm trở lại. Tôi gập cái hứng mưa. Tôi quấn chăn quanh người và nằm nghiêng, cuộn tròn sao cho không có chỗ nào chạm xuống đến nước, rồi ngủ thiếp đi. Không biết tôi đã ngủ bao lâu. Tỉnh dậy thì thấy có vẻ đã gần trưa, nóng bức. Cái chăn đã gần như khô. Một giấc ngủ ngắn thật say. Tôi nghển lên, chống một khuỷu tay.

Xung quanh tôi phẳng phiu vô tận, một toàn cảnh vô cùng tận của màu xanh nước biển. Không có gì cản tầm mắt. Cái mênh mang đập vào tôi như một cú đấm thúc vào bụng. Tôi nằm vật xuống, đầu óc quay tít. Cái bè này chỉ là một trò đùa. Nó chỉ là vài cái que và một mẩu nút chai buộc lại với nhau. Nước trào lên qua các kẽ hở. Đáy nước thăm thẳm bên dưới sẽ khiến cho ngay cả một con chim cũng phải chóng mặt. Tôi thấy cái xuồng nó chẳng hơn gì một nửa cái vỏ hạt dẻ. Nó nổi trên mặt nước cũng như mấy ngón tay đang bám víu lấy mép vực thẳm. Sớm muộn gì rồi trong lực cũng kéo nó xuống mà thôi.

Kẻ cùng cảnh ngộ với tôi xuất hiện. Nó đứng hai chân trước lên mạn xuồng và nhìn về phía tôi. Cảnh tượng một con hổ thình lình xuất hiện thì bao giờ và ở đâu cũng choáng ngợp cả, nhưng nó càng choáng ngợp hơn trong khung cảnh lúc đó. Vẻ tương phản lạ lùng giữa bộ cánh da cam tươi có vằn đen của nó với màu trắng đục của vỏ xuồng thật mạnh mẽ và hấp dẫn không thể tưởng tượng được. Các giác quan mệt mỏi của tôi đột nhiên ngừng hết cả lại như một chiếc xe đang chạy hết tốc lực bị kéo hết phanh. Thái Bình Dương mênh mông là vậy, thế mà đột nhiên giữa chúng tôi, nó trở thành chật hẹp như thể chỉ là một hào nước hẹp, không rào không giậu.

''Kế hoạch số 6, Kế hoạch số 6, Kế hoạch số 6,'' tâm trí tôi thì thào khẩn cấp. Nhưng Kế hoạch số 6 là cái gì? A, đúng rồi. Chiến tranh vây hãm và bỏ đói. Trò chờ đợi. Trò thụ động. Kệ cho mọi việc tự nó xảy ra. Quy luật sắt của thiên nhiên. Cuộc hành quân không ngừng nghỉ của thời gian và việc tàng trữ lương thực. Đó là Kế hoạch số 6.

Một ý nghĩ ré lên trong đầu tôi như một tiếng thét giận dữ: ''Đồ ngu ngốc! Thằng cả đần! Đồ khỉ! Kế hoạch số 6 là kế hoạch dở nhất! Richar Parker đang sợ hãi biển cả như một nấm mồ của chính mình. Nhưng đói khát sẽ làm cho nó hết sợ. Và nó sẽ làm đủ thứ để thỏa mãn nhu cầu đó. Nó sẽ biến con hào nước hẹp này thành một cái cầu. Nó sẽ bơi đến tận khi nào đến được bè để có thức ăn. Còn nước uống, chẳng nhẽ mi đã quên là ở Sundarbans người ta thấy hổ uống cả nước biển mặn đấy ư? Mi tưởng có thể thi gan với quả thận kiểu đó của nó hay sao? Ta nói cho mi biết, nếu mi phát động chiến tranh vây hãm và bỏ đói, mi sẽ thua! Mi sẽ chế! Đã Rõ CHƯA?''

Chương 56

Tôi phải có vài lời về sự sợ hãi. Sợ hãi là đối thủ thực sự duy nhất của cuộc sống. Chỉ có sợ hãi mới đánh bại được cuộc sống. Nó là một đối thủ khôn ngoan và xảo quyệt, tôi biết điều này quá rõ. Nó không có liêm sỉ, không tuân thủ bất cứ một luật lệ gì, không biết thương xót. Nó tấn công chỗ yếu nhất của ta, và bao giờ cũng tìm thấy chỗ đó một cách dễ dàng. Nó luôn luôn tấn công trước hết vào tinh thần của ta. Ta đang bình tĩnh, chủđộng, hạnh phúc. Đùng một cái, sợ hãi, ngụy trang dưới dạng một nghi ngờ, nhẹ nhàng, lẻn vào tinh thần ta như một tên gián điệp. Nghi ngờ gặp phải Không tin và Không tin cố đánh bật nó ra. Nhưng không tin là một anh lính quèn kém võ trang. Nghi ngờ loại anh này ra khỏi vòng chiến một cách dễ dàng. Ta bắt đầu lo lắng, bồn chồn. Lý lẽ liền xung trận bảo vệ ta. Ta thấy yên lòng lại. Lý lẽ được trang bị bằng mọi thứ vũ khí và công nghệ hiện đại nhất. Nhưng, trước sự kinh ngạc của ta, mặc dù đã có những chiến thuật siêu đẳng và một số chiến thắng không thể phủ nhận, Lý lẽ vẫn bị yếu thế. Ta lại thấy yếu lòng, hoang manh. Nỗi lo lắng và bồn chồn của ta trở thành kinh hoàng.

Lúc ấy, Sợ hãi dồn toàn lực sang cở thể ta, vốn đã lờ mờ cảm thấy có chuyện chẳng lành đang xảy ra. Lập tức, hai lá phổi ta vỗ cánh bay mất như một con chim, và ruột gan ta thì như bầy rắn hốt hoảng trườn đi. Rồi đến lưỡi ta cứng đơ lại, còn hàm thì bắt đầu phi nước kiệu tại chỗ. Tai ta điếc đặc. Cơ bắp bắt đầu run rẩy như sốt rét và hai đầu gối thì lắc như múa. Tim ta thắt lại quá nhỏ và các cơ vòng thì lỏng ra quá nhiều. Và tất cả các bộ phận khác cũng vậy. Bộ phận nào cũng hỏng, theo kiểu riêng của chúng. Chỉ có hai con mắt là vẫn chạy tốt. Chúng luôn chú ý đến Sợ hãi.

Và thế là ta nhanh chóng có những quyết định rất tai hại. Ta bỏ rơi những đồng minh cuối cùng của mình là Hy vọng và Tin tưởng. Đó là lúc ta đã tự đánh bại chính mình. Và Sợ hãi, thực chất chỉ là một ấn tượng, đã đánh bại ta.

Chuyện đó rất khó nói ra bằng lời. Bở vì Sợ hãi, nỗi Sợ hãi thực sự, hằn sâu vào tận cốt tủy như khi ta phải đối mặt với cái chết, sẽ làm tổ trong kí ức ta như một ổ thịt thối: nó tìm cách làm thối mọi thứ, kể cả những lời sẽ phải dùng để nói về chính nó. Cho nên ta phải tranh đấu kịch liệt để diễn đạt nó ra. Ta phải chiến đấu đến cùng để làm rõ ràng ánh sáng của những lời dùng để nói về nói. Bởi lẽ nếu không thế, nếu nỗi Sợ hãi của ta trở thành một cõi đen tối không lời mà ta lẩn tránh, thậm chí còn có thể lãng quên, ta sẽ bỏ ngỏ chính ta cho những cuộc tấn công khác nữa của Sợ hãi, vì ta đã chưa bao giờ thực sự kháng cự kẻ đã từng đánh bại ta.

Chương 57

Chính Richard Parker làm tôi bình tĩnh trở lại. Điều trớ trêu trong chuyện này là ở chỗ lúc đầu nó đã làm tôi sợ mất mật nhưng lại cũng chính nó đem lại cho tôi sự bình yên, mục đích, và tôi dám nói rằng cả lành mạnh nữa.

Nó đang nhìn tôi rất chăm chú. Một lúc sau thì tôi hiểu ra cái hình của nó. Tôi đã lớn lên với nó. Đó là cái nhìn của một con thú đang bằng lòng với cuộc đời của mình, kiểu như ta đang nhìn ra ngoài sau một bữa ăn ngon trong tiệm và thấy đã đến lúc nhìn ngó mọi người và chuyện gẫu với nhau. Rõ ràng, Richard Parker đã ăn con linh cẩu đến căng bụng và uống đã nước mưa. Nó không hề nhe răng nhe lợi, không gầm gừ làu bàu gì hết. Nó chỉ giản dị nhìn tôi, quan sát tôi, với dáng vẻ tỉnh táo những không đe dọa. Nó vẫy tai, quay đầu sang hai bên với các góc độ khác nhau, hệt như loài mèo vẫn ó thói quen như thế. Nó trông giống một con mèo to béo nuôi trong nhà, một con mèo cảnh nặng hơn hai tạ.

Nó khụt khịt, một tiếng khụt khịt từ trong mũi. Tôi dỏng tai. Nó khụt khịt lẫn nữa. Tôi kinh ngạc. Chẳng lẽ thế?

hổ phát ra nhiều âm thanh khác nhau. Chúng bao gồm một số tiếng gầm và tiếng gừ, to nhất trong số nào có lẽ là tiếng aaoonh, rung hết các thanh đới, mà cả các con đực và cái thường phát ra trong mùa giao phối. Đó là tiếng kêu vang rất xa và rộng, nếu nghe gần thì cực kỳ khủng khiếp. Khi bị bất ngờ, hổ hộc lên một tiếng nghe như tiếng nổ gọn và sắc của một khối giận dữ, và ngay lúc ấy khiến chân ta bật lên tháo chạy nếu không phải đã bị rúm lại tại chỗ. Khi chúng xông vào con mồi, hổ phát ra những tiếng gầm ngắn như tiếng ho tận trong cổ họng. Còn để dọa thì tiếng g?