← Quay lại trang sách

CÔ GÁI TRONG MÊ CUNG Chương 1 Đi trốn

Câu chuyện diễn ra ngay trước mắt chúng ta lẽ ra phải rõ ràng nhất, ấy thế nhưng lại là mù mờ nhất.

Julian BARNES

1

Brooklyn, mùa thu năm 2010

Sáu tháng trước, ngày 12 tháng Tư năm 2010, con gái ba tuổi của tôi, Carrie Conway, đã bị bắt cóc trong lúc hai mẹ con đang chơi trốn tìm trong căn hộ nhà mình ở Williamsburg.

Chiều hôm đó trời rất đẹp, trong và nhiều nắng, như New York vẫn thường như vậy vào mùa xuân. Theo thói quen, tôi đi bộ đến đón Carrie ở trường con bé, Montessori School ở công viên McCarren Park. Trên đường về, hai mẹ con dừng chân ở tiệm Marcello’s để mua món quả nghiền và một chiếc bánh cannoli chanh, Carrie vừa ăn ngấu nghiến cả hai vừa nhảy nhót vui vẻ bên cạnh xe đẩy.

Khi chúng tôi về đến nhà, ở sảnh tòa nhà Lancaster, số 396 phố Berry, người gác cổng mới, Trevor Fuller Jones - ông mới được tuyển vào làm cách đây chưa đầy ba tuần cho Carrie một chiếc kẹo mút mật ong có vừng và bảo con bé hứa không được ăn nó ngay. Rồi ông nói với Carrie rằng con bé may mắn biết bao vì có mẹ là nhà văn, bởi như vậy mẹ hẳn sẽ kể cho con bé những câu chuyện tuyệt hay khi lên giường đi ngủ buổi tối. Tôi mỉm cười nhắc ông rằng, nói như vậy thì hẳn là ông chưa từng giở xem bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào của tôi, và ông cũng công nhận. “Quả đúng là vậy, tôi không có thời gian để đọc sách, cô Conway ạ”, ông khẳng định với tôi. “Ông không dành thời gian để đọc thôi, Trevor, hai chuyện này không giống nhau đâu”, tôi trả lời ông trong lúc cửa thang máy đóng lại.

Theo đúng nghi thức đã thành nếp của hai mẹ con, tôi nhấc Carrie lên để con bé có thể bấm nút lầu sáu, tầng lầu trên cùng. Buồng thang chuyển động kèm theo tiếng kèn kẹt của kim loại đã từ lâu không còn khiến cả tôi lẫn con bé sợ hãi nữa. Lancaster là tòa nhà cũ kỹ xây bằng gang đang được sửa mới. Một dinh thự lạ lùng với những cửa sổ lớn được bao quanh bằng những chiếc cột kiểu Corinth*. Trước đây nó được dùng làm kho hàng cho một nhà máy sản xuất đồ chơi, nhà máy này đã dừng hoạt động từ đầu những năm 1970. Do quá trình phi công nghiệp hóa, tòa nhà bị bỏ không trong gần ba mươi năm rối mới được cải dụng thành nhà ở khi có mốt đến cư ngụ tại Brooklyn.

Một trong so các kiểu trang trí cột cơ bản của kiến trúc Hy Lạp và La Mã cổ, khá cầu kỳ với những đường lá ô rô và đường xoáy ốc.

Vừa vô đến nhà, Carrie cởi ngay đôi giày thể thao nhỏ xíu để xỏ chân vào đôi dép đi trong nhà màu hồng nhạt có những túm bông trang trí. Con bé đi theo tôi đến tận chỗ máy hát, vừa xem tôi đặt một chiếc đĩa than lên mâm máy - chương hai bản concerto cung sol trưởng của Ravel - vừa vỗ tay chờ đón tiếng nhạc sắp vang lên. Sau đó con bé còn lẵng nhẵng theo tôi vài phút, đợi tôi phơi xong quần áo rồi mới rủ tôi chơi trốn tìm.

Đấy là trò chơi yêu thích của con bé từ lâu. Mỗi khi chơi con bé trông thực sự say mê.

Hồi chưa được một tuổi, trò “trốn tìm” đối với Carrie là úp hai bàn tay nhỏ xinh lên mắt, các ngón tay xòe ra, che một nửa mắt nhìn. Con bé không nhìn tôi vài giây rồi khuôn mặt tôi lại hiện ra như có phép mầu khiến con bé phá lên cười giòn tan. Dần dần, con bé rốt cuộc cũng hiểu ra quy tắc phải đi trốn. Vậy là con bé núp sau rèm cửa hoặc dưới chiếc bàn thấp. Nhưng lúc nào cũng có đầu ngón chân, cùi chỏ hoặc một bên chân không thu vào hết làm con bé bị lộ. Thậm chí có lúc, nếu trò chơi kéo dài quá lâu, Carrie sẽ vẫy vẫy tay về phía tôi để tôi tìm ra con bé nhanh hơn.

Con bé càng lớn, trò chơi càng phức tạp hơn. Carrie nấp cả trong những phòng khác của căn hộ, tìm ra nhiều nơi khác để trốn: ngồi xổm sau cánh cửa, cuộn tròn người trong bồn tắm, nằm dài dưới đống chăn ga, nằm bẹp dưới gầm giường.

Luật chơi cũng thay đổi. Trò chơi trở thành một việc nghiêm túc.

Từ đó trở đi, trước khi bắt đầu tìm con bé, tôi phải quay mặt vào tường, nhắm mắt và đếm số lần lượt đến hai mươi.

Và đó chính là điều tôi đã làm, vào buổi chiều ngày 12 tháng Tư đó, khi mặt trời đang tỏa nắng phía sau những tòa nhà chọc trời, nhấn chìm căn hộ nhà tôi trong luồng ánh sáng ấm áp gần như phi thực.

– Mẹ không được ăn gian đâu nhé! con bé hét lên mặc dù tôi hoàn toàn tuân theo nghi thức.

Trong phòng mình, tay úp lên che mắt, tôi bắt đầu đếm to thành tiếng, không quá chậm không quá nhanh.

– Một, hai, ba, bốn, năm…

Tôi nhớ rất rõ tiếng động nhẹ của bước chân con bé rón rén trên sàn gỗ. Carrie đã rời khỏi phòng. Tôi nghe thấy con bé đi qua phòng khách, đẩy chiếc ghế bành Eames chễm chệ trước bức vách kính lớn.

– … sáu, bảy, tám, chín, mười…

Thời tiết thật dễ chịu. Tâm trí tôi lang thang đây đó, cuốn theo những nốt nhạc như pha lê vọng đến từ phòng khách. Đã đến đoạn ưa thích của tôi trong khúc adagio* này. Cuộc đối thoại giữa kèn cor Anh và đàn piano.

Thuật ngữ âm nhạc, chỉ tốc độ khoan thai. Bản concerto cung sol trưởng của Ravel có ba chương, chương I: Allegramente (vui tươi), chương II: Adagio (khoan thai), chương III: Presto (rất nhanh). Trong đó, chương II lại có hai nửa, nửa đầu gồm có đàn piano, sáo flute, kèn oboe, kèn clarinet, nửa sau gồm kèn cor Anh và đàn piano.

– … mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm…

Một câu nhạc dài, trau chuốt, không ngừng tuôn chảy mà một số người đã so sánh khéo léo với một cơn mưa ấm áp, đều đặn và lặng lẽ.

– … mười sáu, mười bảy, mười tám, mười chín, hai mươi.

Mở mắt.

2

Tôi mở mắt và ra khỏi phòng.

– Chú ý, chú ý! Mẹ đang đến đây!

Tôi bắt đầu chơi. Tôi tươi cười sắm cái vai mà con gái mong đợi ở mình. Tôi vừa đi qua từng phòng vừa bình phẩm từng ý đồ của mình bằng giọng trêu đùa:

– Carrie không có dưới đống gối dựa đâu… Carrie không trốn sau trường kỷ đâu…

Các nhà tâm lý khẳng định chơi trốn tìm có lợi ích sư phạm nhất định: trò chơi này là một cách giúp trẻ em trải nghiệm sự chia tách theo cách tích cực. Bằng cách lặp đi lặp lại sự xa cách tạm thời và mang tính sắp đặt này, trẻ em được cho là sẽ cảm nhận thấy sự gắn kết mạnh mẽ giữa mình và cha mẹ. Để tạo hiệu quả, trò chơi cần được thực hiện như một màn kịch thực sự và phải tạo ra, trong khoảng thời gian rất ngắn, nhiều cung bậc cảm xúc: sự kích thích, chờ đợi và một chút sợ hãi trước khi vỡ òa vì vui sướng khi được tái ngộ.

Để tất cả những cảm xúc đó được bộc lộ thì phải kéo dài sự thích thú một chút và không làm cảm giác hổi hộp hết quá sớm. Đương nhiên, thường thì tôi biết Carrie trốn ở đâu trước cả khi mở mắt ra. Nhưng lần này thì không. Và sau hai hay ba phút diễn trò, tôi quyết định thôi giả vờ và đi tìm con bé. Tìm kiếm thực sự.

Tuy căn hộ nhà tôi cũng rộng - một khối lập phương bằng kính rộng hai trăm mét vuông nằm ở góc Tây tòa nhà nhưng những nơi có thể làm chỗ nấp được thì không phải vô hạn. Tôi mua nhà cách đây vài tháng, dồn vào đó toàn bộ tiền tác quyền kiếm được. Dự án bất động sản cải tạo tòa Lancaster đã được khách hàng tranh nhau mua và dù công trình còn lâu mới hoàn thành thì căn hộ tôi nhắm đến đã là căn cuối cùng chưa có người sở hữu trên thị trường. Tôi thích mê nó ngay lần đầu đến xem, rồi để giành lấy và chuyển đến thật nhanh, tôi đã chấp nhận đưa một khoản lót tay cho bên môi giới. Sau khi có được căn hộ, tối cho đập bỏ toàn bộ các bức tường có thể đập bỏ được để biến căn hộ thành một mặt bằng rộng có sàn gỗ màu vàng óng như mật ong cùng đồ bày biện và phong cách trang trí tối giản. Những lần chúng tôi chơi cùng nhau gần đây, Carrie đã biết tìm ra những chỗ nấp rất khó tin: con bé tinh ranh luồn ra sau máy sấy quần áo hay nấp trong tủ cất dụng cụ vệ sinh.

Một cách kiên nhẫn, tuy có phần hơi khó chịu, tôi tìm con bé khắp các ngóc ngách xó xỉnh, phía sau từng món đồ đạc. Rồi tôi lại tìm lần nữa. Trong lúc vội vã, tôi xô đổ chiếc bàn chân quỳ bằng gỗ sồi xếp đống đĩa than và máy hát. Vì cú rơi, kim trên mâm máy bị văng khỏi rãnh đĩa và tiếng nhạc vụt tắt, im lặng tràn ngập căn phòng.

Chính lúc đó một cảm giác lo lắng quặn lên trong bụng tôi.

– Được rồi, con yêu, con thắng rồi. Nấp ở đâu thì ra ngay nào!

Tôi chạy vội ra sảnh để kiểm tra cửa ra vào. Cánh cửa bọc thép đã được khóa đủ hai vòng. Chìa khóa cắm ở then trên, móc trong chùm, ngoài tầm với của trẻ.

– Carrie! Ra khỏi chỗ nấp đi, mẹ nói rổi, con thắng rồi!

Bằng tất cả lý trí huy động được, tôi cố kìm nén con sóng sợ hãi đang chực xô tới. Carrie nhất định vẫn còn ở trong nhà. Chìa khóa trên cửa, cắm trong ổ, sẽ khiến không ai có thể mở được cửa từ bên ngoài kể cả khi người đó có chìa khác. Còn các cửa sổ, kể từ khi tòa nhà được sửa sang, tất cả đều là cửa sổ khép kín*. Không chỉ Carrie không thể ra khỏi nhà, mà cũng không ai có thể đột nhập vào.

Loại cửa sổ là một tấm kính duy nhất nằm trong khung, chỉ nhìn qua được chứ không mở được.

– Carrie! Trả lời mẹ con đang ở đâu đi.

Tôi thở dốc, như thể vừa chạy qua nửa công viên Central Park. Tôi há cả miệng ra thở nhưng không ích gì, không khí không thể vào đến phổi. Không thể nào. Không ai lại mất tích giữa một cuộc trốn tìm trong một căn hộ. Đây là trò chơi luôn kết thúc vui vẻ. Sự mất tích chỉ là sắp đặt tượng trưng và tạm thời. Không thể khác đi được. Thậm chí đó là thứ đã ghi trong bản chất của ý tưởng trò chơi này: mọi người chỉ đồng ý chơi vì tin rằng mình sẽ tìm thấy người kia.

– Carrie, giờ thì đủ rồi đấy! Mẹ không vui đâu!

Mẹ không vui, mà mẹ đang thấy rất sợ. Lần thứ ba hay thứ tư, tôi kiểm tra mọi chỗ nấp quen thuộc, rồi tôi xem cả những chỗ ít có khả năng hơn: lồng máy giặt, ống khói lò sưởi - đã bị bịt từ rất lâu rồi. Tôi kéo dịch cái tủ lạnh nặng trịch, thậm chí tôi còn ngắt cầu dao để tháo và mở tấm lợp trần giả, trên đó có các ông dẫn của máy điều hòa.

– CARRIE!

Tiếng kêu gào của tôi vang vọng khắp căn hộ, đến mức làm rung cả các ô cửa kính. Nhưng tiếng vọng tan biến và sự im lặng lại quay trở lại. Bên ngoài, mặt trời đã lặn. Không khí trở lạnh. Như thể mùa đông vừa ập đến không báo trước.

Tôi đứng bất động giây lát, mồ hôi túa ra, nước mắt chảy trên má. Khi dần lấy lại tinh thần tôi mới trông thấy một bên dép của Carrie ngoài hành lang thông ra cửa. Tôi nhặt chiếc dép nhỏ bằng nhung màu hồng nhạt. Đây là chiếc bên chân trái. Tôi tìm chiếc kia, nhưng dường như nó cũng đã biến mất.

Chính khi ấy tôi quyết định gọi cảnh sát.

3

Viên cảnh sát đầu tiên có mặt ở nhà tôi là thảm tử* Mark Rutelli của Phân khu 90*, đồn cảnh sát phụ trách vùng phía Bắc Williamsburg. Trông ông có lẽ không còn cách tuổi về hưu là bao. Bất chấp dáng vẻ mệt mỏi và đôi mắt đã có bọng, ông hiểu ngay lập tức sự nguy cấp của tình hình và làm việc rất khẩn trương. Sau khi xem xét tỉ mỉ căn hộ, ông yêu cầu tăng viện để lục soát toàn bộ tòa nhà, triệu tập một đội cảnh sát khoa học, cử hai nhân viên đi thu thập lời khai của các cư dân trong tòa Lancaster và đích thân xem kỹ các đoạn băng giám sát cùng đội bảo vệ tòa nhà.

Nguyên vãn bằng tiếng Anh: detective. Trong tiếng Việt, từ “thám tử” thường được hiểu là “thám tử tư”, tức người điều tra độc lập, không thuộc ngành cảnh sát. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, từ “detective” chỉ cả thám tử tư và thám tử thuộc lực lượng cảnh sát. Trong tiểu thuyết này, từ “thám tử” được hiểu theo nghĩa thứ hai.

Nguyên văn: 90th Precinct.

Ngay khi có mặt, ông đã tin rằng chiếc dép bị thiếu là đủ thuyết phục để kích hoạt cơ chế “Báo động bắt cóc”, nhưng cảnh sát bang muốn tập hợp thêm những yếu tố cụ thể khác trước khi cho phép.

Thời gian càng trôi đi, tôi càng bồn chồn lo lắng. Tôi hoàn toàn mất phương hướng, không biết làm thế nào để trợ giúp nhưng lại điên cuồng khao khát mình có thể giúp được. Tôi để lại một tin nhắn trên máy trả lời tự động của biên tập viên của tôi: ‘Tantine, tớ cần sự giúp đỡ của cậu, Carrie đã mất tích, cảnh sát đang ở đây, tớ không biết phải làm gì, tớ lo lắng đến phát điên, hãy gọi lại cho tớ ngay.”

Chẳng mấy chốc đêm đã buông xuống Brooklyn. Không chỉ có Carrie chưa trở về, mà những điều tra của NYPD* cũng chưa mảy may thấy được một hướng triển khai dù là nhỏ nhất. Con gái tôi dường như đã bốc hơi, đã bị Vua Erl* khát máu, lợi dụng lúc tôi không chú ý, kéo vào bóng tối.

New York Police Department: Sở Cảnh sát New York.

Nguyên văn: Roi des Aulnes, tức Erlkönig, vua của các loài yêu tinh, nhân vật trong thơ ca Đức, rất hắc ám và luôn dẫn dụ người ta đến cái chết.

Tám giờ tối, cấp trên của Rutelli, trung úy Frances Richard, xuống xe ở sân trước tòa nhà Lancaster, nơi tôi được đưa xuống trong lúc một đội cảnh sát lục soát kho xép của căn hộ.

– Chúng tôi đã cho theo dõi đường điện thoại của cô, cô ấy vừa dựng cổ áo khoác đi mưa lên vừa cho tôi biết.

Con phố đã được phong tỏa và một cơn gió lạnh buốt thổi tràn trên phố Berry.

– Có khả năng kẻ bắt cóc con gái cô sẽ tìm cách liên lạc với cô để đòi tiền chuộc hoặc đưa ra yêu cầu nào đó khác. Nhưng hiện tại, cô cần theo chúng tôi về đồn.

– Vì lý do gì? Làm sao các vị lại cho là con bé đã bị bắt cóc? Cửa vẫn…

– Đó là điều chúng tôi đang cố tìm ra, thưa cô.

Tôi ngẩng đầu nhìn bóng hình khổng lồ của tòa nhà nổi bật trên nền trời đen thăm thẳm. Có điều gì đó mách bảo tôi rằng Carrie vẫn đang ở trong ấy và rằng nếu tôi đi xa khỏi đây, đó sẽ là một sai lầm. Cố tìm sự trợ giúp, tôi nhìn Rutelli, nhưng ông tán thành với cấp trên:

– Hãy đi cùng chúng tôi, thưa cô. Cô cần trả lời chi tiết hơn nữa một số câu hỏi của chúng tôi.

Trích lời khai của cô Flora Conway

Thực hiện vào thứ Hai ngày 12 tháng Tư năm 2010 bởi thám tử Mark Rutelli và trung úy Frances Richard tại đồn Phân khu 90, số 211 phố Union Ave, Brooklyn, NY11211.

8 giờ 18 phút tối

Trung úy Richard (đọc lại các ghi chép của mình): Cô nói với chúng tôi bố của Carrie tên là Romeo Filippo Bergomi. Anh ấy là vũ công ở nhà hát Opéra de Paris, có phải vậy không?

Flora Conway: Vũ công hạng bốn.

Thám tử Rutelli: Cụ thể hơn thì như thế nghĩa là sao?

Flora Conway: Trong thứ bậc của nhà hát, có các vũ công ngôi sao, vũ công hạng hai, vũ công hạng ba và vũ công hạng bốn.

Trung úy Richard: Ý cô anh ấy là kẻ thất bại?

Flora Conway: Không, tôi chỉ trả lời câu hỏi của các vị.

Trung úy Richard: Anh Bergomi hiện tại hai mươi sáu tuổi, phải vậy không?

Flora Conway: Tôi cho là các vị đã thẩm tra rồi.

Thám tử Rutelli: Phải, chúng tôi đã liên lạc với anh ấy, việc hẳn là cô cũng nên làm. Chúng tôi thấy anh ấy có vẻ rất lo lắng. Anh ấy đã đặt gấp một chuyến bay. Anh ấy sẽ tới New York trong buổi sáng ngày mai.

Flora Conway: Chắc đây là lần đầu tiên anh ta lo lắng cho con gái. Cho đến hiện tại anh ta chưa bao giờ thực sự bận lòng như vậy.

Thám tử Rutelli. Cô giận anh ấy à?

Flora Conway: Không, tôi thấy rất ổn.

Thám tử Rutelli: Cô có nghĩ anh Bergomi hay những người thân cận của anh ấy có thể gây hại cho Carrie không?

Flora Conway: Tôi không nghĩ vậy, nhưng tôi không thể đảm bảo. Tôi không thật sự hiểu anh ta.

Trung úy Richard: Cô không hiểu rõ bố của con gái cô sao?

8 giờ 25 phút tối

Thám tử Rutelli: Cô có kẻ thù không, cô Conway?

Flora Conway: Theo như tôi biết thì không.

Thám tử Rutelli: Vậy những người thù ghét, hẳn là có. Ai đó có thể thù hận một tiểu thuyết gia nổi tiếng như cô? Những đồng nghiệp kém may mắn hơn chăng?

Flora Conway: Tôi không có “đồng nghiệp”. Tôi không đi làm ở nhà máy hay văn phòng.

Thám tử Rutelli: Ý tôi là, cô hiểu điều tôi muốn nói mà. Mọi người ngày càng đọc ít đi, phải không? Cho nên đương nhiên vị thế là thứ trở nên quý giá. Điều đó hẳn tạo ra sự căng thẳng giữa các nhà văn như cô, những mối ghen ghét…

Flora Conway: Có lẽ vậy, nhưng không gì có thể dẫn tới một vụ bắt cóc trẻ con.

Trung úy Richard: Những tiểu thuyết cô viết, chúng thuộc thể loại gì?

Flora Conway: Không phải là thể loại các vị đọc.

Thám tử Rutelli: Còn về phía các độc giả? Cô không phát hiện thấy mình có một fan hâm mộ điên loạn nào như trong truyện, ờ, Misery* ư? Cô không nhận được bức thư hay thư điện tử nào từ những độc giả hơi phiền phức quá?

Tiểu thuyết của nhà văn Stephen King. Trong truyện, một nhà văn gặp một tệ nạn nghiêm trọng và được một người hâm mộ nữ đưa về chăm sóc. Do phát hiện nhà văn này đã giết chết nhân vật ưa thích của mình trong cuốn sách mới, người đàn bà quyết định bắt nhà văn phải cho nhân vật đó sống lại bằng những cách thức hết sức tàn độc.

Flora Conway: Tôi không đọc thư của độc giả, nhưng có lẽ biên tập viên của tôi thì có, hãy hỏi cô ấy.

Thám tử Rutelli: Vì sao cô không đọc thư của họ? Cô không hứng thứ muốn biết họ nghĩ gì về sách của mình ư?

Flora Conway: Không.

Trung úy Richard: Vì sao vậy?

Flora Conway: Vì độc giả đọc cuốn sách mà họ muốn đọc, không phải cuốn sách mà ta đã viết.

8 giờ 29 phút tối

Thám tử Rutelli: Nghề của cô kiếm có khá không, nhà văn?

Flora Conway: Cũng tùy lúc.

Thám tử Rutelli: Bởi chúng tôi đã kiểm tra tài khoản ngân hàng của cô và không thể nói là cô nằm trên đống vàng…

Flora Conway: Tôi đã dùng toàn bộ tiền tác quyền để mua căn hộ và sửa sang lại nó.

Thám tử Rutelli: Đúng là một căn hộ như vậy thì cũng ngốn khá tiền.

Flora Conway: Nó rất quan trọng với tôi.

Trung ủy Richard: Vì sao vậy?

Flora Conway: Nó có những bức tưởng để bào vệ tôi.

Thám tử Rutelli: Bảo vệ cô khỏi ai?

8 giờ 34 phút tối

Trung úy Richard (phe phẩy mục tin nhanh của AFP trước mắt): Tôi thấy mọi người đang nhắc về cô trên báo. Tôi biết bây giờ không phải lúc, nhưng chúc mừng cô đã giành Giải Kafka.

Flora Conway: Quả đúng là không phải lúc…

Trung úy Richard: Vậy là cô không đến nhận giải ở Praha bởi vì, tôi dẫn lời trong bài báo, cô mắc chứng “sợ xã hội”, có phải vậy không?

Flora Conway: …

Thám tử Rutelli: Có phải vậy không, cô Conway?

Flora Conway: Tôi thật sự muốn biết thứ gì đang diễn ra trong đầu các vị mà khiến các vị thà mất thời gian hỏi tôi những loại câu hỏi như thế thay vì…

Trung úy Richard: Tối qua cô ở đâu? Ở trong căn hộ cùng con gái?

Flora Conway: Tối qua, tôi ra ngoài.

Trung ủy Richard: Để đi đâu?

Flora Conway: Đến Bushwick.

Thám tử Rutelli: Bushwick rộng lắm.

Flora Conway: Tới một quán bar ở phố Frederick: quán Boomerang.

Trung úy Richard: Đến quán bar khi mắc chứng sợ xã hội thì quả là lạ nhỉ, phải vậy không?

Flora Conway: OK, câu chuyện mắc chứng sợ xã hội đó là một trò ngu ngốc do Fantine, biên tập viên của tôi, nghĩ ra, để tôi khỏi phải gặp phóng viên và độc giả.

Thám tử Rutelli: Vì sao cô không chịu gặp họ?

Flora Conway: Vì đó không phải việc của tôi.

Thám tử Rutelli: Việc của cô là gì?

Flora Conway: Viết sách, chứ không phải là bán chúng.

Trung úy Richard: Được rồi, trở lại với quán bar nào. Khi cô vắng mặt, thường thì ai sẽ trông Carrie?

Flora Conway: Một bảo mẫu, thường thì là thế. Hoặc Fantine, nếu tôi bị kẹt.

Thơm tư Rutelli: Vậy tối qua thì sao? Trong lúc cô ở quan Boomerang?

Flora Conway: Một bảo mẫu.

Thám tử Rutelli: Tên người đó là gì?

Flora Conway: Tôi chẳng biết gì về cô ta hết. Tôi gọi cho một công ty cung cấp dịch vụ trông trẻ, nhưng họ không bao giờ cử đến cùng một người.

8 giờ 35 phút tối

Thám tử Rutelli: Vậy ở quán bar Boomerang hôm đó, cô đã làm gì?

Flora Conway: Những gì người ta thưởng làm trong quán bar thôi.

Thám tử Rutelli: Cô uống nhiều rượu?

Trung úy Richard: Cô chèo kéo đàn ông?

Flora Conway: Đó là một phần công việc của tôi.

Thám tử Rutelli: Công việc của cô, là uống nhiều rượu?

Trung úy Richard: Và chèo kéo đàn ông?

Flora Conway: Công việc của tôi là đến nhiều nơi để quan sát mọi người, nói chuyện với họ, cố gắng đoán những điều thầm kín và tưởng tượng ra những bí mật của họ. Đó là nhiên liệu cho việc viết lách của tôi.

Trung úy Richard: Tối qua, cô có gặp gỡ mọi người chứ?

Flora Conway: Tôi thật chẳng thấy chuyện đó có gì…

Trung úy Richard: Cô rời quán bar cùng một người đàn ông phải không, cô Conway?

Flora Conway: Phải.

Thám tử Rutelli: Anh ta tên là gì?

Flora Conway: Hassan.

Thám tử Rutelli: Cái gì Hassan?

Flora Conway: Tôi không biết.

Thám tử Rutelli: Hai người đã đi đâu?

Flora Conway: Về nhà tôi.

Trung úy Richard: Cô đã quan hệ tình dục với anh ta à?

Flora Conway: …

Trung úy Richard: Cô Conway, có phải cô đã quan hệ tình dục với một người lạ mới gặp trước đó vài giờ, trong căn hộ của cô, nơi con gái cô đang ngủ?

8 giờ 46 phút tối

Thám tử Rutelli: Tôi muốn cô chú tâm xem đoạn video này: đây là những hình ảnh chụp chiều nay từ một camera theo dõi đặt ở hành lang lầu sáu tòa nhà nơi cô sống.

Flora Conway: Tôi không biết có camera ở đó.

Trung úy Richard: Quyết định đã được ban quản trị tòa nhà thông qua cách đây sáu tháng. An ninh của Lancaster đã được tăng cường rất nhiều từ khi có nhiều người giàu mua lại các căn hộ để sửa sang.

Flora Conway: Nghe từ miệng cô, tôi đoán đó là một lời chỉ trích.

Thám tử Rutelli: Chiếc camera cho phép nhìn rõ cửa ra vào căn hộ nhà cô. Từ đây, chúng tôi thấy cô về từ trường cùng Carrie. Hãy nhìn thời gian hiện bên dưới màn hình: 15 giờ 53. Rồi không có gì nữa. Tôi đã xem đoạn băng tua nhanh. Không ai lại gần cửa nhà cô cho tới khi tôi đến lúc 16 giờ 58.

Flora Conway: Đó là điều tôi đã nói với ông!

Trung úy Richard: Câu chuyện này không thuyết phục. Tôi nghĩ cô không nói cho chúng tôi toàn bộ sự thật, cô Conway ạ. Nếu không ai đi vào hay đi ra từ nhà cô, vậy con gái cô vẫn còn ở đó.

Flora Conway: Nếu đúng thế, CÁC VỊ HÃY TÌM RA CON BÉ ĐI!

[Tôi đứng dậy khỏi ghế. Tôi nhìn thẳng vào hình ảnh mà tấm gương phản chiếu trước mắt mình: mặt tái nhợt, tóc vàng búi tó, áo sơ mi trắng, quần jean, áo khoác da. Tôi đứng đó. Và tôi cần tự nhủ mình sẽ tiếp tục trụ vững như thế.]

Trung úy Richard: Ngồi xuống đi, cô Conway! Chúng tôi chưa xong việc. Chúng tôi vẫn còn nhiều câu hỏi cần đặt cho cô.

[Trong đầu, tôi lặp đi lặp lại với mình rằng tôi sẽ đối mặt. Rằng tôi đã từng rơi vào nghịch cảnh. Rằng tôi đã sống sót thoát khỏi nó. Và rằng cơn ác mộng này một ngày nào đó sẽ kết thúc. Và rằng…]

Thám tử Rutelli: Xin cô vui lòng ngồi xuống, cô Conway.

Trung úy Richard: Chết tiệt, cô ta ngất rồi. Đừng có ngây ra thế, ông Rutelli! Gọi cấp cứu đi. Lại thêm chuyện này đổ xuống đầu chúng ta nữa. Chết tiệt!