← Quay lại trang sách

Chương 2 Một mớ dối trá

Khi nói chuyện với các nhà văn, bạn phải luôn ghi nhớ rằng họ không phải người bình thường.

Jonathan COE

1

Sáu tháng trước, ngày 12 tháng Tư năm 2010, con gái ba tuổi của tôi, Carrie Conway, đã bị bắt cóc trong lúc hai mẹ con tôi đang chơi trốn tìm trong căn hộ nhà mình ở Williamsburg.

Sau khi ngất đi trong lúc lấy lời khai ở đồn cảnh sát, tôi tỉnh dậy trong một phòng bệnh ở Trung tâm bệnh viện Brooklyn, nơi tôi ở lại vài giờ dưới sự giám sát của hai nhân viên Cục Điều tra Liên bang FBI. Văn phòng Cục tại thành phố New York đã tiếp quản cuộc điều tra. Một trong hai nhân viên nói với tôi rằng một đội cảnh sát đang “róc xương” căn hộ nhà tôi, và nếu Carrie vẫn ở đó, nhất định họ sẽ tìm ra con bé. Tôi phải chịu đựng cuộc thẩm vấn thứ hai và tôi lại thấy mình bị tấn công bởi ngọn lửa ẩn chứa trong những câu hỏi của họ, cứ như thể vấn đề ở đây chính là tôi. Như thể tôi, chính tôi, có câu trả lời cho bí ẩn này: chuyện gì đã xảy ra với Carrie?

Ngay khi lấy lại đủ sức lực, tôi yêu cầu được ra viện và đến trú nhờ nhà biên tập viên của tôi, Fantine de Vilatte. Tôi ở đó một tuần, trong lúc chờ đợi họ cho tôi quay về Lancaster.

2

Kể từ ngày hôm đó, cuộc điều tra không tiến triển thêm một li nào.

Từng tháng qua đi, mỗi ngày tôi đều như sống trong một màn sương mịn. Chờ đợi trong tuyệt vọng một điều gì đó sẽ diễn ra: tìm thấy một manh mối, bắt được một kẻ tình nghi, một yêu cầu đòi tiền chuộc. Thậm chí chờ đợi một viên cảnh sát đến nhà thông báo đã tìm thấy thi thể con gái tôi. Gì cũng được, còn hơn là chờ đợi vô vọng như thế này. Bất cứ chuyện gì cũng còn hơn sự hư vô này.

Dưới chân tòa nhà Lancaster, vào bất cứ giờ nào bất kể ngày đêm, luôn có một chiếc máy quay, một thợ ảnh, một hay nhiều phóng viên chờ đợi để gí micro vào mặt tôi. Không còn là đám đông ồn ào như những ngày đầu khi có đến hàng chục người đứng chầu chực nữa, nhưng cũng đủ để khiến tôi không muốn ra ngoài.

Thứ mà họ gọi là “vụ Carrie Conway” đã trở thành một tin vặt “khiến cả nước Mỹ say mê theo dõi”, theo công thức gây sốc của các kênh tin tức. Đủ thể loại được họ đưa ra: “bí ẩn mới trong căn phòng màu vàng”, “bi kịch tầm cỡ Hitchcock” “Agatha Christie phiên bản 2.0”, đấy là chưa kể những viện dẫn đến Stephen King vì tên của con gái tôi* hay những giả thiết điên khùng nhất nhan nhản trên Reddit.

Nhà văn Stephen King có một tiểu thuyết tên là Carrie.

Ngày này qua ngày khác, những người chưa bao giờ nghe nói về tôi, chưa bao giờ đọc một cuốn sách của tôi, thậm chí chưa bao giờ đọc bất cứ cuốn sách nào, bắt đầu moi móc những câu văn có ngầm ý trong các tiểu thuyết cũ của tôi và bóp méo chúng bằng cách dựng lên những giả thiết nực cười. Đời tư của tôi và những người tôi từng gặp bị lột trần bởi những con kền kền đang lùng sục những căn cứ buộc tội. Bởi tôi thừa hiểu họ luôn đi đến kết luận này: chắc chắn tôi là hung thủ gây ra vụ mất tích của con gái tôi.

Và cái hiệu ứng truyền thông đó là viên thẩm phán tệ hại nhất. Nó chẳng bận tâm đến bất kỳ bằng chứng nào, bất kỳ suy ngẫm, bất kỳ sắc thái nào. Nó không tìm kiếm sự thật, mà tìm sự trình diễn. Nó đi tắt, theo kiểu giai thoại, tự nuôi dưỡng bằng sự hấp dẫn dễ dãi của hình ảnh, sự lười biếng của báo chí và những độc giả u mê vì lệ thuộc vào những cú nhấp chuột. Vụ mất tích của con gái tôi, cái thảm kịch tàn phá tôi đối với họ chỉ là một trò tiêu khiển, một màn kịch, một đối tượng để nói lời hay ý đẹp và để cười khẩy. Thật lòng mà nói cách xử sự đó cũng không phải đặc trưng riêng của những tờ báo lá cải hay bình dân. Một số hãng truyền thông khác tự xưng là nghiêm túc cũng hăng hái nhập cuộc. Họ cũng thích lăn lộn dưới bùn cùng lũ lợn như người khác, nhưng lại không hoàn toàn thừa nhận chuyện đó. Vậy là, một cách trơ trẽn, họ khoác lên thói rình mò của mình tấm áo “điều tra”. Cái từ thần kỳ biện minh cho sự mê hoặc bệnh hoạn và những trò quấy rối của họ.

Sự vây ráp của họ khiến tôi thành tù nhân, ẩn náu suốt cả ngày trong khối lập phương bằng kính trên lầu sáu. Đã nhiều lần Fantine đề nghị tôi đến ở nhà cô ấy, nhưng tôi luôn tự nhủ rằng nếu Carrie trở về, con bé sẽ quay về đây, về nhà chúng tôi, trong căn hộ của chúng tôi.

Lối thoát duy nhất của tôi là mái thượng của tòa nhà: một sân cầu lông cũ quây bằng phên tre có thể nhìn được toàn cảnh 360 độ đường chân trời của Manhattan và Brooklyn. Thành phố trông vừa xa lại vừa gần với những chi tiết nhỏ nhất: những miệng cống khạc ra hơi nước tỏa khắp mọi hướng, những hình ảnh phản chiếu biến đổi trên cửa kính các tòa nhà, thang thoát hiểm bằng gang bám trên những mặt tiền nhà xây bằng sành đỏ.

Mỗi ngày tôi lên đây vài lượt để hít thở. Thậm chí, thỉnh thoảng tôi còn trèo lên cao hơn, bằng chiếc thang sắt gỉ sét dùng để leo lên bể nước ăn của tòa Lancaster. Từ đây, quang cảnh có thể gây chóng mặt. Cả bầu trời và khoảng không đều muốn giành lấy sự chú tâm của bạn. Và khi nhìn xuống, tôi cảm nhận được cái cám dỗ muốn lao mình nhảy xuống, thứ gợi nhắc cho tôi rằng trong suốt cuộc tồn tại của mình, chưa bao giờ tôi tạo dựng được một mối thân tình gia đình hay bè bạn nào dù là nhỏ nhất.

Carrie là sự gắn bó duy nhất của tôi với thế giới. Nếu người ta không tìm thấy con bé, tôi biết một ngày nào đó tôi sẽ lao xuống khoảng không ấy. Điều đó đã được viết, đâu đó trong cuốn sách của thời gian. Mỗi ngày, tôi đều trèo lên tòa lâu đài nước để xem liệu có phải hôm nay chính là ngày đó không. Trong một thoáng, sợi chỉ hy vọng mong manh ngăn giữ tôi không chuyển sang hành động, nhưng vụ mất tích ngày càng kéo dài và tôi lo sợ mình không thể đối mặt với nó được lâu nữa. Những ý nghĩ cực đoan nhất chen chúc nhau trong tâm trí tôi. Không đêm nào tôi không giật mình tỉnh giấc, người ướt đẫm mồ hôi, hơi thở nghẹn lại, trái tim run rẩy, chệch choạc như sợi dây xích xe đạp. Trong ký ức của tôi, những hình ảnh về Carrie bắt đầu mờ nhạt. Tôi cảm nhận rõ con bé đang rời bỏ tôi. Khuôn mặt con bé nhòe đi, tôi không còn nhớ chính xác những cử chỉ điệu bộ, ánh mắt sắc sảo, ngữ điệu lên xuống trong giọng nói con bé nữa. Do đâu? Rượu? Thuốc chống lo âu? Thuốc chống trầm cảm? Là thứ gì cũng không quan trọng. Cảm giác như tôi đang đánh mất con bé lần thứ hai.

Kỳ lạ thay, người duy nhất lo lắng cho tôi là Mark Rutelli, Viên cảnh sát đã về hưu được ba tháng và kể từ đó, ông ấy tới thăm tôi ít nhất mỗi tuần một lần để báo cho tôi những tin tức mới nhất trong cuộc điều tra lại của ông, hiện vẫn không có tiến triển gì.

Và một người nữa, là biên tập viên của tôi, Fantine.

3

– Tớ nhắc lại, Flora: cậu nhất định phải rời khỏi nơi này.

4 giờ chiều. Ngồi trên chiếc ghế quầy bar trong bếp, tay cầm tách trà, Fantine de Vilatte thuyết phục tôi chuyển nhà không biết đã lần thứ bao nhiêu.

– Chỉ khi sống ở một nơi mới, cậu mới hồi phục trở lại được.

Cô ta mặc chiếc váy cổ tim in hoa, áo khoác da màu đen và đi đôi bốt da gót cao màu vàng nâu. Mái tóc màu nâu đỏ của cô ta, được búi lên cao, giữ bằng chiếc kẹp tóc lớn đính ngọc trai, ánh lên từng sợi trong ánh sáng mùa thu.

Càng ngắm cô ta, tôi càng có cảm tưởng tôi đang thấy chính mình trong gương. Chỉ trong vài năm, thành công mà nhà xuất bản của Fantine có được đã biến đổi cô ta. Cô ta, trước kia rất dè dặt và vô vị nay đã trở nên tự tin và quyến rũ. Bây giờ, trong những cuộc trò chuyện, cô ta nói nhiều hơn nghe và ngày càng ít kiểm chế hơn khi người ta đi ngược ý muốn của mình. Bằng những nét điểm xuyết nho nhỏ, cô ta trở thành phiên bản khác của tôi. Cô ta ăn mặc giống tôi, phỏng theo điệu bộ của tôi, cách tôi nói đùa, những từ ngữ của tôi, cách tôi vén gọn một lọn tóc ra sau tai. Cô ta còn kín đáo xăm một hình dải Mobius ở bên phải cổ, đúng vị trí hình xăm của tôi. Tôi càng héo úa, cô ta càng tươi tắn; tôi càng ủ dột, cô ta càng rạng rỡ.

Tôi gặp Fantine lần đầu tại Paris cách đây bảy năm, trong hoa viên khách sạn Salomon de Rothschild vào dịp phát hành tại Pháp cuốn tiểu thuyết mới của một ngôi sao văn chương Mỹ.

Hồi đó tôi rời New York vài tháng để dạo một vòng quanh châu Âu và vừa đi tôi vừa làm vài công việc nho nhỏ để trang trải chi phí. Tối hôm đó, tôi làm nhân viên phục vụ sâm banh cho khách mời. Khi ấy, Fantine là trợ lý của trợ lý của giám đốc văn học của một nhà xuất bản lớn. Hay nói cách khác thì chẳng là ai cả. Fantine trong suốt, mọi người bước qua nhưng chẳng ai thấy cô. Một cô gái giấy bóng kính cảm thấy có lỗi vì sự tồn tại của bản thân và không biết phải làm gì với cơ thể và ánh mắt mình.

Người duy nhất nhìn thấy cô, là tôi. Bởi tôi là tiểu thuyết gia từ trong tâm hồn. Vì cái tài của tôi, có lẽ là tài năng duy nhất của tôi, tóm lại là thứ tôi biết làm giỏi hơn những thứ khác: phát hiện thấy ở mọi người thứ gì đó mà tự họ không nhận ra. Cô ta nói được hai thứ tiếng, nên chúng tôi trao đổi qua lại chút ít. Đập vào tôi là thứ cảm xúc nước đôi ở cô ta: sự kinh tởm cái giới nơi cô ta đang làm việc và nỗi khao khát được là một phần của nó bất chấp tất cả. Đồng thời tôi nhận thấy cô ta cũng tìm ra điều gì đó ở tôi và thú thật là tôi thấy dễ chịu khi ở cạnh cô ta. Thế là đủ để tôi nói với cô ta rằng mình đang hoàn thành một cuốn tiêu thuyết. Một câu chuyện về nhiều nhân vật với nhan đề Cô gái trong Mê cung, kể về hành trình của nhiều cư dân New York gặp nhau trong một quán bar trên phố Bowery ngày 10 tháng Chín năm 2001.

– Mê Cung, đó là tên quán bar, tôi giải thích.

– Hãy hứa rằng tôi sẽ là người đầu tiên được gửi cho xem tiểu thuyết của cô!

Vài tuần sau, tôi gửi qua thư điện tử cho cô ta bản thảo tôi đã hoàn thành sau khi trở về New York. Trong mười ngày, tôi không nhận được tin tức hay thông báo đã tiếp nhận nào. Rồi một buổi chiều tháng Chín, Fantine gõ cửa căn hộ của tôi. Khi đó tôi sống trong căn hộ một phòng nhỏ ở Hell’s Kitchen. Một tòa nhà đã xuống cấp ở đại lộ 11, nhưng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của sông Hudson và vùng bờ biển New Jersey. Vẻ ngoài của Fantine ngày hôm đó vẫn in đậm trong tâm trí tôi: chiếc áo khoác đi mưa màu xám nâu nhạt, cặp kính gái ngoan và chiếc cặp của nhân viên ngân hàng. Không vòng vo, Fantine nói cô ta mê mệt Cô gái trong Mê cung và rằng cô ta muốn xuất bản nó, nhưng không phải ở nhà xuất bản nơi cô ta đang làm việc: cô ta muốn thành lập nhà xuất bản của riêng mình, một nơi lý tưởng và vừa vặn để xuất bản tiểu thuyết của tôi. Trong lúc tôi tỏ ra hoài nghi, cô ta lôi từ trong cặp ra một tập hồ sơ bìa cứng, bên trong là một giấy yêu cầu vay tiền ngân hàng vừa có hiệu lực. “Tớ có tiền để làm vụ này, Flora. Và chính câu chuyện của cậu đã cho tớ sức mạnh để làm điều đó.” Rồi ánh mắt ngời sáng, cô ta nói tiếp: “Nếu cậu tin tưởng, tớ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì cuốn sách của cậu.” Vì tôi luôn có cảm giác cuốn sách của tôi chính là tôi, nên điều tôi nghe được là: “Tớ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì CẬU.” Đây là lần đầu tiên có người nói như thế với tôi và tôi tin vào sự chân thành của cô ta. Tôi chuyển nhượng tác quyền toàn cầu cuốn tiểu thuyết của tôi cho cô ta.

Fantine giữ lời và dồn toàn bộ sức lực che chở cuốn sách. Chưa đầy một tháng sau, tại hội chợ sách Frankfurt, tác quyền của Cô gái trong Mê cung đã được chuyển nhượng cho hơn hai mươi nước. Tại Mỹ, cuốn sách được nhà xuất bản Knopf phát hành kèm lời giới thiệu của Mario Vargas Llosa đảm bảo rằng cuốn tiểu thuyết “được tạc trên cùng một phiến đá” với kiệt tác của ông, Conversación en la Catedral*. Nhà phê bình thuộc hàng ngôi sao của mục văn chương trên nhật báo The New York Times, nhân vật đáng gờm Michiko Kakutani, nhận định cuốn tiểu thuyết có “lối viết thô ráp và táo bạo” và đã khắc họa “những mảnh đời tạo nên bức chân dung gây xúc động của một thế giới sắp đi đến hồi kết”.

Trò chuyện trong quán La Catedral.

Guồng máy đã chạy. Cả thế giới đều đọc Cô gái trong Mê cung. Không hẳn đọc vì những lý do chính đáng và thường thì hoàn toàn không nắm được ý tưởng của cuốn sách. Cơ chế gắn liến với thành công.

Một ý tưởng tài tình nữa của Fantine là sắp đặt sự xuất hiện hiếm hoi của tôi trên truyền thông. Thay vì cáo lỗi do tôi từ chối xuất hiện trước công chúng, cô ta lại biến điều đó thành một chiêu trò thương mại, chỉ đưa ra một tấm ảnh duy nhất về tôi - bức ảnh đen trắng có vẻ bí ẩn, trên đó trông tôi giống Veronica Lake*. Tôi trả lời phỏng vấn qua thư điện tử với những phóng viên mà tôi không gặp mặt bao giờ, tôi từ chối các buổi ký tặng ở hiệu sách hay các buổi nói chuyện ở trường đại học và thư viện. Vào cái thời mà rất nhiều nhà văn bắt đầu phô bày đời sống riêng tư hay mải miết với những cuộc tranh luận không hồi kết trên các mạng xã hội, sự khổ hạnh về mặt truyền thông khiến tôi thành kẻ khác người. Trên mọi bài báo, tôi được giới thiệu là cô Flora Conway “rất kín đáo” hay “rất bí ẩn”. Và tôi thấy chuyện đó hợp với mình.

(1922-1973), nữ diễn viên người Mỹ, một trong những minh tinh nổi tiếng nhất Hollywood những năm 1940.

Tôi viết cuốn tiểu thuyết thứ hai, rồi cuốn thứ ba là cuốn mang về cho tôi một giải thưởng văn học. Nhờ thành công này, nhà xuất bản Fantine de Vilatte, đặt tại Paris, giành được uy tín quốc tế. Fantine xuất bản cả các tác giả khác. Một số người cố gắng viết giống Flora Conway và một số khác nhất quyết không viết giống Flora Conway, nhưng cả thế giới rốt cuộc đều đặt mình so với tôi. Và tôi cũng thấy ổn với chuyện đó. Tại Paris, cả giới văn nghệ sĩ ở Saint-Germain-des-Prés* đều yêu quý “Fantine”. Fantine xuất bản thứ “văn học khó tính”, Fantine bảo vệ các hiệu sách nhỏ, Fantine bảo vệ các tác giả của mình. Fantine, Fantine, Fantine…

Saint-Germain-des-Prés là khu phố cổ ở quận VI, Paris. Đây từ lâu đã được coi là trung tâm của văn chương, nghệ thuật ờ Paris, là nơi lui tới thường xuyên của các văn nghệ sĩ.

Có một hiểu lầm lớn giữa chúng tôi: Fantine nghĩ cô ta đã thực sự “phát hiện” ra tôi. Thậm chí cô ta còn nói “những cuốn sách của chúng tôi” khi đề cập đến những tiểu thuyết của tôi. Tôi hình dung lúc này hay lúc khác rồi chúng tôi cũng sẽ đều xuất hiện như thế trước các nhà xuất bản. Nhưng thật lòng mà nói, ai đã trả tiền cho căn hộ của cô ta ở Saint-Germain-des-Prés, cho ngôi nhà nông thôn của cô ta ở Cape Cod, tiền thuê căn hộ của cô ta ở Soho?

Khi tôi mang thai Carrie, lần đầu tiên tôi thấy cuộc sống thú vị hơn việc viết văn. Cảm giác đó còn kéo dài cả sau khi Carrie chào đời. Kể từ đó, “cuộc sống thực” níu giữ tôi nhiều hơn, vì tôi có một vai tích cực hơn cần phải diễn. Tôi thấy mình bớt đi nhu cầu tách biệt khỏi thực tại.

Khi mừng lễ sinh nhật đầu tiên của Carrie, Fantine kể với tôi nỗi lo của cô ta về tiến độ cuốn sách tiếp theo của tôi. Tôi nói với cô ta không phải là sẽ không bao giờ có những cuốn tiêu thuyết khác nữa, nhưng tôi sẽ tạm dừng một thời gian rất dài.

– Cậu đừng có lãng phí tài năng chỉ vì một con bé con! cô ta nổi cáu.

Tôi đáp lại rằng tôi đã quyết định như vậy. Rằng những ưu tiên trong đời tôi đã thay đổi và rằng tôi muốn dồn sức chăm lo cho con gái tôi thay vì những cuốn sách.

Và điều này, Fantine không ủng hộ.

4

– Để thoát khỏi cái hố đen này, cậu phải viết trở lại.

Fantine đặt tách trà lên bàn và khẽ nhún vai trước khi giải thích những gì mình nói.

– Trong đầu cậu vẫn còn ba hay bốn cuốn sách lớn nữa. Và việc của tớ là giúp cậu lôi chúng ra.

Hoàn toàn vô cảm trước đau khổ của tôi, từ lâu cô ta đã gạt sang bên vụ mất tích của Carrie và thậm chí còn không thèm giả vờ quan tâm.

– Sao cậu có thể muốn tớ viết sách được nhỉ? Tớ chỉ là một vết thương đang há miệng. Mỗi sáng thức dậy tớ đều muốn được chết đi.

Tôi bỏ sang phòng khách, nhưng cô ta đi theo.

– Nói chính xác thì, cậu nên viết về điều đó. Có rất nhiều nghệ sĩ đã đánh mất con của mình, nhưng điều đó không ngăn được họ sáng tác.

Fantine không hiểu. Mất đi một đứa con không phải loại đau khổ mà bạn có thể coi là thử thách sẽ khiến mình mạnh mẽ hơn khi vượt qua được. Nó là thứ đau khổ sẽ bẻ gãy bạn. Và nó sẽ quật ngã bạn trên chiến trường mà không hề có hy vọng vết thương bạn mang một ngày nào đó sẽ lành. Nhưng tôi biết cô ta không muốn nghe điều đó và tôi thích chọn cách nói ngắn gọn.

– Cậu không có con, vậy nên cậu không có quyền nói.

– Tớ muốn nói với cậu điều này: tớ thích lời nói của cậu, chứ không phải của tớ. Trong nhiều thể loại rất khác nhau, có những kiệt tác được viết dưới ảnh hưởng của nỗi đau.

Ở vị trí ngược sáng, hình bóng cô ta nổi bật trên bức vách kính trong khi cô ta thao thao liệt kê:

– Hugo viết Ngày mai, sau hoàng hôn không lâu sau cái chết của con gái, Duras viết Nỗi đau với những cuốn sổ tay bà đã viết kín trong chiến tranh, Styron viết Trước mặt bóng tối khi đang dần thoát khỏi một cơn trầm cảm kéo dài năm năm, còn…

– Cậu thôi đi!

– Viết là cách giải thoát cuối cùng của cậu, cô ta lý luận. Không có những cuốn sách, cậu sẽ mãi rót rượu cho những tên say xỉn, ở Mê cung hay ở đâu đó. Cậu sẽ vẫn là người phụ nữ như hồi cậu đến tìm tớ: một cô gái nghèo khổ, một cô gái lôi thôi…

– Đừng có xuyên tạc, chính cậu mới là người tìm đến tớ!

Tôi biết thủ đoạn của cô ta: tung ra nhiều đòn để khiến một thứ gì đó trong lòng tôi dao động. Cách đó có thể từng hiệu nghiệm, nhưng giờ thì không.

– Flora, nghe tớ này. Cậu đang ở vị thế mà cậu luôn mơ ước có được. Cậu nhớ không, lúc cậu mười bốn tuổi, ở thư viện thành phố Cardiff, cậu đã đọc sách của George Eliot hay Katherine Mansheld. Hồi ấy cậu mơ ước được là người mà giờ cậu đã trở thành: nữ tiểu thuyết gia bí ẩn Flora Conway với những độc giả từ khắp thế giới chờ đợi cuốn sách tiếp theo.

Kiệt sức vì bài diễn văn của cô ta, tôi thả mình xuống trường kỷ. Đứng trước tủ sách của tôi, Fantine lục lọi khắp các ngăn giá. Cuối cùng cô ta cũng tìm thấy thứ muốn tìm: một tờ The New Yorker cũ có đăng một trong số các bài phỏng vấn tôi.

– Chính cậu đã nhắc đi nhắc lại suốt bài phỏng vấn: “Sự hư cấu cho phép giữ khoảng cách với những khổ đau. Nếu không tạo ra được thế giới của riêng mình, chắc chắn tôi sẽ chết trong thế giới của những người khác.”

– Câu này hẳn là tớ mượn trong Nhật ký của Anaäs Nin.

– Không quan trọng. Dù muốn hay không, rốt cuộc cậu vẫn sẽ viết trở lại. Vì cậu không thể không làm thế. Cậu sẽ sớm thực hiện trở lại nghi thức nho nhỏ của mình: đóng mọi tấm rèm, hạ nhiệt độ điều hòa đến khi căn phòng lạnh như trong tủ lạnh. Cậu sẽ bật những đĩa nhạc jazz ướt át, sẽ lại bắt đầu rít thuốc như ống bễ rồi…

– Không.

– Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy, Flora. Chính những cuốn sách quyết định cậu phải viết chúng, chứ không phải ngược lại.

Đôi khi, tôi có cảm tưởng Fantine không thực sự tồn tại. Đó chỉ là một giọng nói trong đầu tôi. Khi là dế Jimmy lúc là ông Hyde* một dòng xoáy những suy nghĩ kích động hoặc trái ngược. Vì tôi không phản ứng, cô ta ra đòn tấn công tiếp:

Dế Jimmy (hay Dế-biết-nói) là nhân vật trong Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio của tác giả Carlo Collodi, được coi như lương tâm của Pinocchio. ông Hyde là nhân cách thứ hai, một nhân cách rất tồi tệ, của bác sĩ Jekyll trong tác phẩm Bác sĩ Jekyll và ông Hyde của tác giả Robert Louis Stevenson.

– Nỗi đau là nhiên liệu tốt nhất cho nhà văn. Biết đâu một ngày nào đó, thậm chí cậu sẽ tự nhủ việc Carrie mất tích lại là một may mắn.

Tôi không ngẩng lên. Tôi đang chết, thậm chí càng lúc tôi càng khó cảm thấy giận dữ. Tất cả những gì tôi có thể nói, đó là:

– Tớ muốn cậu đi đi.

– Tớ sẽ đi, nhưng trước hết tớ có một bất ngờ cho cậu.

Cô ta lôi từ trong chiếc túi xách Phantom bằng da sần ra một chiếc hộp.

– Cậu có thể giữ nó. Tớ không thích những bất ngờ của cậu.

Lờ di lời tôi nói, cô ta đặt món quà lên bàn phòng khách.

– Cái gì thế?

– Phần đầu của giải pháp, cô ta trả lời trước khi rời khỏi phòng khách và đóng sập cửa nhà tôi.