← Quay lại trang sách

Chương 22 SỨC MẠNH CỦA TINH-THẦN

ĐẢNG Quốc-Hội thắng thế trong những cuộc bầu cử năm 1936 và 1937, và số đảng viên trong toàn quốc từ 3.102.430 lên đến 4.478.720 đầu năm 1939. Trong khi ấy thì Cam-Địa đã cảm thấy chiến tranh sắp tới. Ông cho rằng cuộc chiến tranh lần này sẽ tàn khốc gấp bội cuộc chiến tranh trước. Nhưng, mặc dầu chính sách không dùng bạo lực ngăn cản ông không được tham gia vào cuộc đâm chém, cũng như lần trước. Ông sẽ phải đầu lòng mà đứng vào hàng ngũ người Anh, vì bổn-phận không cho phép ông được bỏ những người ông chung sống trên lãnh thổ của Đế-quốc Anh.

Ngày mồng 1 tháng 9 năm ấy, quân đội Quốc-xã tiến vào Ba-Lan. Tức thì Anh Quốc khai chiến với Hitler ; và nước Ấn lại một phen nữa bị lôi cuốn vào vòng chiến, mà không được hỏi qua ý kiến một lời. Các lãnh tụ quốc-gia Ấn rất làm phật ý. Tuy nhiên, ngay sau hôm tuyên chiến thì Cam-Địa được Phó vương Anh, đánh điện mời đến hội kiến ở Simla. Trong cuộc hội kiến, Cam-Địa công nhận là ông không có cảm tình gì với thuyết quốc-xã của Hitler, mà theo ông chỉ là tượng trưng của sức mạnh bạo tàn sai khiến bởi một khối óc khoa-học tinh-vi ma quái. Và ông long trọng hứa với Phó vương An rằng ông sẽ không gây ra sự gì phiền nhiễu cho Chính phủ Anh ở Ấn nữa. Tuy nhiên ông không thể cam đoan sẽ xông vào vòng chiến. một khi lãnh thổ Ấn bị quân thù đe dọa.

Những Đảng Quốc Hội thì lại sẵn sàng giúp người Anh trong sự cố gắng chiến tranh, nếu những yêu sách họ đưa ra sẽ được Anh chấp nhận. Ngày 14 tháng 9 năm 1939, ban Chấp ủy của Đảng công bố một bản tuyên ngôn kết án dã tâm gây chiến của các nước độc tài, song cũng chê trách các nước dân chủ Tây phương đã bỏ mặc cho bạo lực hoành hành trong những vụ tương tự ở Mãn-Châu, ở Y-Pha-Nho và ở Tiệp. Và dân tộc Ấn còn muốn rằng các nước dân chủ Tây phương hãy tự mình ruồng bỏ, chính sách đế quốc của mình trước đi đã, rồi hãy nói đến cuộc tranh giải-phóng, kẻo các dân tộc hãy còn bị trị phải tự hỏi rằng quả thực đó là một cuộc chiến tranh giải phóng hay chỉ là một cuộc tranh-dành? Dân tộc Ấn đợi các cường quốc Tây phương định rõ thái độ về điểm đó đã rồi mới đứng vào hàng ngũ tự do.

Cam-Địa không tán thành chính sách « có đi có lại » của Đảng Nhưng vừa vặn Phó vương Anh trả lời các lãnh tụ Quốc Hội rằng một nền tự trị quá sớm sẽ có hại cho người Ấn hơn là có lợi, vậy để đến khi chiến tranh chấm dứt sẽ bàn, nên các lãnh tụ nêu trên quyết định bất hợp-tác với người Anh. Thế là Cam-Địa thấy Đảng Quốc-Hội vì sự ngẫu nhiên mà quay trở về chính sách của ông vậy.

Giông tố càng ngày dữ dội ở phía trời Tây: Hitler lần lượt xâm lấn Na-Uy, nuốt Đan-Mạch, Hòa-Lan, Bỉ, cùng đánh quỵ nước Pháp, tất cả, trong vòng không đầy một tháng. Tình trạng nước Anh không có gì là khả quan. « Tại sao lúc này ta không mở phong trào tẩy chay người Anh? » Đó là quan điểm của một số lãnh tụ chính trị mỗi lúc lại đông. Cam-Địa trả lời, khuyên dân Ấn hãy bình tĩnh đợi chờ vì giờ độc lập đã điểm tới nơi. Sắp đến lúc mà người Anh cầu đến sự giúp đỡ của dân tộc Ấn rồi. Bởi thế ông gắng sức hô hào dân chúng. nhất là khi tin nước Pháp thua đã là làm cho mọi người xôn xao náo động, xô đẩy đè bẹp nhau trước các nhà băng để rút tiền về.

Trước sự biến chuyển của tình thế, ban chấp-hành Đảng Quốc-Hội lại họp ở Quarda ngày 21 tháng 6 năm 1940, và tuyên bố rằng dân tộc Ấn sẽ đứng vào hàng ngũ các các nước dân chủ trong cuộc chiến tranh hiện tại, nếu người Anh chịu trả lại nền Độc-lập cho Ấn, và trao lại quyền hành cho một chính phủ trung ương bổn xứ.

Nhưng bấy giờ, W. Churchill đang làm Thủ Tướng Anh, ông nhất quyết không chịu trả độc lập cho người Ấn. Tại sao? Vì « không đời nào ông lại chịu chính tay mình làm tan rã Đế Quốc Anh ». Một mặt khác theo nguyên tắc dân tộc tự quyết, nước Anh không thể để cho Đảng Quốc-Hội của người Ấn cai trị các khối dân số người Hồi ở Ấn, nếu không có sự thỏa thuận của những khối này.

Đảng Quốc-Hội liền tố cáo người Anh cố tình lợi dụng sự bất hòa giữa hai tôn giáo để làm lợi-khí ngăn cản bước tiến của dân tộc Ấn trên đường độc-lập.

Trong khi ấy thì chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.

Ngày 7 tháng chạp, Nhật-bản đánh úp Trân-Châu-Cảng. Hôm sau, quân đội Thiên hoàng chiếm đóng Thượng-Hải. Rồi từ các căn cứ dọc biên thùy Thái-Lan, người Nhật một mặt xuống đánh Mã Lai của Anh, một mặt tiến vào Miến-Điện. Ngoài biển thì hạm đội Nhật đã phá vỡ một lúc hai chiếc hạm tối tân của Anh là chiếc Repulse và chiếc Prince of Wales, làm cho lực lượng thủy quân của Anh tại Á-Đông suy sụp không sao ngóc đầu dậy được nữa.

Tháng chạp 1941, Nhật chiếm Hương Cảng. Tháng hai năm sau. Tân-Gia-Ba đầu hàng. Tháng ba, chiếm đóng toàn thể Nam-Dương Quần Đảo. Rangoon, kinh đô Miến Diện bị hạ ngày 6 tháng 3. Trên đất Bắc Phi thì tướng quốc xã Rommel đuổi các chiến xa thập ngoặc đến tận cửa ngõ Ai Cập. Nhiều quan sát viên quân sự đã nói đến một cuộc gặp gỡ của quân Đức và quân Nhật trên đất Ấn. Chưa bao giờ số phận chiến tranh tỏ ra bi thảm với Đồng Minh như đầu xuân năm ấy.

Dư luận Mỹ rất phàn nàn về thái độ dửng-dưng của dân tộc Ấn trước sự sụp đổ chỉ còn tính ngày giờ của Anh. Song đã có thời kỳ sống dưới ách thực dân của Anh, họ hiểu rõ người Ấn muốn gì, mặc dầu Anh cố tình bưng bít. Bởi thế Tổng Thống Roosevelt liền phái Đại Tá Louis Johnson tới Ấn để liệu chiều thu xếp một sự thỏa thuận giữa Phó vương Anh và các lãnh tụ Ấn. Ông lại khuyên Churchuill hãy nhượng bộ cho dân tộc Ấn một vài khoản căn bản để an lòng dân. Tưởng-Giới-Thạch đồng minh với Anh Mỹ, cũng bênh vực những nguyện-vọng chính đáng của người Ấn.

Bị ép bốn bề, mãi Churchill mới chịu phái Sir Stafford Cripps sang Ấn. Tới nơi ngày 22-3-1942, đến ngày 25 thì ông bắt đầu cuộc thăm dò ý kiến các lãnh tụ Ấn. Sir Stafford Cripps gặp Cam Địa. Ngày 27, ông đưa cho Cam Địa xem những nhượng khoản của Chính-phủ Anh đối với dân Ấn. Xem xong, Thánh hỏi Sir Stafford Cripps:

« Chỉ có vậy thôi ư? Nếu quả thật đó là tất cả những điều khoản ông định cho người Ấn thì tôi khuyên ông nên đáp ngay chuyến máy bay tối về Anh, kẻo ông ở thêm cũng vô hiệu mà thôi ».

Rồi ông cáo biệt trở về khu dệt cửi của ông.

Ngày 9 tháng 4 đến lượt Đảng Quốc hội bác bỏ chương trình Cripps. Rồi tiếp đến các Đảng khác, không một ai chịu chấp thuận chương trình này hết.

Ngày 12 tháng 4. Sir Stafford Cripps trở về Anh.

Tại sao chương tình Cripps không được dân Ấn chấp nhận? Vì chương trình đó công nhận nguyên-tắc giao-phó cho một hội nghị lập hiến toàn đại biểu người Ấn thảo một hiến pháp cho nước Ấn trong tương lai. Song lại buộc phải dành 1 phần 3 thành phần hội nghị cho đại biểu các tiểu bang. Lẽ dĩ nhiên, các đại biểu đó sẽ do các tiểu vương chọn lọc theo ý muốn của người Anh. Một mặt khác, tỉnh nào cũng chấp thuận bản hiến pháp thảo ra, cũng được quyền tự do gia nhập hay không Liên-Bang Ấn. Kết quả chương trình đó có thể là sự phân chia nước Ấn ra làm nhiều nước Ấn khác nhau: một nước Ấn của người Ấn, một nước Ấn của người Hồi, một nước Ấn của người Sikh, lại một nước Ấn riêng của các tiểu vương tức là của người Anh, v.v…

Bởi những lẽ đó, dân Ấn không thể chấp nhận được đề nghị của chính phủ Anh mặc dầu Sir Stafford Cripps cố gắng để đi tới một sự thỏa thuận.

Sir Stafford Cripps là một chính sách thuộc đảng Lao-động Anh. Ông tỏ ra một trí óc rộng rãi. Ông bèn tự ý sửa đổi vài khoản trong bản đề-án trên, cốt để cho người Ấn chấp nhận hơn. Song mới điện về hỏi ý kiến Churchill, thì ông đã được lệnh tức tốc trở về Anh, ngày 12 tháng 4, như ta đã biết.

Giữa năm 1942, tình trạng nước Ấn gần như tuyệt vọng. Quân đội Thiên-Hoàng đã tiến đến biên thùy phía đông Ấn-Độ. Người Ấn nghiến răng vì thấy họa xâm lăng đã đến cửa ngõ nước nhà, mà vẫn phải bó tay phó mặc quân thù sắp giày xéo lên mảnh đất của ông cha để lại.

Càng xét về sau mới càng thấy rằng giá trong vòng những năm 1941, 1943, 1944, người Anh đừng dùng-dằng tiếc rẻ mà trả lại độc lập cho người Ấn ngay, thì làm gì có những vụ tương tàn thê thảm năm 1947 sau đây. Bởi vì ngày nào mà quân đội đồng minh còn đóng trên đất Ấn, thì thực quyền vẫn được giữ vững trong tay người Anh.

Như thế, không những không xẩy ra biến động mà cũng không khỏi lo chuyện người Ấn cầu hòa riêng với Nhật.

Vì các lãnh tụ Quốc Hội như Nehru, Azad, và Rayagolatchari đều một mặt mong chờ cái phút được có một chính phủ quốc gia, để còn sốt sắng tham-gia vào chiến sự bên cạnh Đồng-Minh. Họ đều là những người cương quyết chống-lại phong-trào phát-xít.

Ngoài ra chương-trình của người Anh lại còn có kết quả tai hại là trong dân chúng Ấn, đã thấy nẩy nở ra một khuynh hướng ác cảm rõ rệt với người Anh, và thiện cảm với những võ công oanh-liệt của người Nhật. Bởi các lãnh tụ Ấn lo sợ rằng nếu dân chúng không được toại nguyện trong sự mong đợi ở người Anh, rồi đây họ sẽ quay sang phía địch thủ của người Anh. Trong bản quyết nghị của Ủy ban chấp hành của Đảng họp tại Quarda, các lãnh tụ yêu cầu người Anh hãy xét lại thái độ của mình, nếu không thì Đảng Quốc Hội sẽ bất đắc dĩ phải phát động trong dân một phong trào bất hợp tác đặt dưới sự hướng dẫn của Thánh Cam-Địa.

Trong phiên đại hội đồng nhóm ngày 7 và 8-8, Đảng chấp thuận bản nghị quyết Quardar của ban chấp hành song thay đổi lại là nếu người Anh không đếm xỉa đến nguyện vọng của dân tộc Ấn thì Đảng sẽ dùng mọi phương sách để phản kháng « dù là phải sử dụng đến võ khí », hay là chỉ phát động một phong trào bất hợp-tác trong dân chúng.

Kết quả của quyết-định nẩy lửa đó là ngay đêm hôm ấy, Nehru, Cam Địa, cùng một số lãnh tụ khác bị bắt giam. Song riêng đối với Thánh thì người Anh xử rất dè dặt. Họ không giam ông vào ngục chỉ đưa ông đến an-trí tại một tòa biệt thự nguy-nga của Aga khan, gần Poona. Họ lại có nhã ý cho phép bà vợ ông và các đồ đệ như bà Naidou, Mahadev Desai và Pyarelal Nagyar được giam cùng một nơi với ông. Ba bác sĩ Souchila Nagyar cũng xin theo và nơi an-trí để trông nom sức khỏe cho Cam Địa.

Đáp lại cuộc đàn-áp của người Anh, dân chúng nổi loạn tức thì và nhiều công sở bị đốt cháy, cột giây thép bị nhổ, đường xe lửa bị bóc, viên chức Anh bị hành hung. Các lãnh tụ Đảng Quốc hội Ấn rút lui vào bóng tối để tổ chức ngấm ngầm cuộc kháng chiến. Tại nhiều khu thị trấn, làng xã, dân chúng đuổi người Anh đi mà lập nên những cơ quan hành chính mới để tự trị.

Cam Địa cũng tố cáo Chính phủ của Phó vương đã xuyên-tạc những việc xẩy ra. Chính phủ bắt giam ông về tội không chịu ngỏ lời mạt sát những vụ bạo động của dân chúng. Song ở trong tù, và chỉ được nghe một tiếng chuông – tiếng chuông của nhà cầm quyền thôi – thì ông dựa vào đâu mà mạt sát những việc chính mắt ông không trông thấy? Bởi thế ông nhất quyết nhịn ăn để phản đối thái độ độc tài của chính phủ. Và ông ta nhắc lại, yêu cầu Cam Địa hay tuyên bố phản đối phong trào phản kháng đang lan-tràn khắp nước bấy giờ.

Cuộc tuyệt thực của Cam Địa bắt đầu ngày 10 tháng 2 năm 1942. Ảnh hưởng đầu tiên là mấy lãnh tụ Đảng Quốc-Hội đối lập với Nehru – nghĩa là chủ-trương hợp-tác với người Anh – cũng xin từ chức, ra khỏi Hợp-đồng Hành-chính của Phó vương, để phản đối những lợi buộc tội của Chính-phủ đã khiến Cam Địa phải tuyệt thực mà minh oan.

11 ngày sau, thì Cam Địa đã yếu lắm rồi. Các thầy thuốc Anh định tiêm chất bổ vào máu Thánh, xong các thầy thuốc Ấn không chịu. Họ trung thành với ý muốn của Thánh không chịu để chích thuốc vào Người.

Ngày 9 thứ 14 thì mạch ông trầm hẳn lại và chỉ còn nhỏ như sợi chỉ. Bà vợ quỳ bên giường ông mà khóc. Bà tưởng ông sắp về trời.

Đến ngày mồng 2 thì ông uống một tách nước cam đỏ bà vợ dâng lên. Ông khóc mà cảm tạ các thầy thuốc đã phải khó nhọc săn sóc ông mấy tuần đằng đẵng. Khi ông bắt đầu ăn, thì sức ông hồi lại dần dần. 1

Nhưng chưa được bao lâu thì ông chịu liên tiếp hai cái tang đau đớn: thoạt tiên là người cộng sự thân tín nhất của ông là Mahadev Desai từ trần sau một cơn đau tim ; xong rồi đến bà vợ ông, mất ngày 22 tháng chạp.

6 tuần sau khi bà Kastourbai mất thì ông ốm nặng. Ông bị sốt rét. Đến khi khỏi thì sức vóc tàn yếu đến nỗi Chính-phủ Anh phải trả lại tự-do cho ông để khỏi mang trách nhiệm về sự bất trắc xẩy ra trong khi ông bị giam cầm.

Lần này là lần chót ông bị giam trong các nơi tù ngục của người Anh. Tính cả thẩy ông đã qua 2.089 ngày trong các nhà giam ở Ấn và 249 ngày trong các nhà giam ở Nam-Phi.

Được tha, ông tới tĩnh dưỡng ở Youhon, gần bờ biển, trong biệt thự của một phú thương giữa đám đồ đệ ông.

Hàng ngày, ngồi trên hàng hiên mắt nhìn sóng đùa trên bãi, và tai nghe tiếng gió hát ở ngàn thông, ông bắt chước người xưa lấy sự im lặng hoàn toàn làm phương thuốc di-dưỡng tinh thần cùng thể xác. Các viên thầy thuốc trông nom sức khỏe cho ông, cùng các môn đồ quấn quít ông. đều im lặng theo. Thoạt đầu, suốt ngày ông không cất tiếng. Vài tuần sau, chỉ nói chuyện từ 4 giờ chiều cho đến 8 giờ tối, là giờ mọi người hội họp để cầu kinh.

Nhưng chỉ trong vòng ít ngày sau, là ông lại vùi đầu vào công việc.