← Quay lại trang sách

Chương 23 HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN

ANH Quốc sắp tới giờ vinh quang chiến thắng. Song, tới năm 1945, thì các nhà chính khách Anh dù thâm tâm không muốn, song cũng không nhận thấy Ấn-Độ đã hầu như thoát ly khỏi bàn tay chính quốc rồi. Lần này dân tộc Ấn sẽ nổi lên quyết liệt. Và nước Anh đã bị rã rời vì năm 5 chiến đấu tự thấy không còn hơi sức đâu mà theo đuổi một cuộc viễn chinh lâu dài và khó nhọc nữa. Những trận thất bại liên tiếp tại các khu chiến đấu xa chính quốc như tại Hy-Lạp, tại Thổ, tại Cận Đông, tại Đông Nam-Á, và tại Bắc-Phi đã chứng tỏ sự toàn thắng không phải là công lệ dĩ nhiên đối với con sư-tử Hồng-mao.

Đó là luồng tư tưởng đang làm bận bịu trí óc vị Phó vương thứ mười chín của Anh tại Ấn, là đại tướng Wavell một chiến sĩ kiêm thi sĩ, lại cũng là một « người » với tâm hồn ngay thẳng, hồn nhiên và rộng rãi của chính đảng từ ấy. Ba năm lui binh liên tiếp trước danh tướng quốc xã Rommel – mà ông không ngớt khen ngợi tài dũng lực rồi về sau lại chứng kiến sự thất bại của viên hổ tướng này trước đoàn quân thứ 8 của tướng Montgomery, tất cả những sự phù sinh của thế tục ấy đã làm ông suy nghĩ nhiều, và chán chường quyền thế, lợi lộc và danh vị nhỏ nhen. Quyền lợi tối cao danh dự của một Đế Quốc mà trên đó mặt trời không bao giờ lặn, không còn ảnh hưởng gì đối với cái triết lý bình thản và cao xa, mà 5 năm cầm quyền khuynh thiên hạ, và danh vọng tột bực Phó vương đã dạy cho ông nhìn thấy cuộc thế đổi thay. Bởi vậy, người Ấn đã may mắn có được ở ông không phải là một chính khách với tâm hồn quay quắt, mà là một bậc anh hùng thẳng thắn công nhận quyền sống của một dân tộc, và không nề hà đem hết khả năng ra giúp đỡ dân tộc đó đạt tới nguyện vọng sâu xa.

Tháng 3 năm 1945, Wavell về Anh để trình bày quan điểm của mình về việc giải phóng người Ấn.

Ông ở lại Luân Đôn gần 2 tháng. Bấy giờ cục diện chiến tranh đã rõ rệt, và không còn lo sợ ở tương lai, người dấn Anh đã sẵn sàng mời Churchill rút lui, để Đảng Lao Động lên thay thế, ngõ hầu họ chóng thoát nạn với những hạn chế của chiến tranh, mà quay trở về cuộc sống đầy đủ bảo đảm xã hội, hồi chưa tác chiến. Cho nên cũng may thêm cho người Ấn, là địa vị Wavel vì thế càng thêm vững chắc.

Ngày 14 tháng 6, thì Phó vương cũng công bố cho dân Ấn biết kế hoạch giải phóng mà ông mới đem từ Luân Đôn về. Ngày hôm ấy, ông trả lại tự do cho Maou Iana Aboul Kalam Azad, chủ tịch đảng Quốc Hội, Yaouaharlal Nehru bị giam từ ngày 9-8-1942, và nhiều lãnh tụ khác nữa. Ông mời cả họ đến Simla – cùng với Cam-Địa nữa – để thảo luận về kế hoạch Wavel.

Theo kế hoạch đó thì Hội Đồng Hành Chính bên cạnh Phó vương chỉ còn 2 người Anh, là Chính Phó Vương và một viên Tổng tư lệnh quân đội Anh. Còn thì toàn thể đều là người Ấn. Vậy tức là người Ấn sẽ giữ các ghế ngoại giao, tài chính, cảnh sát, v.v… Phó vương vẫn giữ quyền trọn người vào các ghế trên đây, song ông phải trọn trong những nhân vật các đảng phái Ấn đề cử lên. Mặc dầu những nhượng khoản rộng rãi đó, chương trình Wavel cũng thất bại, vì thái độ bất hợp tác của Yinnah.

Yinnah muốn rằng các tổng trưởng người Hồi trong Hội Đồng Hành Chính của Phó vương phải do ông định, với danh nghĩa Chủ tịch Liên đoàn Hồi Giáo. Song dầu Liên Đoàn này đã phát triển trong hồi chiến tranh để ngày nay trở nên một lực lượng chính trị khá mạnh, Yinnah cũng không thể vì thế mà đòi đại diện được hết thẩy người Hồi trong nước Ấn. Chẳng hạn còn những nhân vật danh tiếng khác như Azad, bấy giờ là Chủ tịch Đảng Quốc Hội, Khir Hyat Khan, v.v…

Giữa lúc ấy thì chiến tranh chấm dứt ở Âu-Châu, và ngày 26 tháng 7, Đảng Lao Động đánh đổ Đảng Bảo Thủ: Clément Attlee ngồi vào ghế Churchill ở chân Thủ Tướng việc đầu tiên của Chính phủ Lao Động là thực hiện lời hứa giải phóng Ấn-Độ. Wavell được mời về Luân-Đôn để nghiên cứu những phương sách mới.

Trở về Ấn, Wavell gắng sức lập một Hội Đồng Hành-Chính với sự tham dự của tất cả các lực lượng chính trị Ấn ; và ông triệu tập một nghị hội để thảo một Hiến pháp cho nước Ấn tương lai. Một mặt khác, để chuộc lòng tin cẩn của dân, ông thả thêm nhiều đảng viện Đảng Quốc Hội nữa, và xử một cách rất nhân nhượng mấy tướng lĩnh người Ấn đã làm phản theo Nhật ngày xưa.

Những cuộc tuyển cử vào Hội nghị lập hiến không đi đến đâu, vì Đảng Quốc Hội chiếm hết phần nửa các ghế và Liên Đoàn Hồi Giáo phần nửa ghế khác. Thế là hai bên đều mạnh.

Và không sao thỏa hiệp được cùng nhau.

Tình hình càng ngày càng căng thẳng.

Để giải quyết tình thế, Thủ Tướng Attlee phái sang Ấn một phái đoàn Chính phủ gồm Lord P. Lawrence, bộ trưởng Ấn Độ Vụ, Sir Stafford Cripps tổng trưởng thương mại và Albert V.Alexander để nghiên cứu về thể thức giải phóng Ấn Độ.

Phái đoàn tới New Delhi ngày 24 tháng 3 và tiếp xúc ngay với các lãnh tụ Ấn, Cam-Địa cùng dự các cuộc thảo luận. Sau mấy tuần ròng rã không đi tới kết quả nào cụ thể, phái đoàn yêu cầu Đảng Quốc Hội và Liên Đoàn Hội Giáo mỗi bên gửi 4 đại biểu đến Simla để họp bàn. Nehru và Yinnah vẫn không sao đi tới được một thảo hiệp. Cuối cùng Cam-Địa yêu cầu phái đoàn đề nghị một chương trình thỏa hiệp hai bên vậy.

Phái đoàn xem xét tình thế ra sao?

Nhận xét rằng tại miền Tây Bắc xứ Pakistan, thiểu số dân Ấn lên tới 37.90% dân số, tại miền Đông Bắc thiểu số đó lên tới 48.31%. Trong khi đó thì có 20 triệu người Hồi trên đất Ấn. Vậy yêu sách của Liên Đoàn Hồi Giáo đối lập một nước Pakistan độc lập không giải quyết nổi vấn đề dân tộc thiểu số.

Chỉ có cách là lập một xứ Pakistan nhỏ có riêng dân Hồi ; như thế không những Liên Đoàn Hồi Giáo không chịu, mà còn phải cắt đôi tỉnh Pundjab, Bengale và Assam để chia cho 2 nước. Nhưng tỉnh Pundjab, và tỉnh Bengale lại là những nơi dân cư có tính cách duy nhất bởi một nền lịch sử và tín ngưỡng chung. Vậy sự chia rẽ như thế không hợp lẽ phải.

Ngoài ra nếu chia đôi xứ Pundjab thì lại xẻ người Sikh thành 2 mảnh, điều mà họ sẽ không chịu, vì từ xưa họ vẫn sống ở khắp cả tỉnh Pundjab, cả phía Bắc lẫn phía Nam:

« Lại còn nỗi nước Pakistan sẽ gồm 2 mảnh cách nhau bởi một khoảng đất rộng 700 dặm, trong đó có rất nhiều sông ngòi đường lối giao thông. Khoảng đất đó thuộc Ấn tức là số phận thông thường giữa hai phần nước Pakistan hoàn trong tay người Ấn vậy ».

« Cho nên phái đoàn kết luận – không nên chia nước Ấn ra làm 2 nước riêng biệt Ấn Hồi » và đề nghị: « giữ nguyên nước Ấn thống nhất, với những tiểu bang cùng một chính phủ liên bang coi sóc về ngoại giao, quốc phòng và giao thông. Trong mỗi hội đồng lập pháp, hễ những vấn đề quan trọng liên quan đến các quyền lợi thuộc phe nào thì phải có đa số đại biểu phe đó tán thành, mới được đem áp dụng ».

Trong khi chờ đợi, phái đoàn báo tin rằng Lord Wavel sẽ lập một chính-phủ lâm-thời.

Ngày 21 tháng 5, Yinnah công kích đề-nghị của phái-đoàn và đòi phải lập một nước Hồi độc lập. Tuy nhiên, ngày 4 tháng 6, Liên-Đoàn Hồi-Giáo cùng chấp nhận quan-điểm của phái-đoàn.

Bây giờ chỉ còn Đảng Quốc-Hội thỏa-thuận là xong. Nhưng Đảng không tỏ bầy ý kiến gì hết. Ngày 16-6, Phó-vương Wavel tuyên bố rằng cả hai Đảng đều không chịu lập chung một chính-phủ lâm thời vậy ông đứng ra lập vậy, và ông chọn 14 người Ấn để trao phó cho các vụ bổ trưởng trong Hội-Đồng Hành-Chính của Phó-Vương.

Bây giờ Đảng Quốc-Hội phải giải quyết 2 câu hỏi: Có tham-gia vào Chính-Phủ lâm-thời không? Có cử người vào Hội-nghị Lập-Hiến để thảo-luận hiến-pháp cho nước Ấn tương lai không?

Đảng từ chối không tham dự Chính phủ Lâm thời, vì Wavel theo lời yêu cầu của Yinnah không bằng lòng cho Đảng Quốc-Hội đặt một đảng viên người Hồi của mình vào một ghế bộ trưởng người Hồi.

Vậy ngày 12-8-1946, Wavel ủy cho Nehru lập chính phủ. Ông tìm gặp Yinnah và đưa ra một số ghế mới tham dự. Yinnah từ chối. Nehru liền lập một chính phủ gồm 6 đảng viên Quốc Hội trong đó có một người Tiện dân, và 6 nhân viên khác: 1 người Công giáo, 1 người Sikh, 1 người Parsi và 2 người Hồi không có chân trong Liên Đoàn Hồi Giáo.

Vinnah liền phát động phong-trào đả kích. Ngày 2 tháng 9, Nehru thành Thủ-Tướng đầu tiên của Ấn. Trong khi ấy Cam-Địa hàng ngày vẫn ở cùng người tiện dân. Ông viết cho Nehru một bức thư giãi bầy bổn phận của người cầm quyền. Ông nhấn mạnh mãi vào chỗ người Hồi là anh em của chúng ta. Họ đánh ta thì ta chịu, họ sẽ hồi tâm mà yêu ta, chứ đừng nên dùng bạo lực mà trả lời bạo lực.

Nhưng Yinnah lại khiêu khích nữa: ông lấy ngày 9 tháng 9 – ngày tấn phong chính phủ mới – làm ngày quốc táng. Dân Hồi treo cờ đen. Và hôm sau, tại Bombay, rồi lan đến xứ Pundjab, xứ Bengale, xứ Bihar. Liên đoàn Hồi giáo tuyên bố tẩy chay Quốc hội lập hiến.

Sau Wavel dàn xếp mãi Yinnah mới chịu dự vào chính phủ mới, Ông cử vào chính phủ 4 người Hồi trong Liên Đoàn, và 1 người Tiện dân đối lập Cam-Địa. Nhưng không vì thế mà cuộc tranh chấp chấm dứt. Các bộ trưởng Hồi lớn tiếng tố cáo chính phủ Nehru không có tính cách liên hiệp Ấn Hồi. Thế là sự chia rẽ xuất hiện trong cơ quan hành chính tối cao đầu tiên nước Ấn.

Mỗi ngày Cam-Địa lại hô hào sự kết hợp giữa 2 đoàn thể Ấn Hồi. Ông nói:

« Có kẻ thấy người Ấn trả thù được cho những đồng bào bị giết thì lấy làm sung sướng. Tôi xin nói rằng tôi còn sung sướng hơn nếu thấy người Ấn biết để cho người Hồi giết chết mà không tìm cách báo thù ».

Bấy giờ, lại các làng xóm xa xôi miền Noakhal, và miền Tipper xứ Bengale, người Hồi luôn luôn giết hại người Ấn một cách dã man. Cam-Địa liền đích thân đến để giàn xếp. Ông lấy làm buồn rầu vô cùng khi đi qua những nơi làng xóm bỏ hoang và cháy dở, vì dân chúng đã lang bạt đi những nơi đâu không rõ.

Ông đến Noakhali, miền mà dân Hồi thường giết chóc, hiếp đáp đàn bà con gái người Ấn. Ông thấy nhà cửa tan hoang, các đền đài bị phá phách đổ nát hết. Dân cư thưa thớt, nét kinh hoảng còn in trên mặt. Ông kêu lên: « Tôi sẽ ở đây một năm, và nếu cần, đến tận khi ta chết, để dập tắt hết mọi thù oán này ».

Nhưng ông ở chưa ấm chỗ thì tại tỉnh Bihar, nơi có 5 triệu người Hồi sống lẻ loi giữa 31 triệu người Ấn, một phong trào báo thù các cuộc giết hại ở Noakhali bùng lên, Báo chí kích thích dân Ấn hãy đem máu « rửa máu »: Hơn 10 ngàn người Hồi bị giết. Nhà cửa bị cướp phá không biết bao nhiêu mà kể.

Tin đó làm Cam-Địa rất đỗi buồn phiền. Ông lại quyết định nhịn ăn để rửa tội cho đồng bào. Nehru và Patel phải hết sức khuyên can. Họ nói trong lúc nước nhà sắp sửa tan hoang vì nạn anh em giết lẫn nhau, dân tộc cần phải được Thánh bảo trọng mình vàng để khuyên can dìu dắt. Rồi họ lên máy bay tới ngày Bihar.

Những điều trông thấy làm Nehru bội phần uất giận. Ông ra lệnh cho người Ấn phải thôi ngay mọi sự báo động nếu không ông sẽ cho « phi cơ rội bom cho chết hết xong đời ». Lời đó đến tai Cam-Địa. Ông lắc đầu:

« Sao lại dọa ném bom để giết dân. Đó là phương pháp xưa kia người Anh vẫn dùng Huy động binh lính để đàn áp dân chúng, tức là hủy diệt nền tự do của dân Ấn ».

Nehru nhất quyết ở lại Bihar cho đến khi nào tình hình yên hẳn.

Còn Cam-Địa thì sau khi nghỉ ngơi mãi, ông bỏ ý định tuyệt thực ở Bihar, mà lên đường thẳng tới Noakhali. Đó là một nơi hẻo lánh và bực nhất ở các tỉnh miền Tây Bắc. Chỉ có lối đi bằng thuyền chứ thứ xe bò công dụng nhất của người Ấn cũng không thể vào được. Dân cư gồm hơn 2 triệu dân mà 80 phần trăm là người Hồi Giáo. Sự cuồng tín căng thẳng dọc đường chỗ nào cũng thấy làng xóm bị đốt cháy, xác người bị giết ngổn ngang. Tới Naokhali, ông đuổi hết mọi tả hữu sang ở làng bên cạnh. Ông muốn một mình tiếp xúc với những người Hồi hung hãn. Trong cuộc hành trình ở Naokhali, ông mang gót cả thẩy tới 49 làng, mỗi nơi ông ở 2, 3 hôm, nói chuyện thân mật cùng các người Hồi, cầu kinh cùng với họ rồi lại chân đất lên đường đi sang làng khác. Nhiều khi họ rắc gai góc mảnh chai trên đường ông đi, ông cứ mặc, chân đất rẫm lên mà đi. Ông coi sự đau đớn xác thịt không thấm gì khi linh hồn ông đang chín đầy cả một bầu trời yêu thương đối với những kẻ mà ông không trách móc gì, bởi ông biết họ đã bị các lãnh-tụ chính-trị bất lương xô đẩy vào con đường lầm lạc.

Cam-Địa cùng các đồ-đệ gặp những khó khăn ghê gớm trên con đường cảm hóa của người Hồi. Thoạt tiên, họ quý mến ông, đến rất đông nghe ông khuyên dạy và đọc kinh. Song những kẻ cầm đầu họ thấy thế liền công-kích Cam-Địa là xâm phạm đến lòng tín-ngưỡng của dân họ. Song đâu phải? Vì nếu đang buổi họp mà đến giờ cầu nguyện của người Hồi thì ông lại tạm nghỉ mà giục giã họ quay ra phía đền mà cầu nguyện.

Cứ thế mà chân dẫm đất, tay ôm khung cửi, ông đi lang thang hết làng nọ đến xóm kia. Các báo thuật rằng ông làm việc tới 20 giờ mỗi ngày, và như thế hàng 6, 7 ngày liền. Không lúc nào ông được nghỉ, vì hễ hết đoạn đường mệt nhọc, tới một nơi có dân cư nào, thì người ta lại tụ họp đông đảo quanh ông để hỏi han, chất vấn hay là nhờ ông giải hộ những nỗi khó khăn. Đây là vài câu đối thoại ghi chép được ở ở dọc đường.

Có người hỏi: « Theo ý ông, nguyên do những cuộc chém giết giữa người Ấn và người Hồi là bởi đâu? »

Ông đáp: « Bởi sự ngu dốt của đôi bên ».

Lại hỏi: « Một phụ nữ bị hiếp lại phải có thái-độ thế nào? Có bắt buộc phải tự vẫn không? »

Ông đáp: « Chịu đựng để không đi đến mục-đích gì không phải là quan-niệm của tôi. Phải tự vẫn để vẹn toàn danh tiết ».

Lại một nơi khác, có một sinh-viên hỏi ông: « Có phải Thiên-chúa-Giáo và Hồi-giáo là những đạo tiến hóa mà Ấn-Độ giáo là đạo thoái hóa phải không? »

Ông trả lời: « Không. Không có sự tiến hóa rõ rệt trong mỗi đạo giáo khiến ta có thể nhận thấy rõ ràng. Vì nếu các tôn giáo quả có tiến hóa thực, thì cõi thế này đã chẳng phải là nơi mà loài người đã từng chém giết nhau ».

Lại hỏi: « Nếu Thượng Đế chỉ có một, thì sao không thể chỉ là một tôn giáo thờ Người thôi? »

Đáp: « Một cây muôn lá. Cũng như trên thế giới, biết bao nhiêu đạo. Song đạo nào mà chẳng bắt nguồn gốc ở Trời! »

Ngày 2 tháng 3 năm 1947, Cam-Địa rời Noakhali để trở về Bihar. Ông hẹn sẽ còn quay lại. Vì ở đấy, ông còn một sứ mạng chưa làm trọn vẹn, là nối lại tình anh em giữa người Ấn và người Hồi tại đó.