← Quay lại trang sách

Chương VI Trận Marengo Sự Củng Cố Nền Độc Tài Pháp Chế Của Tổng Tài Thứ Nhất

1

Napoléon không có thói quen định trước và định tỉ mỉ các kế hoạch chiến dịch. Ông chỉ chú ý đến những “đối tượng” chủ yếu, những mục đích cụ thể chính, quy trình thời gian (dĩ nhiên là phỏng đoán) và những đường tiến quân. Napoléon chỉ thật sự bận tâm lo nghĩ đến chiến tranh khi chính chiến dịch đương diễn ra; trong chiến dịch, không những ông chú ý đến những mục đích cần phải đạt, còn chú ý đến những tình huống, và đặc biệt là những tin tức, động tĩnh của đối phương mà ông thường xuyên nhận được, từ đó ông luôn thay đổi kế hoạch bố trí của mình, thay đổi từng ngày và có khi từng giờ. Napoléon tự đặt cho mình một quy tắc bất di bất dịch là chừng nào thực tế chưa chứng tỏ cho mình rõ là đối phương ngu ngốc hơn thực tế và nên đặt giả thuyết: Đối phương sẽ hành động có lý lẽ không kém gì bản thân mình trong trường hợp ấy.

Napoléon phải chống với một đạo quân Áo rất mạnh và được trang bị rất đặc biệt đang chiếm đóng miền Bắc nước Ý, nơi mà Suvorov năm trước đã quét sạch quân Pháp. Nhưng Suvorov không còn ở với người Áo nữa, điều đó đã làm Napoléon quan tâm nhiều nhất. Napoléon biết nước Nga đã rút khỏi Khối Liên Minh, mặc dầu ông còn chưa thể biết được rằng cũng vào tháng 5 năm 1800 ấy, trong khi ông cùng quân đội của mình tiến vào nước Ý để triệt tiêu những chiến quả của Suvorov thì Suvorov đã được mai táng trong Tu Viện Alexander Nevsky ở Peterburg. Không phải Suvorov đối đầu với Bonaparte, mà chỉ là tướng Melas, một tay chiến thuật cừ, một sĩ quan tham mưu, một trong số những tướng lĩnh giỏi mà trước cũng như sau năm 1800, Napoléon đã và đang giáng cho nhiều trận thua vô cùng khủng khiếp và bọn họ đã không ngớt chứng minh một cách chua chát rằng Napoléon đã không hành động theo nguyên tắc nào cả. Trung thành với nguyên lý của mình, Napoléon đánh Melas như thể Melas là Napoléon, và Melas đánh Napoléon như thể Napoléon là Melas.

.

Quân Áo tập trung lực lượng về phía Nam chiến trường theo hướng đi Genoa. Melas không phán đoán nổi rằng Bonaparte đã chọn con đường đi khó khăn nhất, qua nước Thuỵ Sĩ và đèo Bernard, do đó, Melas sơ hở không tăng cường lực lượng để giữ sườn phía ấy. Vị Tổng Tài thứ nhất lại chọn đúng con đường ấy. Cái lạnh khủng khiếp của những ngọn núi tuyết phủ, những vực sâu thẳm dưới chân, những trận mưa băng, những cơn bão tuyết, những cuộc trú quân ngoài trời trong tuyết, binh sĩ của Bonaparte đã chịu tất cả những thử thách đó vào năm 1800, cũng như binh sĩ của Suvorov đã từng nếm trải vào năm 1799 và cũng như những chiến binh của Hannibal đã từng nếm trải cách đây 2.000 năm trước Suvorov và Bonaparte. Có khác là không phải những con voi bị chìm sâu trong vực thẳm như thời Hannibal, mà là những khẩu pháo, những bệ pháo, những hòm đạn. Tướng Lannes đi tiên phong và đằng sau là toàn bộ quân đội của Bonaparte kéo thành một đường dài vô tận giữa một bên là vách đá, một bên là bờ vực cheo leo. Cuộc vượt qua núi Apls bắt đầu ngày 16 tháng 5 đến ngày 21, Bonaparte cùng với quân chủ lực đã tới đèo Saint Bernard, trong khi ấy, đằng trước họ, ở sườn núi bên nước Ý đã bắt đầu có những cuộc chiến đấu của đội tiên phong với lực lượng tiền đạo nhỏ yếu bảo vệ sườn núi của quân Áo. Quân Áo bị đánh lui, quân Pháp càng tiến gấp xuống phía Nam và toàn bộ lực lượng của Bonaparte thình lình tràn ra. Hết sư đoàn này đến sư đoàn khác, từ những khe núi miền Nam rặng Apls xuất kích, triển khai sau lưng quân Áo.

Không bỏ phí một giờ, Bonaparte tiến thẳng đến Milan và, ngày 2 tháng 6 năm 1800, đã vào thủ phủ xứ Lombardia; Bonaparte chiếm tiếp Pavia, Cremona, Piacenza, Brescia và nhiều thành phố khác và đến đâu cũng làm quân Áo thất điên bát đảo; họ không hề ngờ rằng hướng tiến công chính lại từ phía ấy. Quân đội của Melas đang còn ở xung quanh Genoa và đáng lẽ vài ngày sau nữa thì chiếm lại được Genoa từ tay quân Pháp. Nhưng sự xuất hiện của Bonaparte ở Lombardia đã làm tiêu tan thắng lợi ấy của quân Áo.

Cũng bất ngờ như vậy, Melas hộc tốc kéo quân đi chạm trán với quân Pháp từ phía Bắc kéo xuống - Làng Marengo nhỏ bé nằm giữa cánh đồng trải rộng Alexandria và Torino.

Ngay từ đầu mùa đông năm 1800, trong cung điện ở Paris, ngón tay chỉ vào cái địa phương ấy trên một tấm bản đồ chi tiết về miền Bắc nước Ý, Bonaparte đã nói với các tướng lĩnh rằng: “Đây, chúng ta phải đánh bại quân Áo ở đây”. Cuộc giao chiến lớn của cả đôi bên đã xảy ra ngày 14 tháng 6 năm 1800, đúng ở chỗ đó.

Nói chung, trận này đã có ảnh hưởng to lớn trên trường chính trị quốc tế, cũng như đối với sự nghiệp lịch sử của Napoléon nói riêng. Một bầu không khí lo âu bao trùm lấy Paris và khắp nước Pháp. Ngày ngày, bọn Bảo Hoàng mong chờ tin báo Bonaparte chết trong vực thẳm núi Apls; người ta cũng biết quân đội Áo rất mạnh và pháo binh của họ còn mạnh hơn pháo binh của quân Pháp. Có tin đồn quân Anh sẽ đổ bộ ở Vendée. Cadoudal và bạn hữu của y, những thủ lĩnh Bảo Hoàng, nhận định sự phục hưng của dòng họ Bourbon nếu chưa phải là sự việc đã thành thì trong một ngày rất gần đây tất cũng sẽ thành. Họ chỉ đợi hiệu báo: Tin Bonaparte chết hoặc quân đội Pháp bại trận. Ở Châu Âu, ngay trong các nước trung lập người ta lo âu theo dõi quá trình của các biến cố. Ở những nơi đó người ta cũng chỉ đợi chờ sự chiến thắng của quân Áo để gia nhập Khối Liên Minh chống lại nước Pháp. Bọn Bourbon chuẩn bị để lên đường về Paris.

Napoléon, các tướng lĩnh, sĩ quan và binh lính của ông đều thấy rất rõ tầm quan trọng của trận đánh và những khả năng dẫn tới bại trận: Lần này quân Áo trội hơn hẳn về số lượng; họ được nghỉ ngơi thoải mái, được yên ổn đóng quân trong các thành phố và các làng mạc Ý, trong khi ấy binh lính của Napoléon phải gian khổ vượt đèo Saint Bernard, Bonaparte có cả thảy 20.000 quân và chỉ điều động bộ phận pháo loại tồi nhất cùng vượt đèo Grand Saint Bernard với ông hồi tháng 5, còn pháo binh chủ lực đã hành quân đến chậm vì bị mắc vây và đánh chiếm một cứ điểm mạnh trong núi che chở cho quân Áo. Trong khi Melas chỉ huy một đạo quân 30.000 người và 100 cỗ pháo có đầy đủ đạn dược thì Bonaparte lại còn phải giao cho tướng Desaix một phần trong số pháo tồi của mình. Thế là Bonaparte chỉ có 15 khẩu pháo để chống với 100 khẩu của quân Áo.

Trận đánh khởi đầu vào buổi sớm ngày 14 tháng 6 năm 1800 ở gần Marengo, và đã phát hiện ngay được lực lượng quân Áo. Quân Pháp vừa đánh vừa lùi và giáng cho quân địch những đòn đích đáng, nhưng bản thân cũng bị thiệt hại nặng. Đến hai giờ chiều, trận đánh xem chừng thất bại, không thể cứu vãn được. Quá ba giờ, Melas ca khúc khải hoàn, cử người về Vienna báo tin quân Áo toàn thắng, thu nhiều chiến lợi phẩm và tù binh, tướng vô địch Bonaparte đã thất bại. Tình trạng hỗn độn đã bao trùm lên tổng hành dinh quân đội Pháp. Bonaparte giữ thái độ bình tĩnh, vừa nhắc nhở cần phải cầm cự, vì trận đánh chưa kết thúc. Và đến ba giờ chiều, tình thế đột nhiên thay đổi một cách bất ngờ, bởi sư đoàn Desaix được phái xuống phía Nam để cắt đường rút lui của quân địch đang từ Genoa cấp tốc hành quân quay trở lại, đã công kích ồ ạt vào quân Áo đúng giờ phút quyết định chiến trường.

Quân Áo hết sức tin tưởng vào sự toàn thắng của họ đến nỗi lúc ấy có nhiều đơn vị quân đội Áo chuẩn bị nghỉ ngơi và ăn chiều. Bị sư đoàn tinh nhuệ của Desaix ập đánh và tiếp đó là tất cả các đơn vị của Bonaparte cũng đánh vào, quân đội Áo hoàn toàn bị đánh bại. Năm giờ chiều, quân Áo bỏ chạy, bị kỵ binh Pháp truy kích. Tướng Desaix hy sinh ngay từ phút đầu của trận đánh, và khi trận ấy - một trong những chiến thắng lớn nhất của đời mình sắp kết thúc, Napoléon nghẹn ngào nói: “... Nhưng Desaix!... Chao ôi, ngày hôm nay ắt là đã đẹp lắm nếu tối nay tôi được ôm hôn Desaix ở trên chiến trường! Tại sao không cho phép tôi được khóc?...”, đó là những lời nói mà trước đây vài tiếng đồng hồ, lúc cuộc chiến đấu đang gay go quyết liệt nhất, Napoléon đã phải thốt ra khi được tin Desaix vừa mới từ trên mình ngựa ngã xuống.

Những bạn chiến đấu của Napoléon chỉ thấy có hai lần mắt ông ta đẫm lệ sau khi giao chiến. Lần thứ hai vào vài năm sau, khi Napoléon nhìn Thống Chế Lannes chết ở trong tay mình, hai chân bị đạn đại bác tiện đứt.

Trong lúc triều đình Vienna đang hoan hỉ đến cực điểm về những tin tức đầu tiên tốt lành của Melas đưa về thì một người thứ hai đến báo tin thất bại thảm hại vừa mới xảy ra. Nước Ý lại bị mất, với quân Áo thì dường như là mất vĩnh viễn. Kẻ thù đáng sợ của họ lại một lần nữa chiến thắng. Những tin tức đầu tiên về một trận đánh lớn ở Ý bay về đến chính phủ Paris vào ngày 20 tháng 6 (ngày đầu Tháng Gặt), sáu ngày sau trận đánh. Nhưng mới chỉ là những tin đồn đại mập mờ. Trong thành phố, người ta lo âu chờ đợi tin tức. Người ta kể chuyện lại rằng: Theo một vài nguồn tin thì trận đánh đã thất bại và Bonaparte đã chết. Bỗng nhiên, vào buổi trưa, một phát đại bác nổ vang, phát thứ hai, rồi thứ ba; một người đưa thư về, mang những tin chính thức như sau: Quân đội Áo bị đánh tan hoàn toàn, bị tước một nửa số pháo và hàng nghìn quân Áo bị bắt làm tù binh hoặc bị chém; nước Ý lại sa vào tay Bonaparte.

Lần này, nỗi vui mừng hoan hỉ không phải chỉ có trong những khu tư sản mà còn cả trong những khu thợ thuyền: Đã từ lâu người ta chưa thấy vùng ngoại ô Saint Antoine có quang cảnh tấp nập như vây. Thợ thuyền đã không thể thấy trước được rằng người chủ mới sắp hoàn thành việc đàn áp họ bằng bàn tay sắt, sắp ban hành “tiểu bạ công nhân” để họ phụ thuộc hoàn toàn vào bọn chủ, rằng chính thể mới vĩnh viễn bóp chết cách mạng và sẽ mở đầu cho thời đại của sự củng cố vững vàng và nền nếp một trật tự xã hội dựa trên sự bóc lột sức lao động một cách hợp pháp và dễ dàng của tư sản.

Ở Paris, ở lân cận các thị trường chứng khoán, các nhà ngân hàng, trong đám cưới người sang trọng ở các khu phố lớn, nỗi vui mừng hoan hỉ lại càng lớn chính là vì cái người chiến thắng, chàng Bonaparte kia, đã bóp chết cách mạng vào ngày 18 và 19 Tháng Sương Mù và vừa đổi mới ổn định được địa vị của mình ở các chiến trường bằng trăm nghìn thủ đoạn, một mặt giơ bàn tay thép đè bẹp “sự vô chính phủ”, phá tan mọi âm mưu chống các nhà hữu sản và quyền tư hữu, mặt khác không quay trở lại chế độ quân chủ quý tộc và phong kiến. Một vài người Jacobin bất mãn thì trùm chăn, bọn Bảo Hoàng thì đau khổ.

Nhưng bọn họ, ai nấy đều bị làn sóng vui mừng lớn đang tràn dâng ở Paris và ở các tỉnh gạt ra một bên. Trong không khí ấy còn lẫn lộn cả sự say sưa kiêu ngạo của tinh thần “ái quốc quân sự” cuồng nhiệt bốc lên như một cơn sốt, kể cả những người đến tận bây giờ vẫn còn tỉnh táo nhất. Khi vị Tổng Tài thứ nhất về Paris thì những mối hân hoan cuồng nhiệt ấy trào lên đến cực điểm. Trong quần chúng đi đón, một biểu hiện, dù là rất nhỏ, tỏ ra lạnh nhạt đối với Bonaparte đều bị coi là bằng chứng thân Bảo Hoàng. Người ta la ó: “Đây là nhà của bọn quý tộc! Sao cái nhà này không trưng đèn lên!” Và tức thì người ta đập phá cửa kính của căn nhà khả nghi đó. Suốt ngày, một khối người đông nghịt vây quanh cung Tuileries, hoan hô mời Bonaparte ra mắt. Nhưng Bonaparte không ló mặt ra ban công.

2

Sau trận Marengo, trước hết Bonaparte phải ký hòa ước với quân Áo. Sau đó, ông ta muốn thương lượng với nước Anh, với Châu Âu Liên Minh nói chung, và cuối cùng là tiếp tục hoàn thành việc xây dựng pháp chế đã bắt đầu từ sau cuộc đảo chính Tháng Sương Mù, nhưng bị gián đoạn vì đi đánh nước Ý.

Nhưng một nỗi lo âu khác làm Bonaparte phải quan tâm tới và buộc ông ta phải chuyển hướng những nhiệm vụ cơ bản của mình trong suốt cả thời kỳ của chế độ Tổng Tài: Cuộc đấu tranh chống những người Jacobin và Bảo Hoàng. Fouché cho rằng trước mắt là bọn Bảo Hoàng đang gây mối uy hiếp nghiêm trọng nhất, nhưng Bonaparte đã không còn tin Fouché nữa, cho rằng vì sợ sự phục hưng của bọn Bảo Hoàng mà Fouché đã không thấy cái tai họa có bạn cũ của y sẽ gây ra và không muốn truy tố họ, cho là họ ít có cơ hội trở lại nắm chính quyền. Nhưng sau trận Marengo, riêng vị Tổng Tài thứ nhất đã thấy rằng những người Jacobin là kẻ thù đáng sợ nhất. Ngay từ những ngày đầu chuyên chính, Napoléon đã phải tính đến những kẻ thù “phái tả” và “phái hữu” của ông, đó là những người Jacobin và bọn Bảo Hoàng, đối với hai loại kẻ thù này, Napoléon đối phó và cư xử không giống nhau.

Thỏa hiệp với bọn Bảo Hoàng, Napoléon tỏ ra sẵn sàng công khai tiến hành đàm phán hòa bình với bọn chúng. Chính quyền Tổng Tài sẵn sàng nhận những kẻ Bảo Hoàng đã được xác nhận là Bảo Hoàng vào làm việc, bằng cách biểu dương chính cái thực tế là họ ưng thuận phục vụ Bonaparte bọn họ đáng được khoan hồng. Hơn nữa, Bonaparte đã tỏ ra là mình sẵn sàng tha thứ và quên hết mọi việc bằng cách ân xá cho một vài tên Bảo Hoàng.

Nhưng đối với những người Jacobin thì sự tình hoàn toàn khác. Sự thật là Bonaparte căm thù và khủng bố họ. Có bao giờ Napoléon là một người cách mạng đâu; tình thân mật nhất thời với người em trai của Robespierre và những người Jacobin chẳng qua chỉ là chủ nghĩa cơ hội. Bản chất chuyên chế, lại độc tài đến tận chân tơ kẽ tóc, sau ngày 18 Tháng Sương Mù, Napoléon đã khao khát thiết lập dưới hình thức này hoặc dưới hình thức khác nền quân chủ mà bọn đại tư sản mong mỏi. Napoléon không thể đánh giá đúng quá khứ của những người Jacobin, cái đã tạo nên công lao to lớn của họ về mặt lịch sử, và công lao đó chính là ở chỗ họ đã cứu được cách mạng trọng giờ phút hiểm nghèo nhất. Hơn nữa, vì câu kết với giai cấp đại tư sản, bênh vực quyền lợi của chúng mà Napoléon đã đồng hoá với cách nhìn của chúng: Chỉ nhìn thấy tính chất đàn áp dữ dội của nền chuyên chính Jacobin mà thôi, đồng thời cố tình lờ đi những nguyên nhân tất yếu của hiện tượng ấy và những kết quả của sự cứu vãn nước Pháp cách mạng. Vào năm 1812, không tìm ra được cách nào hơn nữa để lăng nhục Rostopchin, người mà ông ta cho là đã đốt thành Moscow, Napoléon bèn gọi Rostopchin là “Marat Nga”, vậy là đã so sánh một người đã hiến dâng cả đời mình cho cách mạng với tên chúa đất Moscow, với tên chủ nô; đối với Rostopchin, việc cứu nước Nga đồng nhất với việc duy trì chế độ nô lệ và việc Rostopchin tham gia bảo vệ tổ quốc bằng “Những tờ cáo thị” chỉ có giá trị như một tên hề và một tên pha trò ở hội chợ. Rostopchin vô cớ thọc gậy vào bánh xe của Kutuzov và tố cáo Kutuzov với Nga Hoàng. Về mặt chính trị thì cũng có lợi cho Napoléon, vì như vậy trong tư tưởng của thế hệ trẻ, nền chuyên chính Jacobin đã không gợi ấn tượng gì khác ngoài những sông máu, núi xương và muôn hình muôn vẻ tàn khốc.

Tuy nhiên, khối óc minh mẫn rất mực của Napoléon không thể hoàn toàn phủ nhận mọi thành tích của nền chuyên chính ấy được. Napoléon căm thù những người Jacobin, nhưng có lần, vào năm 1793 - 1794, khi nói về nền chuyên chính Jacobin, Napoléon đã tuyên bố thẳng ra rằng Hội Nghị Quốc Ước đã cứu vãn nước Pháp. Mặt khác, Napoléon vô cùng khinh bỉ Louis XVI, như ông ta đã khinh bỉ những kẻ tâm hồn yếu đuối, “Báo cho bà ấy biết rằng tôi không phải là Louis XVI”, Napoléon đã nói như vậy khi được biết bà Stael đã nói quá nhiều ở trong phòng khách của bà ta. Và khi biết đích xác rằng những kẻ thù bất khuất nhất và không đội trời chung nhất là ở trong số những người Jacobin còn lại thì dù còn chưa tìm thấy họ, Napoléon vẫn hành hạ tàn nhẫn những người Jacobin.

Việc hành hạ những người Jacobin bắt đầu từ sau ngày 18 Tháng Sương Mù và trong thực tế, đến tận mãi cuối thời kỳ đế chế vẫn chưa chấm dứt, không kể một đôi lúc tạm ngừng. Những vụ bắt bớ người Jacobin hoặc những người coi như có quan hệ mật thiết với họ diễn ra ở thủ đô và hơn nữa còn ở cả các tỉnh. Giai cấp quý tộc địa phương không bị xâm phạm, bọn lưu vong thì được ân xá trở về, giai cấp tư sản sống đàng hoàng thoải mái, và ở nông thôn, tầng lớp nông dân hữu sản mới, tất cả đều nhẵn mặt những người lãnh đạo cũ của cái tổ chức Jacobin địa phương, những viên chức cũ của thời Robespierre; bây giờ họ thanh toán mối thù cũ của họ với đối phương một cách thậm tệ, khốc liệt gấp trăm lần. Nhờ hành động khiêu khích điên cuồng của bọn cảnh binh chính trị, người ta đã đưa vội ra được cái gọi là “âm mưu” ngày 10 tháng 10 năm 1800, nghĩa là người ta bắt được ở Nhà Hát Lớn bốn người đàn ông mang dao găm, tìm cách lọt vào buồng xem hát riêng của vị Tổng Tài thứ nhất. Đem giết cả bốn người ấy vẫn chưa vừa lòng nên người ta còn tiến hành bắt bớ trong khắp nước Pháp hàng loạt những “người Jacobin”. Phần lớn những người này không bao giờ được trở về tổ quốc nữa, hoặc có thì chỉ khi nào đã bị tàn phế sau nhiều năm cấm cố tù đày. Một số chết ở trong nhà giam (lúc bấy giờ nạn “tự tử” của các tù nhân chính trị rất phổ biến), một số khác chết ở Cayenne, một thuộc địa của nước Pháp chuyên dùng để đày ải. Sau vụ “âm mưu” ấy một tháng, (ngày 18 tháng 11 năm 1800), cảnh binh của Fouché bắt được một người Jacbin chính cống là Sovalie đang chế tạo một quả bom. Một làn sóng bắt bớ và tù đày mới lại tràn ngập khắp nước. Người ta bắt bớ lung tung, bắt cả những người “đáng ngại” tuy họ chẳng biết tí gì về cái ông Sovalie ấy cũng như âm mưu của ông ta. Hơn nữa, vào tháng 12 năm ấy, lại xảy ra vụ âm mưu ghê gớm nhằm hạ sát vị Tổng Tài thứ nhất; thực tế, những người Jacobin chẳng hề dính líu gì vào mụ này, nhưng Napoléon đã vin vào cớ đó để dùng những biện pháp mới khốc liệt hơn chống những người Jacobin.

Ai muốn tìm hiểu sâu bản chất của Napoléon và muốn tìm hiểu những động cơ thực của ông ta thì không nên để mình bị cám dỗ bởi những manh ý khéo léo đầy rẫy trong vô số cuốn sách viết về ông ta; những cuốn sách ấy đều miêu tả Napoléon cụ thể như một người “nửa cách mạng”; trước hết là bọn thù địch của Napoléon thường gọi như vậy, rồi vào nửa đầu thế kỷ thứ XIX thì bọn xu nịnh gọi ông ta là “một Robespierre cưỡi ngựa”.

Nhưng không bao giờ ông ta là thế cả. Bản chất chuyên chế, bẩm sinh độc tài, nhưng biết tính đến hoàn cảnh, nên trong những ngày đầu, Napoléon thấy cần thiết phải để cho một vài dấu vết thuần tuý hình thức ấy của nền Cộng Hòa tư sản được tồn tại. Nhưng ngay sau khi đã có thể làm được thì Napoléon quét sạch tất cả những gì của nền Cộng Hòa để lại và kiên quyết dốc hết tâm trí vào việc biến nước Pháp thành một quốc gia quân phiệt và chuyên chính, biến Châu Âu thành một cụm vương quốc chư hầu, thuộc địa và nửa thuộc địa hoàn toàn lệ thuộc và cái chế độ quân phiệt hà khắc ấy. Dưới nền quân chủ Napoléon không có chỗ đứng cho người Jacobin và tư tưởng Jacobin với những ước vọng như: Thành lập “những nước Cộng Hòa anh em”, thực hiện bình đẳng và tự do. Napoléon ghét cay ghét độc những điều ấy. Engels đã chú ý đặc biệt đúng mức đến cái ngày có tính chất lịch sử (ngày “thành hôn của nước Áo “), vì sau ngày ấy, nền đế chế mới của Napoléon bắt đầu nhanh chóng mang tất cả những đặc điểm bề ngoài của nền quân chủ cổ truyền. Rất tự nhiên rằng hình thức tàn bạo cũ hay mới đều không thể nào dung hòa được với truyền thống anh hùng Jacobin, cũng không thể dung hòa được với ngay cả những hồi ức hết sức yếu ớt và thậm chí giản đơn nữa về nền Cộng Hòa tư sản đã qua. Cuộc đàn áp man rợ và hoàn toàn độc đoán chống người Jacobin, trừ những hình thức “hợp pháp” đã đặt ra, là một trong số những đặc điểm rõ nhất của triều đại Napoléon. Không đếm xỉa gì đến ý kiến của chủ mình, ngay sau ngày 18 Tháng Sương Mù - như trên đã nói - Fouché cho rằng những người Jacobin hiện không nguy hiểm như bọn Bảo Hoàng, những kẻ tán thành việc phục hưng dòng họ Bourbon.

Đúng là trong hoàn cảnh ấy, Fouché đã tỏ ra hơn người chủ của y nhiều về trí sáng suốt của một tên mật thám. Sự thật là bá tước xứ Provence, kẻ nhấp nhổm muốn lên ngôi vua nước Pháp. Chales, em trai y và hầu hết những kẻ thủ lĩnh xuất dương đều tin rằng sau Tháng Sương Mù thì bản thân sự thắng lợi của cuộc đảo chính cùng việc thiết lập nền chuyên chính đã vạch ra rằng thời cơ phục hưng nền quân chủ đã chín muồi. Nếu đã như vậy thì hẳn là bây giờ nước Pháp muốn một nền quân chủ lịch sử cố hữu hơn là muốn khuất phục một tay mạo hiểm người Corsica? Sau 10 năm sôi sục, ngày 18 và 19 Tháng Sương Mù, cách mạng đã bị giết tươi. Từ nay trở đi, cái bàn tay đã bóp chết Viện Đốc Chính hồi tháng 11 năm 1799 ở Saint Cloud và đã đánh bại quân Áo ở Marengo hồi tháng 6 năm 1800, chỉ còn có việc đặt ông vua rất ngoan đạo là Louis XVIII, trong một thời gian nữa vẫn còn là bá tước xứ Provence lên ngai của tổ tiên. Người ta không rõ ông bá tước Provence có tự mình quyết định lấy cuộc vận động lạ lùng ấy không (trước trận Marengo, sau cuộc đảo chính Tháng Sương Mù ba tháng rưỡi), hay là do sự bày mưu vẽ mẹo của người em, con người mà tạo hoá đã quá hà tiện khi ban phát trí thông minh; chỉ biết rằng Louis đã gửi từ Mitaux, nơi Louis cư trú lúc đó, một bức thư lên Tổng Tài thứ nhất, trong đó yêu cầu Bonaparte phục hưng triều đại của dòng họ Bourbon. Bonaparte chỉ còn việc đòi hỏi cho mình và cho bạn hữu mọi sự đền bù mà Bonaparte muốn tức khắc được ngay! Hơn nữa, Bonaparte sẽ được “đời sau mang ơn”! Bonaparte không trả lời. Thế là người ta lại cấp tốc gửi cho Bonaparte cũng như Joséphine những thông điệp mới, những đề nghị mới, những thư từ mới.

Mùa hạ năm 1800, sau trận Marengo, Louis lại thỉnh cầu lần nữa lên Tổng Tài thứ nhất khi thấy hiển nhiên Napoléon có thể quyết định vận mệnh nước Pháp theo ý muốn. Lần đầu và cũng là lần cuối cùng, Bonaparte trả lời cho kẻ nhòm ngó ngôi vua: “Thưa ngài, tôi đã nhận được thư ngài. Xin cảm ơn ngài đã nói với tôi những điều thật thà trong thư. Ngài không nên hy vọng quay trở về nước Pháp; ngài sẽ phải bước lên hàng chục vạn xác chết. Ngài hãy hy sinh quyền lợi của ngài cho an ninh và hạnh phúc của nước Pháp, lịch sử sẽ nhớ tới ngài”.

Khi bọn lưu vong biết Bonaparte không phải là hạng người để người ta trị, mà đúng là kẻ đi trị vì nước khác, và đứng trước sự chối từ dứt khoát của Bonaparte người ta quyết định giết ông ta. Ý định trên nảy ra dường như cũng cùng một lúc trong phái Jacobin. Nhưng đối với những người Jacobin, sự việc đã kết thúc bằng một cuộc khiêu khích thắng lợi của Fouché. Khi bọn tay chân báo cho biết có một âm mưu đang được chuẩn bị và biết đích xác sẽ xảy ra, ở nhà hát vào buổi diễn tối ngày 10 tháng 10, Fouché cho bắt những người chủ mưu (Ceracsi, Arena, Demercin, Topino Lebrun) ngay khi bọn người vũ trang ấy đang lần tới chỗ ngồi của Tổng Tài thứ nhất. Về sau, người ta đã quả quyết rằng vũ khí ấy là do chính Fouché cung cấp cho họ. Những người chủ mưu bị hành hình và ảnh hưởng của Fouché được củng cố. Bọn khiêu khích của Fouché hoạt động ráo riết, tìm cách thâm nhập khắp nơi, từ những phòng chơi của giới thượng lưu cho đến những quán ăn tồi tàn nhất.

Ngày 3 Tháng Tuyết (tức là ngày 25-12-1800), khi Tổng Tài thứ nhất qua phố Saint Nicaise đến nhà hát thì có một tiếng nổ khủng khiếp. Xe của Bonaparte đi qua cạnh quả bom ấy đúng 10 giây thì có tiếng nổ. Hè phố ngổn ngang người chết và bị thương, còn chiếc xe bị hư hỏng phần nửa phía sau, vun vút đưa Bonaparte bình yên vô sự đến nhà hát. Ông ta vào chỗ ngồi, vẻ ngoài rất thản nhiên, đến nỗi một lát sau công chúng ngồi đầy trong rạp mới biết tin sự biến xảy ra. Cuộc điều tra ngay tại chỗ lúc đầu không đem lại kết quả gì, ở nơi xảy ra vụ mưu sát không có ai bị bắt. Bonaparte tin chắc rằng cuộc mưu sát lần này do người Jacobin bố trí. Trong khi buộc tội Fouché là đã quá quan tâm đến bọn Bảo Hoàng và không chú ý đầy đủ đến người Jacobin, Bonaparte quyết định thanh toán gọn cánh tả. Lệnh ban ra lập một bản danh sách 130 tên gồm những thủ lĩnh Jacobin hoặc những người liệt vào loại như vậy; họ bị bắt và phần lớn bị đày ra Guyana và Seychelles. Có mấy ai ở đó đã được trở về. Ở các tỉnh, bọn Quận Trưởng bám riết hết thảy những ai trong thời kỳ cách mạng đã tỏ ra bằng hành động hoặc bằng lời nói, hưởng ứng cuộc đấu tranh kiên quyết chống bọn phản động. Bọn phản động vừa thoát khỏi cơn bão táp bây giờ quay lại tính sổ với người Jacobin. Một vài người có tên trong bản danh sách đầu tiên của Fouché không bị đi đày nhưng lại bị cùm chặt ở trong các nhà tù của Nhà Nước, không được xét xử và ngay cả khi đã tìm ra sự thật, họ cũng không được ra khỏi nhà lao. Kẻ tìm ra sự thật không ai khác ngoài Fouché, và hầu như hắn đã tìm ra sự thật đồng thời với lúc hắn đưa những người Jacobin đi đày hoặc tống họ vào nhà tù. Thật ra Fouché là kẻ đầu tiên biết rằng người Jacobin không dính líu gì đến vụ mưu sát và hắn đày họ đi chẳng qua chỉ để lấy lòng Napoléon trong cơn thịnh nộ.

Đúng hai tuần lễ sau cuộc mưu sát, trong lúc cuộc khủng bố chống người Jacobin đang ở đỉnh cao, người ta bắt một tên François Carbon nào đó, rồi đến lượt Bourmont và vài chục tên Bảo Hoàng trú ngụ ở Paris một cách hợp pháp hay không hợp pháp. François Carbon và Saint Réjeant, những tên thủ phạm trực tiếp của vụ mưu sát, đã thú tội. Âm mưu hoàn toàn do bọn Bảo Hoàng tổ chức nhằm giết Bonaparte và dẫn đến sự phục hưng dòng họ Bourbon. Điều đó không làm cản trở sự thi hành những biện pháp chống người Jacobin, mà đồng thời còn làm cho Bonaparte quyết tâm thẳng tay chống bọn Bảo Hoàng. Đứng về mặt chính trị mà nói, như vậy là Bonaparte đã quyết định hành động nhất cử lưỡng tiện.

Sau này, khi người ta nói với Bonaparte rằng Fouché thừa nhận những người Jacobin bị mang đi đày là hoàn toàn vô tội, Bonaparte trả lời: “Úi chà... Fouché, bao giờ hắn cũng như vậy! Mà bây giờ việc ấy đối với tôi không thành vấn đề lắm, tôi giũ được của nợ ấy đi rồi” (tức là những người Jacobin). Theo bước những người Jacobin, những kẻ Bảo Hoàng chính phạm bị đưa lên máy chém, còn những kẻ khác thì một số lớn bị đưa đi đầy.

Tuy nhiên, cơn thịnh nộ của Bonaparte với bọn Bảo Hoàng lúc đó không mãnh liệt như người ta tưởng. Để phán đoán điều đó, phải căn cứ vào sự đàn áp đã giáng xuống những người Jacobin là những người hoàn toàn vô tội trong “vụ bom nổ”. Nhưng những người thân cận của Napoléon nhận xét rằng, Napoléon đã trút hết giận dữ lên đầu những người Jacobin trong những ngày mới xảy ra vụ mưu sát, vậy thì ông ta còn đâu giận dữ nữa để mà trút lên đầu bọn Bảo Hoàng. Chỉ căn cứ vào trình tự tâm lý như vậy thì tìm sao được chân lý. Napoléon biết rất rõ phải hung bạo khi xét ra cần thiết, đồng thời ông ta vẫn giữ được hoàn toàn bình tĩnh. Vấn đề không phải là ở chỗ đó, mà ở chỗ Napoléon nhằm mục đích tách những phần tử Bảo Hoàng thực tâm muốn hòa hợp với nền trật tự mới ở nước Pháp ra khỏi dòng họ Bourbon. Nói một cách khác, kẻ Bảo Hoàng nào thừa nhận quyền hành của Napoléon là hợp pháp và với riêng ông ta, kẻ nào chịu khuất phục không một lời phàn nàn thì ông ta sẵn sàng thu nạp và tha cho những tội lỗi trước, nhưng với những kẻ ngoan cố, với những kẻ nào chỉ nghĩ đến việc phục hưng dòng họ Bourbon thì Napoléon kiên quyết chống đến cùng.

Ngay trước khi xảy ra trận Marengo, Tổng Tài thứ nhất đã chỉ thị cho Fouché lập danh sách bọn xuất dương có thể cho phép quay trở về nước Pháp và mặc dầu có “vụ bom nổ”, những danh sách ấy vẫn được tiếp tục lập. Những bản danh sách đầu tiên gồm khoảng 10.000 người, trong đó có chừng 52.000 người đã được trở về theo một nghị định ngày mồng 1 Tháng Hái Nho (20 tháng 10 năm 1800). Trong những bản danh sách mới, đặc biệt số người tăng lên gấp một lần rưỡi số dự định. Trong số 145.000 người xuất dương, có chừng 141.000 người được phép trở về Pháp dưới sự giám sát của cảnh binh. Chỉ có 3.373 người không được hưởng sự ân xá đó. Nhưng Bonaparte không dừng lại đây: Theo nghị quyết của Thượng Nghị Viện ban hành vào tháng 5 năm 1802, tất cả những người xuất dương nào tuyên thệ trung thành với chế độ mới đều được quyền trở về Pháp. Rất đông người xuất dương, kéo lê cuộc đời khốn khổ ở nước ngoài, đã nhận biện pháp ấy để trở về nước Pháp.

Trong một thời gian, những vụ mưu hại không xảy ra. Với tinh thần kiên quyết gấp bội, Bonaparte dành hết tâm trí vào việc ngoại giao. Trước và sau thời kỳ này, chưa bao giờ Bonaparte lại tha thiết muốn tăng cường sự đoàn kết với các nước đến như vậy. Ông ta cần đến nó để ổn định nền tài chính và cũng còn vì đa số nhân dân Pháp tỏ rõ ra là khao khát hòa bình; cuối cùng, Bonaparte hy vọng đó sẽ là một cuộc tạm ngừng chiến để ông ta có thời gian hoàn thành những cải cách đã tiến hành và thực hiện những cải cách mà ông ta đang ôm ấp, trù tính.