Chương VI (tt)
Trong lĩnh vực cảnh sát chính trị, Bonaparte đã chọn được một tên trùm về thuật khiêu khích và nghề mật thám như Fouché, thì trong lĩnh vực ngoại giao, Bonaparte cũng may tay chọn được một trợ thủ, bởi vì hoàng thân Talleyrand đã tỏ ra là một tay kỳ tài về nghệ thuật ngoại giao. Nhưng thái độ của Tổng Tài thứ nhất đối với hai còn người này có khác nhau: Napoléon sử dụng Fouché và bộ hạ của y, nhưng vẫn coi và gọi chúng là lũ côn đồ; nghi ngờ Fouché, Napoléon còn có tổ chức riêng của mình để giám sát Fouché, dẫu rằng trong loại tranh chấp này, đương nhiên là Napoléon khó mà thắng được viên Bộ Trưởng của mình. Về mặt này thì, dù là Napoléon hay Alexander đại đế cũng chẳng hơn được Fouché. Trong nháy mắt, Fouché đã vạch mặt được nhưng người do Napoléon bố trí theo dõi y. Trong phạm vi cảnh sát Napoléon cần tới Fouché và những tài ba đặc biệt của y, vì trong vấn đề này Bonaparte còn bám gót viên Bộ Trưởng của ông ta và còn phải nhờ cậy vào Fouché. Trái lại, trong nghệ thuật ngoại giao, Napoléon không chịu nhường Talleyrand một ly, mà còn trội hơn về một số điểm. Mặc dầu Talleyrand là một viên Bộ Trưởng Ngoại Giao vô cùng tài năng, nhưng chính Napoléon đã chỉ giáo cho Talleyrand, và chính Napoléon đã chỉ đạo những cuộc đàm phán hòa bình quan trọng; vai trò của Talleyrand thu hẹp lại trong phạm vi góp ý kiến, thảo các văn kiện ngoại giao và thực hiện đường lối đã định để đạt mục đích.
Không chút nghi ngờ gì về một trong những thắng lợi to lớn của Napoléon là ông ta đã làm cho đường lối chính trị của nước Nga thay đổi hoàn toàn. Napoléon báo cho Hoàng Đế Pavel, người đang chính thức tiến hành chiến tranh với nước Pháp, biết rằng ông ta muốn giao trả ngay tức khắc về Nga tất cả những tù binh người Nga đang bị người Pháp giữ sau cuộc thất bại của đạo quân Korsakov vào mùa thu năm 1799, không yêu sách một sự trao đổi nào hết (thật ra lúc đó hầu như không có tù binh Pháp ở Nga). Chỉ một cách ấy mà đã làm cho Pavel bị mê hoặc, quyến rũ, và để kết thúc công việc, Pavel phái tướng Sprengporten đến Paris.
Sprengporten tới thủ đô Pháp vào giữa tháng 12 năm 1800. Ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên, Bonaparte đã vừa biểu lộ mối thiện cảm đằm thắm nhất và lòng quý mến nhất đối với Hoàng Đế Pavel, vừa nhấn mạnh lòng độ lượng và tâm hồn cao cả của Pavel mà theo ông ta chính là những cái đó đã làm cho Nga Hoàng nổi bật lên. Hơn nữa, vị Tổng Tài thứ nhất không những chỉ ra lệnh giao trả tất cả tù binh Nga (khoảng 6.000 người), mà còn chỉ thị phải trang bị mới hoàn toàn cho tù binh, do ngân sách nước Pháp chịu, những bộ đồng phục thích hợp với quân đội của họ, cấp giày mới và trả lại vũ khí cho họ. Kèm theo cái biện pháp hữu nghị có một không hai ấy giữa những người đứng đầu các quốc gia đang chiến tranh với nhau còn có một bức thư riêng của Bonaparte viết gửi Hoàng Đế Pavel; trong thư, Tổng Tài thứ nhất nói bằng những lời lẽ thân thiết nhất rằng hòa bình giữa nước Pháp và nước Nga có thể thực hiện được trong vòng 24 tiếng đồng hồ nếu Pavel cử đến Paris một người mà Pavel hoàn toàn tin cẩn. Pavel bị bức thư ấy mua chuộc. Từ kẻ thù không đội trời chung của nước Pháp, đột nhiên Pavel trở thành người bạn của nước Pháp và tức khắc gửi thư trả lời Bonaparte. Trong thư, Pavel chấp thuận hòa bình trước hết, vừa tỏ ý mong muốn chung sức với vị Tổng Tài thứ nhất trả lại cho Châu Âu “sự an ninh và sự bình yên”. Khi tiếp tướng Sprengporten, phái viên của Pavel, Napoléon đã nói với hắn rằng chủ hắn và ông ta là những người “có sứ mệnh làm thay đổi bộ mặt của thế giới”.
Sau thắng lợi đầu tiên ấy, Napoléon quyết định không những ký hòa ước với nước Nga, mà còn ký một hiệp ước liên minh quân sự, ý định liên minh xuất phát từ hai lý do: Trước hết là xoá bỏ sự xung đột quyền lợi giữa hai cường quốc và thứ hai là cái viễn cảnh sau này tập trung hết thảy lực lượng uy hiếp nền đô hộ của Anh ở Ấn Độ, bằng đường miền Nam nước Nga và Trung Á. Kể từ cuộc viễn chinh sang Ai Cập cho đến tận những năm cuối cùng triều đại của ông ta, đất nước Ấn Độ luôn luôn ám ảnh tư tưởng Napoléon. Ý nghĩ căn cốt ấy cứ cắm sừng sững trong đầu óc ông ta, mặc dầu lúc ấy cũng như về sau này chẳng bao giờ nó được biểu hiện thành một kế hoạch dứt khoát. Năm 1798, ý nghĩ ấy đến với ông ta lúc ông ta ở Ai Cập; năm 1801, ý nghĩ ấy nảy ra cùng với mối tình giao hảo bất ngờ với Nga Hoàng, và đến năm 1812, lại diễn lại trong giai đoạn đầu của chiến dịch Moscow. Trong cả ba trường hợp, ý nguyện hướng về mục đích xa xôi đó đều không bao giờ thực hiện được, nhưng, như sau đây chúng ta đã rõ, dẫu sau, về bề ngoài, công việc cũng mang hình thức một cuộc thăm dò.
Sự tiến triển tình cảm nhanh chóng đến ngạc nhiên của Hoàng Đế Pavel đối với Bonaparte đi song song và liên hệ chặt chẽ cũng hoàn toàn bất ngờ với việc Pavel căm hờn sôi sục nước Anh, người bạn liên minh khi trước của Pavel trong cuộc chiến đấu chống nước Pháp. Vào lúc này, Napoléon đã trù tính, trên những nét lớn, một cuộc phối hợp lực lượng dựa trên việc phái một đạo quân viễn chinh Pháp đặt dưới quyền chỉ huy của ông ta sang miền Nam nước Nga, nơi ông ta sẽ cùng hội sư với quân đội Nga, xong, ông ta sẽ dẫn cả hai đội quân qua Trung Á và Ấn Độ. Không những Pavel chộp vội lấy ý định đánh người Anh ở đất Ấn Độ mà còn đi trước cả Bonaparte trong những bước đầu nhằm thực hiện kế hoạch đó. Thủ lĩnh Cossacks Matvei Ivanovich Platov, bị giam cầm theo lệnh của Nga Hoàng vì lý do gì không rõ ở pháo đài Petro Pavlov từ sáu tháng nay, bỗng được lôi ra khỏi hầm giam và dẫn thẳng đến phòng làm việc của Hoàng Đế. Bất cần mào đầu, Hoàng Đế hỏi ngay Platov một câu bất ngờ sau đây: Có biết đường sang Ấn Độ không? Platov chẳng hiểu ất giáp gì cả, nhưng biết rằng nếu trả lời không biết thì chắc chắn sẽ phải trở lại ngồi tù trong pháo đài, nên đã vội vã trả lời có biết. Tức khắc Platov được chỉ định làm chỉ huy một trong bốn quân đoàn của Quân Đoàn Sông Đông và được lệnh đem hầu hết toàn bộ lực lượng tiến sang Ấn Độ, với số quân là 22.500 người. Bốn quân đoàn đó rời Sông Đông ngày 27 tháng 2 năm 1801, nhưng cuộc hành quân của họ chẳng được bao lâu thì... Châu Âu theo dõi với một mối lo âu ngày càng tăng sự thắt chặt tình hữu nghị giữa người thủ lĩnh của nước Pháp và Hoàng Đế Nga. Nếu sự liên minh giữa hai cường quốc này được củng cố thì sẽ chỉ có hai cường quốc ấy chỉ huy lục địa: Ý kiến ấy không những là của Napoléon và của Pavel mà còn là dư luận của tất cả những nhà ngoại giao ở Châu Âu hồi ấy. Một tình trạng báo động khẩn cấp thật sự trùm lên nước Anh. Đúng là hạm đội Pháp yếu hơn hạm đội Anh, và thủy quân Nga thì không đáng kể đến, nhưng những ý đồ của Bonaparte về Ấn Độ, việc phái quân Nga bất ngờ tiến về hướng đó làm William Pitt Thủ Tướng nước Anh, bực dọc lo nghĩ, người ta run sợ chờ đợi mùa xuân năm 1801 vì trong mùa này, hai nước lớn rồi đây sẽ là đồng minh với nhau có thể quyết định hành động. Nhưng ngày đầu tiên của mùa xuân, ngày 11 tháng 3, đã mang lại một sự tình khác hẳn: Napoléon nổi điên nổi khùng khi tin Hoàng Đế Pavel đệ nhất bị ám sát thình lình bay về Paris. Mọi công việc mà Napoléon đã tiến hành tốt đẹp trong vòng vài tháng một cách tài tình và hiệu quả với nước Nga nay đều sụp đổ hết. Napoléon kêu lên: “Bọn Anh đã thua tôi ở Paris ngày 3 Tháng Tuyết (vụ mưu sát ở phố Saint Nicaise - lời tác giả), nhưng chúng đã không thua tôi ở Peterburg!”. Theo Napoléon, vụ ám sát Pavel đúng là do người Anh âm mưu. Cuộc liên mình với nước Nga sụp đổ vào đêm tháng 3, lúc những kẻ mưu sát bước vào buồng ngủ của Hoàng Đế Pavel.
Vị Tổng Tài thứ nhất phải thay đổi tức khắc và thay đổi căn bản tất cả mưu chước ngoại giao của mình. Mà về những hoạt động mưu chước này thì Napoléon là người có tài sử dụng nhanh nhạy và khéo léo cũng như khi sử dụng những khẩu đại bác.
4Từ nay trở đi, tình thế buộc phải tính nước khác: Không phải tiếp tục chiến tranh mà phải ký hòa ước với người Anh. Còn đối với nước Áo, các cuộc đàm phán đã được bắt đầu từ lâu: Ngày 9 tháng 2 năm 1801, đại diện toàn quyền người Áo là Cobenzl đã ký Hòa Ước Luneville. Các cuộc đàm phán đều do Joseph Bonaparte, anh của vị Tổng Tài thứ nhất, và do Talleyrand Bộ Trưởng Ngoại Giao chỉ đạo. Nhưng cả hai chỉ làm theo chỉ thị của Napoléon, mà Napoléon thì đã khéo léo lợi dụng tình hữu nghị bất ngờ của ông ta với Pavel.
Lâm vào hoàn cảnh bị xâm lăng cả phía Đông và phía Tây, nước Áo phải hoàn toàn nhượng bộ về mọi mặt. Sau trận Marengo và một trận chiến thắng khác của quân Pháp ở Alsace, nới Moreau đã đánh bại được quân Áo ở Hohenlinden, nước Áo quả khó mà chống cự lại được. Với Hòa Ước Luneville, Napoléon đã thu được tất cả những gì mà ông ta muốn thu về ở nước Áo: Toàn nước Bỉ bị vĩnh viễn tách khỏi nước Áo, nhượng lại đất Luxembourg, tất cả những đất đai của Đức ở tả ngạn sông Rhine, công nhận nước Cộng Hòa Batavia (nước Hà Lan), nước Cộng Hòa Helvetica (nước Thuỵ Sỹ), các nước Cộng Hòa Xidanpi và Liguria (tức là xứ Genoa và Lombardia); thật ra những đất nước ấy có gì khác hơn là thuộc địa của Pháp. Còn Piedmont thì vẫn hoàn toàn do quân đội Pháp chiếm đóng. Trong một bức thư gửi cho thủ lĩnh của mình là Coroledo, Cobenzl buồn bã nói: “Đây, đây là cái bản hiệp ước khốn nạn mà tôi đã phải ký vì cần thiết. Nội dung và hình thức của nó thật đáng ghê sợ”. Cobenzl lại càng có quyền bất bình khi biết rằng trong lúc đàm phán với triều đình Vienna, Talleyrand đã thu được nhiều lễ vật, cố nhiên là lén lút mà hắn lại chẳng làm lợi gì cho người Áo, bởi vì từ dòng đầu đến dòng cuối hiệp ước đều do Napoléon đọc cho mà viết.
Thế là từ đây, người ta không phải bận tâm về nước Áo. Rõ ràng, sau những tổn thất nặng nề kinh khủng như thế, đế quốc Áo chỉ chờ đợi thời cơ thuận lợi để khôi phục sự nghiệp. Kinh thành Vienna nhẫn nhục trông ngóng thời cơ.
Như vậy là sau khi Pavel chết đi, trong số các cường quốc chỉ còn nước Anh là đang chiến tranh với Pháp. Sau biến cố ấy, đột nhiên Napoléon thay đổi trận thế nhằm mục đích ký hòa ước với Anh càng sớm càng hay.
Nước Anh đang trong những giờ phút khó khăn. Đứng trên quan điểm thuần túy kinh tế mà nói, lúc đó trên lục địa Châu Âu, nền thương nghiệp và giai cấp tư sản thương nghiệp Anh không gặp nhiều địch thủ. Cuộc cách mạng công nghiệp và kỹ thuật vào những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVIII đã xác lập cho nước Anh vị trí hàng đầu trong số các cường quốc trong lĩnh vực kinh tế, và một trong những nguyên nhân làm giai cấp tư sản Pháp bực tức chống lại đường lối chính trị của chế độ cũ là hiệp ước thương mại Anh - Pháp ký năm 1786, hậu quả của hiệp ước này là thị trường nội địa của Pháp bị nền công nghiệp kéo sợi và luyện kim của Anh xâm nhập. Những nhà công nghệ Pháp đã nhiệt liệt đón nhận tất cả những biện pháp chống lại nền thương nghiệp Anh của Hội Nghị Quốc Ước và của Viện Đốc Chính, và ở Anh cũng như ở Pháp, toàn bộ cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp trong thời kỳ Cách Mạng đã được coi là cuộc chiến tranh của thương gia và kỹ nghệ gia Anh chống lại thương gia và kỹ nghệ gia Pháp.
Đứng đầu tất cả những công việc chính trị, tất cả những cuộc liên minh Châu Âu chống lại Pháp, là William Pitt, Thủ Tướng chính phủ Anh. Trong thời của mình, William Pitt đã viện trợ một cách hào hiệp cho nước Phổ, nước Áo, nước Piedmont, nước Nga rồi lại nước Áo và Naples, vì đứng trên quan điểm quyền lợi kinh tế và chính trị của người Anh mà nói, William Pitt đã nhìn thấy rõ sự bành trướng thế lực của nước Pháp ở trên lục địa có một ý nghĩa như thế nào.
Nhưng, những sự viện trợ cho các nước trong Khối Liên Minh Châu Âu, cũng như sự viện trợ một cách tích cực bằng hạm đội, tiền bạc, vũ khí và đạn dược cho bọn phản cách mạng ở Vendée đã không mang lại kết quả gì và vào năm 1801, ở Anh, dư luận đã bắt đầu lan tràn rộng rãi cho rằng tốt nhất là tìm cách thoả thuận với người thủ lĩnh mới của Pháp, dư luận đó không được các nhà kỹ nghệ và giới thương mại Anh tán thành một chút nào, đúng là thế, vì quyền lợi của họ đã trực tiếp gắn liền vào việc bóc lột các thuộc địa của Pháp và của Hà Lan chiếm được trong cả một cuộc chiến tranh trường kỳ. Nhưng tầng lớp thương nhân gắn chặt với nền thương nghiệp của Châu Âu lại mong muốn hòa bình; trong giai cấp thợ thuyền, phẫn nộ trào lên dữ dội chống sự bóc lột và nạn đói đang hành hạ họ lúc bấy giờ, và sự bực tức của thợ thuyền không những chỉ biểu hiện bằng những vụ phá hoại máy móc mà đôi khi còn bằng cả những hành động tiêu cực công khai.
Nói tóm lại, khi Bonaparte đã ký với nước Áo một hòa ước đặc biệt có lợi, đem lại thêm cho ông ta những vùng đất đai rộng lớn ở Đức và ở Ý, và sau cái chết của Pavel, khi ông ta ký hòa ước với người kế nghiệp của Pavel là Aleksandr, đồng thời đề nghị ký với nước Anh, thì các giới lãnh đạo Anh, nhất thời thất vọng vì không còn mong gì đánh đổ được nước Pháp, bèn quyết định đàm phán với Pháp. Đúng vào trước lúc Pavel bị ám sát. William Pitt từ chức và những người lên thay thế ông ta đều là những tay đại diện cho khuynh hướng thoả hiệp. Addington đứng đầu chính phủ và ngài Hawkesbury, Bộ Trưởng Ngoại Giao mới, đã làm cho người ta hiểu rằng nước Anh không phản đối việc ký hòa ước.
Các cuộc đàm phán hòa bình tiến hành ở Amiens, nơi mà ngày 26 tháng 3 năm 1802, hiệp ước hòa bình với Anh đã được ký kết. Nước Anh hoàn lại cho Pháp và các nước chư hầu của Pháp (Hà Lan và Tây Ban Nha) tất cả những thuộc địa mà Anh đã chiếm được của họ trong suốt chín năm chiến tranh trừ Sri Lanka và Tenerife. Đảo Malta phải trả lại cho Dòng Họ Kỵ Sĩ. Nước Anh cam kết rút quân khỏi các căn cứ đã chiếm đóng được trong cuộc chiến tranh ở biển Adriatic và Địa Trung Hải. Nước Pháp cam kết rút quân đội ra khỏi Ai Cập, rút quân khỏi La Mã để giao lại cho Giáo Hoàng cũng như tất cả những đất đai khác thuộc toà thánh. Đó là những quy định chủ yếu. Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng nhất. Có phải vì cái đó mà giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản Anh đã tiêu tốn hàng triệu đồng trong chín năm trời cho quân đội của họ và cho quân đội của các nước khác cũng như đưa hạm đội của họ đi rạch nát mặt nước tất cả các đại dương không? Điều làm cho các giới lãnh đạo Anh khó chịu nhất là không làm thế nào tước từ móng vuốt của Bonaparte được một trong những mảnh đất Châu Âu, mà Bonaparte đã chiếm. Nước Bỉ và Hà Lan, nước Ý, tả ngạn sông Rhine và xứ Piedmont còn là những đất đai trực thuộc Bonaparte, toàn miền Tây Đức từ nay trở đi là miếng mồi ngon của ông ta. Tất cả những nước phụ thuộc hoặc nước nửa phụ thuộc ấy, mà quyền lực của Bonaparte trùm lên trực tiếp hoặc gián tiếp, đều đã không còn là thị trường của Anh để nhập cảng sản phẩm công nghiệp Anh cũng như nhập cảng sản phẩm thuộc địa Anh. Mọi cố gắng của các viên đại diện toàn quyền Anh ở Amiens nhằm đặt cơ sở cho một hiệp ước thương mại, dù chỉ có lợi chút đỉnh cho Anh, đều toi công. Lại càng không phải là vấn đề mở cửa thị trường nội địa béo bở của Pháp, chắc chắn như vậy, Vì thị trường ấy vẫn bị phong toả chặt chẽ y như trước thời Bonaparte. Và ngoài ra, riêng về mặt quân sự và chính trị mà nói, nền an ninh của nước Anh thật như trứng để đầu đẳng trước những cuộc tiến công của nước Pháp. Giờ phút nào còn là chủ nước Bỉ, Hà Lan thì Bonaparte còn luôn nhắc lại câu: “Antwerp là một khẩu súng đã lên đạn chĩa vào tim nước Anh”.
Hòa Ước Amiens không thể tồn tại lâu dài được, vì nước Anh đã cảm thấy không thể chịu thất bại đến mức độ ấy được. Nhưng ở Paris và ở các tỉnh, khi được tin ký hiệp ước Amiens, mọi người tỏ ra rất hài lòng. Họ cho rằng kẻ thù đáng sợ nhất, giàu có nhất, hăng nhất và không đội trời chung nhất đã cam chịu thất bại, nó đã phải công nhận tất cả các nước mà Bonaparte đã chiếm. Cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ với Châu Âu đã chấm dứt bằng một thắng lợi hoàn toàn trên mọi mặt trận.
5Dưới thời Napoléon, nước Pháp và Châu Âu không được hưởng hòa bình lâu dài. Nhưng trong hai năm, từ mùa xuân năm 1801, ngày giải quyết hòa bình với nước Áo đến mùa xuân năm 1803, sau khi Hòa Ước Amiens thực hiện được một thời gian ngắn, chiến tranh lại xảy ra với nước Anh - Napoléon đã tích cực và khẩn trương giải quyết được rất nhiều công việc về tổ chức đất nước và pháp chế. Từ đó trở đi, Bonaparte có thể chuyên tâm dốc sức vào việc xây dựng pháp chế mà từ trước đến nay Bonaparte dù muốn hay không đã buộc lòng phải đình lại; đúng là từ sau trận Marengo, Bonaparte đã bắt đầu chú ý đến việc ấy, nhưng ông ta không thể đặt loại việc ấy lên hàng đầu được khi còn chưa ký kết xong hòa ước với Áo, với Anh và khi mà những mối quan hệ của Bonaparte với Hoàng Đế Pavel đang còn hướng tư tưởng của ông ta về những cuộc xung đột chiến tranh khó khăn mới và những cuộc xâm lược xa xôi khác.
Thời cơ đã đến để Bonaparte có thể đặt ra, nghiên cứu và giải quyết một loạt các vấn đề nội chính, tài chính, kinh tế hoặc các vấn đề có liên quan đến việc hộ và việc hình. Khi giải quyết các công việc chính sự mà Bonaparte không biết thì cách làm của Bonaparte như sau: Ông ta chủ toạ các phiên họp của các Hội Đồng Chính Phủ do ông ta tạo nên và, sau khi nghe xong các bản báo cáo của các Bộ Trưởng, Bonaparte ra lệnh triệu tập những người đã trực tiếp tham gia khởi thảo các bản báo cáo đó và hỏi tỉ mỉ họ tất cả những điểm còn lờ mờ.
Bonaparte thích hơn hết là được nói chuyện với các chuyên gia và được học ở họ. Bonaparte khuyên con riêng của vợ là Eugène Beauharnais - sau này là phó vương nước Ý - rằng khi đến một thành phố lạ, đừng để mất thì giờ vô ích mà phải nghiên cứu thành phố ấy, vì biết đâu sau này chẳng có ngày phải chiếm nó. Tất cả con người Napoléon là ở những lời nói này: Tích luỹ kiến thức để sử dụng chúng trong thực tiễn. Napoléon đã làm cho những người thuyền trưởng Anh ngạc nhiên khi nói với họ về những chi tiết thiết bị của tàu Pháp cũng như của tàu Anh, sự khác nhau giữa dây cáp Anh và dây cáp Pháp.
Napoléon vô cùng quan tâm đến Khoa Kinh Tế (vì đang ở thời kỳ của những vấn đề về sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa), và nắm chính quyền chưa được vài năm mà Napoléon đã rất am hiểu những vấn đề về sản xuất và tiêu thụ, giá cả và thuế quan, cước phí đường thủy và đường bộ, ông am hiểu tường tận cả nguyên nhân tại sao giá nhung Lyon hạ hoặc cao, y như những tay buôn ở Lyon vậy, có thể vạch trần thủ đoạn lừa bịp và tính chất của một nhà thầu khoán làm một con đường ở nơi hẻo lánh trong đế quốc rộng lớn của ông ta, đến mức có khả năng giải quyết tài tình một cuộc tranh chấp biên giới, hoặc chấm dứt một vụ nhập nhằng lấn đất làm cho lãnh thổ của các quốc gia và của các vương hầu ở Đức bị cắt vụn ra; không những thế, ông còn có khả năng trình bày quyết định của mình bằng cách căn cứ vào lịch sử của cuộc tranh chấp ấy và những vụ lấn đất đương sự.
Napoléon lắng nghe tất cả những người nào mà Napoléon hy vọng có được một điều chỉ dẫn bổ ích, nhưng tự quyết định lấy. Napoléon thường nói: “Người thắng một trận nào đó không phải là người cho một lời khuyên tốt, mà là người nhận lấy trách nhiệm thi hành lời khuyên ấy". Trong vô số ý kiến mà người chỉ huy thu lượm được thì thường có thể tìm thấy một ý kiến đúng, nhưng phải biết gạn lọc và thực hành ý kiến đó. Cả trong việc cải cách pháp chế và trong sự chỉ đạo nội chính cũng đúng như vậy. Nhưng không phải khi ban ra một mệnh lệnh là đã xong công việc, đó mới chỉ là sự bắt đầu mà thôi. Napoléon cho rằng trong công tác hành chính của Nhà Nước, sự đôn đốc việc thi hành pháp lệnh cũng thiết yếu như việc ban bố pháp lệnh và khi pháp lệnh không được thi hành nghiêm chỉnh và đúng đắn thì Napoléon cho rằng nhiệm vụ bức thiết của một người Bộ Trưởng là phải điều tra rồi xác định một cách rõ ràng nhất xem trách nhiệm cá nhân thuộc về ai. Dưới thời Napoléon, công tác trong ngạch hành chính là một cái nghề vô cùng vất vả, nặng nhọc. “Phải thức khuya, dậy sớm", các công chức cũ đã nói lại như vậy. Theo ý Napoléon, chính quyền phải biết rút tỉa ở mỗi con người tất cả những cái mà họ có thể cống hiến được và nếu họ không sống lâu được với chế độ này thì chính quyền cũng không có gì quan trọng.
Vấn đề ấy, Napoléon cũng đã phát biểu một cách độc đáo rằng: “Đừng để cho người ta già đi!", theo ý Napoléon thì đó là nghệ thuật cao của chính quyền. Napoléon cố gắng bảo đảm cho viên chức chính quyền được lương cao, nhưng ông ta rút tỉa của mọi người tất cả những gì có thể rút tỉa được để bù lại. Bản thân Napoléon làm việc suốt ngày đêm, chỉ dành vài tiếng đồng hồ để ngủ, 15 phút để ăn trưa và ít hơn nữa để ăn sáng. Napoléon cho rằng không cần thiết phải đối xử độ lượng với mọi người hơn với bản thân mình. Vì vậy, mà cũng đúng như đối với binh sĩ và sĩ quan của mình, không phải Napoléon chỉ trông nhờ vào uy lực của các toà án, của các hình phạt, của việc cách chức để buộc các công chức của ông làm việc tận tuỵ. Ông già Toromocho đã từng bao năm kéo lê cái xích nặng nề của công tác hành chính dưới thời Napoléon với tư cách là viên chức của Bộ Tư Pháp, rồi dự thẩm. Viên tham chính nói rằng: Napoléon có tài đốt cháy ở trong lòng mọi người ngọn lửa hăng say làm việc bằng tình thân mật; do đó hễ có dịp là Napoléon biết đối xử với những người tầm thường nhất như người ngang hàng mình và cái tài đó đã thổi cháy được nhiệt tình trong công chức hệt như trong binh sĩ của ông. Người ta kiệt sức vì làm việc như những người khác chết trên chiến trường. Dù làm công tác hành chính hay quân sự, những người phụng sự Napoléon đều luôn luôn sẵn sàng để được thưởng huy chương hoặc để được nhận một nụ cười ân cần của chủ.
Theo cuộc phổ thông đầu phiếu, được vội vã tổ chức sau Hòa Ước Amiens, và theo cái nghị quyết thể theo “nguyện vọng quần chúng” của Thượng Nghị Viện ngày 2 tháng 8 năm 1802, Napoléon Bonaparte được bổ nhiệm là “Tổng Tài vĩnh viễn” của nước Cộng Hòa Pháp với 3.568.885 phiếu thuận và 8.374 phiếu chống. Việc này bộc lộ rõ nước Pháp đã biến thành một nước quân chủ độc đoán và chẳng bao lâu vị Tổng Tài thứ nhất sẽ xưng vương hoặc xưng đế. Và hệt như ông ta đã làm cho nền chuyên chính “Cộng Hòa” của ông ta, Napoléon muốn đặt ngai vàng sắp đến của mình trên nền móng vững bền của giai cấp đại tư sản thành thị và nông thôn và những giai cấp hữu sản khác: Thương gia, kỹ nghệ gia, quý tộc địa chủ, nông dân hữu sản. Quyền sở hữu tài sản vô hạn độ phải là nền tảng trật tự mới của Napoléon. Một mặt, mọi dấu vết của những luật lệ phong kiến cổ xưa của bọn chúa đất mà tổ tiên chúng trước kia đã chiếm hữu đều bị thủ tiêu vĩnh viễn, nhưng mặt khác, quyền sở hữu tài sản lại được công nhận một cách tuyệt đối và bất di bất dịch đối với những người chủ tài sản đã mua được trong thời kỳ cách mạng, đối với những chủ tài sản tịch thu của bọn lưu vong, của nhà thờ và của nhà tu và bất kể người sở hữu hiện nay là ai. Với thương nghiệp và công nghiệp, chủ các hãng thương mại và kỹ nghệ, một mặt họ hoàn toàn có quyền không bị hạn chế một chút nào, lập giao kèo với nhân viên thợ thuyền trên cơ sở “tự do thoả thuận giao ước” (nghĩa là không hạn chế tí gì quyền tự do bóc lột sức lao động của chủ tư bản); còn thợ thuyền thì mất hết mọi quyền và mọi khả năng đấu tranh tập thể chống bọn bóc lột họ; và mặt khác, các nhà buôn và nhà kỹ nghệ Pháp được bảo đảm rằng chính phủ Napoléon muốn và sẽ bảo vệ một cách thắng lợi thị trường nội địa của nước Pháp chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài, biến một phần Châu Âu và có thể là cả Châu Âu, thành một công cụ bóc lột của tư bản thương nghiệp và công nghiệp Pháp. Napoléon tin chắc chế độ do ông xây dựng và củng cố, cũng như đường lối đối ngoại và đối nội của ông, sẽ đưa giai cấp tư sản thương mại và kỹ nghệ, cả tầng lớp nông dân hữu sản đến chỗ phải hoàn toàn tha thứ mọi bạo lực, từ chối mọi sự tham gia tích cực vào hoạt động chính trị, hành chính và pháp luật, khuất phục bất cứ hình thức chuyên chế độc đoán nào, kể cả những hình thức mà người ta chưa bao giờ thấy dưới thời Louis XIV, tán thành những sự hy sinh và những trưng dụng nhân lực, đó là những cái mà người ta chưa bao giờ làm quen, kể cả trong những thời đen tối nhất của chế độ cũ.
6Quyết tâm thanh toán tất cả những gì đã gây trở ngại đến ưu thế và quan hệ tư bản chủ nghĩa và đến việc củng cố quyền lực riêng của mình, Napoléon không những bằng lòng xá tội cho bọn xuất dương, mà còn hoàn lại cho bọn chúng một phần của cải bọn chúng trước đây chưa bán được, ông ta còn chính thức dàn xếp việc hòa giải giữa chính phủ Pháp với nhà thờ Thiên Chúa. Ngay sau ngày 18 Tháng Sương Mù, việc thờ phụng đã được tự do.
Sau đó, Napoléon đã cho làm phép hành lễ ngày chủ nhật, cho về rất nhiều cha cố bị đưa đi đày và thả một số lớn khác ra khỏi nhà giam. Rồi Napoléon bắt đầu những cuộc đàm phán với Giáo Hoàng trên cơ sở những điều kiện: Tổng Tài thứ nhất sẽ ưng thuận thừa nhận Thiên Chúa Giáo là “tôn giáo của đại đa số nhân dân Pháp” và đặt Thiên Chúa Giáo dưới sự bảo hộ của chính phủ.
Những cuộc đàm phán trên kết thúc bằng việc ký kết một điều ước hòa giải nổi tiếng, mệnh danh là “kiệt tác của lý trí Nhà Nước”, ít ra thì những nhà viết sử tư sản cũng đã khẳng định như vậy.
Thật ra, bản điều ước hòa giải chỉ là sự tuyên bố gạt bỏ phần lớn những thắng lợi về quyền tự do tư tưởng của cách mạng đã đạt được đối với nhà thờ. Khi cách mạng cấm không cho bọn thầy tu công khai gây ảnh hưởng đến nhân dân Pháp, thì Napoléon lại để cho bọn chúng có khả năng làm việc đó. Vậy những lý do của Napoléon là gì? Câu trả lời đã rõ và không còn nghi ngờ gì nữa.
Chắc chắn Napoléon không phải là một người vô thần[25] vững vàng, nhưng dù sao người ta cũng có thể nói rằng Napoléon là người theo cái thuyết “tự nhiên thần luận”[26] rất nhạt nhẽo và mơ hồ. Trong đời ông, tổng cộng lại thì ông đã dành thời gian vô cùng ít ỏi để bàn những vấn đề tôn giáo. Napoléon không bao giờ nghĩ đến chuyện dựa vào cái nhân vật tối cao mà các nhà thần học đã đặt ra ấy và cũng không bao giờ tỏ ra có ý theo Học Thuyết Thần Bí[27]. Vả lại dù thế nào đi nữa, với tên quý tộc người Ý này - bá tước Chiaramonti mà năm 1799 đã trở thành Giáo Hoàng Pius VII - Napoléon vẫn không coi là người kế tục của sứ đồ Pie, cũng không là người đại diện của Chúa Trời ở trên trái đất, mà là một lão già người Ý xảo quyết, con người mà chắc chắn là sẽ sẵn sàng âm mưu phục hưng dòng họ Bourbon để thu hồi lại của cải của giáo hội bị niêm phong quản lý trong thời ký Cách Mạng. Nhưng hắn lại sợ Bonaparte vì hầu hết nước Ý đang bị người Pháp chiếm đóng, và sau trận Marengo, Roma và Giáo Hoàng hoàn toàn đang ở trong tay vị Tổng Tài thứ nhất.
Pius VII sợ Napoléon đến thất đảm và coi Napoléon như một tên côn đồ, một tướng cướp. Còn Napoléon, ông ta không tin một lời nào từ miệng Pius VII thốt ra, coi hắn là một tên gian giảo và dối trá. Đó là quan niệm của mỗi người ấy đối với nhau từ trước cũng như sau khi đàm phán xong với nhau, và cả về sau nữa, hình như cho đến khi chết hai người cũng không hề hoài nghi gì về sự đánh giá lẫn nhau như vậy và có căn cứ vững vàng hay không. Nhưng vấn đề không phải là cá nhân Giáo Hoàng. Theo quan điểm của Napoléon, tổ chức giáo hội Thiên Chúa Giáo là một lực lượng không thể coi thường được, không những vì nó có thể gây nên nhiều thiệt hại nếu nó đứng về phía kẻ thù, mà hơn nữa, nó còn có thể có rất nhiều tác dụng nếu lôi kéo được nó về phía mình. “Bọn thầy tu có nhiều tác dụng hơn bọn Cagliostro, bọn theo thuyết Kant và tất cả những nhà ảo tưởng của các nước Đức”, Napoléon đã nói như vậy, vừa liệt gã bịp bợm Cagliostro vào cùng một giuộc với nhà triết học Kant, và Napoléon nói thêm rằng những người sinh ra như vậy, họ muốn tin vào sự huyền bí thì để họ đi nhà thờ và học giáo lý lại tốt hơn là để họ triết lý quá nhiều. Napoléon biện luận: Người ta tiêm chủng cho mọi người để tránh cho họ bệnh đậu mùa. Nói một cách khác, thoả thuận với cái lão bá tước Chiaramonti bợm già ấy là hay nhất vì hắn tự xưng là Giáo Hoàng Pius VII, và khi bản chất người đó còn đủ ngu ngốc để tin vào vị đại diện của Đức Thượng Đế ở trên trái đất, thì tuyển mộ vô số bọn mật thám “áo đen" của Giáo Hoàng Pius VII vào làm việc bên cạnh bọn sen đầm và cảnh binh của Fouché sẽ hay hơn là để cho kẻ thù của mình, bọn Bourbon sử dụng đội quân thầy dòng, thầy cả đông như kiến ấy, sẽ hay hơn là ném thần dân của mình vào tay bọn ảo tưởng và những nhà triết học không thể tóm cổ lại được, và sẽ hay hơn là khuyến khích tự do tư tưởng. Hơn nữa, Napoléon hoàn toàn hiểu rằng cái đội quân “áo đen" ấy là những kẻ có ích nhất để hoàn thành việc bóp nghẹt hệ tư tưởng vô cùng ghê gớm của Thế Kỷ Ánh Sáng và của Cách Mạng.
Bản quy ước giữa Giáo Hoàng và Napoléon, mệnh danh là Concordat, ký vào tháng 7 năm 1801, và ngày 15 tháng 4 năm 1802, bản sắc lệnh, mà căn cứ vào đó Napoléon thi hành và quy định tổ chức mới của giáo hội Thiên Chúa ở nước Pháp, được chính thức công bố. Đây là những điểm cơ bản của bản sắc lệnh đó.
Napoléon thừa nhận Thiên Chúa Giáo là “tôn giáo của đại đa số công dân Pháp”, nhưng không phải là tôn giáo của Nhà Nước, cũng như trước thời Cách Mạng. Napoléon cho phép tự do tín ngưỡng trong cả nước. Đáp lại, Giáo Hoàng cam kết không bao giờ yêu sách đòi lại đất đai của giáo hội đã bị tịch thu trong thời kỳ Cách Mạng. Napoléon tuỳ ý chỉ định các giám mục và giáo chủ theo ý mình, sau đó họ nhận chiếu phong chức của Giáo Hoàng; cả các linh mục do các giáo mục chỉ định cũng chỉ có thể nhận chức sau khi việc lựa chọn đó đã được chính phủ phê chuẩn. Việc công bố các huấn lệnh, trọng sắc và đoản sắc của Giáo Hoàng chỉ được thừa nhận ở nước Pháp khi nào chính phủ ưng chuẩn trong những trường hợp đặc biệt. Đó là những điểm chính của cái “Concordat” tồn tại hơn 100 năm sau thời Napoléon. Napoléon đã không tính lầm. Ngay sau ngày ký Concordat (dưới đế chế), tầng lớp thầy dòng liền đưa vào khắp các trường học của nước Pháp một chương trình giáo lý bắt buộc học sinh phải học thuộc lòng và phải đọc nguyên văn như sau:
“Chúa Trời đã cho Người (Napoléon) là thừa hành uy quyền của Chúa Trời và là hình ảnh của Chúa Trời ở trên trái đất. Kẻ nào thiếu bổn phận của mình đối với Napoléon là cưỡng lại lệnh của Chúa Trời và đáng có tội đời đời”.
Giáo lý đã dạy bảo rất nhiều “sự thật khác” thuộc loại đó. Ngày hội, trên toà giảng, người ta trình giảng rằng “Chúa Thánh Thần” đã quyết định tạm thời hiện thân vào con người Napoléon để thủ tiêu sự hỗn loạn và tính vô đạo của Cách Mạng, rằng những thắng lợi liên tiếp của vị Tổng Tài thứ nhất (rồi của Hoàng Đế) đối với tất cả những kẻ thù của bên ngoài đều được giải thích bằng sự can thiệp trực tiếp của “Chúa Thánh Thần” trong lĩnh vực chiến lược. Trong những tháng tính từ thời gian ký bản hiệp ước tạm thời giữa Giáo Hoàng với Napoléon đến thời gian hợp pháp hóa bản điều ước Concordat, Napoléon ban hành sắc lệnh khen thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh, một loại huân chương còn tồn tại đến tận ngày nay ở nước Pháp. Ngay từ đầu năm 1801, Napoléon đã có ý đồ ban hành một loại huân chương để khen thưởng cho ngành quân sự và hành chính. Sự khen thưởng bao gồm nhiều mức và phải do người có quyền lực tối cao phong tặng.
Dưới thời Napoléon, nền tảng hệ thống giáo dục đã được đặt ra và còn tồn tại đến tận ngày nay hầu như không có gì thay đổi. Đúng là hệ thống này bao gồm các trường sơ học, nhưng trong phạm vi đại học và trung học thì không có một sự sửa đổi căn bản nào. Cao nhất là trường đại học đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Trưởng Giáo Dục. Trường đại học dưới thời Napoléon quản lý bậc đại học và những trường trung học (bậc chuyên khoa). Chỉ những trường chuyên nghiệp cao đẳng, thành lập dưới thời Napoléon, mới có nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo kỹ thuật viên, kỹ sư, quản lý văn khế, các chánh án, các viên chức ngạch hành chính và tài chính, v.v. Kỷ luật của các trường nghiêm khắc như kỷ luật quân sự, thi cử rất ngặt. Còn đối với các trường trung học thì mục đích chính là đào tạo sĩ quan. Ra trường, học sinh qua một thời kỳ thi bổ sung để vào các trường quân sự chuyên nghiệp. Học sinh cũ của các trường trung học có thể vào thẳng các cơ quan hành chính để làm việc, nhưng dĩ nhiên không được hưởng những đặc quyền đặc lợi và cũng không có tiền đồ sáng sủa bằng những học sinh, sau khi ở trường trung học ra, đã qua trường cao đẳng này hoặc cao đẳng khác.
Napoléon thích là người đỡ đầu cho ngành khoa học. Napoléon dành rất nhiều sự ưu đãi đối với những nhà toán học, hóa học, thiên văn học, vật lý học và tỏ ra đặc biệt chú ý đến các nhà khảo cứu về Ai Cập vì ngành khảo cứu về Ai Cập trở thành một ngành khoa học bắt đầu từ cuộc viễn chinh của ông ở bờ sông Nile.
Nhưng Napoléon yêu cầu ngành khoa học có những kết quả thực tế và chỉ hoàn toàn qua giá trị thực dụng mà đánh giá những kết quả đó. Trước hết, Napoléon muốn khoa học phải góp phần vào “sự vinh quang của đế quốc” (như Napoléon đã phát biểu trong một bức thư gửi cho Laplace, viết từ Vitebsk vào năm 1812). Trong những điều kiện ấy thì ngay cả những ngành khoa học trừu tượng như thiên văn học cũng có thể giúp ích nhiều.
Nhưng Napoléon không thích những ngành khoa học lịch sử và đối xử với những ngành này bằng thái độ nghi ngờ. Chẳng hạn, Napoléon không thể nào ca tụng được Tacite[28], vì Tacite đã tỏ ra khinh mạn các vị Hoàng Đế La Mã. Triết học, đặc biệt triết học của Thế Kỷ Ánh Sáng, đối với Napoléon chỉ là “một thứ tư tưởng” đáng ghét; trong kinh tế chính trị học (và đặc biệt là trong chủ nghĩa trọng nông), Napoléon chỉ nhìn thấy sự bịp bợm. Dưới thời Napoléon, nền giáo dục ở trường đại học và trung học có khuynh hướng đặc sệt thực dụng và thuần túy kỹ thuật.
Trước hết, Napoléon có ý thức tự đặt mục đích xóa bỏ không những kỷ niệm của thời kỳ Cách Mạng vừa mới qua đi và xóa bỏ cái “hệ tư tưởng" cách mạng mà ông ta rất ghét ấy, lại còn xóa bỏ cả những thực tế lịch sử, những sự kiện của những năm ấy. Napoléon cấm viết về đề tài cách mạng, cấm cả ghi chép về cách mạng cũng như những con người của thời đại đó. Trên đời không có Robespierre nào đã sống cả, Marat, không, Babeuf, không, và chính Mirabeau cũng không hề có. Năm 1807, Viện Hàn Lâm Paris, khi có một người hoàn toàn không dụng ý gì buột miệng nói đến Mirabeau thì Napoléon nổi khùng, viết thư cho Bộ Trưởng Công An nói rằng công việc của chủ tịch Hội Những Nhà Bác Học không phải là nói về Mirabeau. Ngay cả danh từ “cách mạng” cũng bị trục xuất khỏi báo chí.
Vừa lên ngôi trị vì, như chúng ta đã biết, Napoléon đã bắt đầu thực hiện quan niệm chắc nịch của ông ta là muốn điều khiển được báo chí phải có một cái roi và đôi giày thúc ngựa..Được đúng hơn hai tháng sau ngày 18 Tháng Sương Mù, bằng một nghị định ký ngày 27 Tháng Tuyết, Napoléon đã đóng cửa thẳng tay 60 tờ báo, chỉ để 13 tờ sống sót. Nhưng rồi chẳng lâu la gì, 13 tờ đó sụt xuống còn bốn. Bốn tờ báo hàng ngày “lá cải” đó, vì khổ báo quá nhỏ nên người Anh gọi là “khăn tay bỏ túi”, đã đăng toàn những chuyện vô nghĩa đến nỗi hầu như không có độc giả. Napoléon cũng không muốn cho báo chí của ông ta đả kích những nguyên tắc cách mạng, ông ta chỉ muốn rất đơn giản là độc giả không thể nào nhớ lại được rằng xưa kia những nguyên tắc ấy đã được công bố. Chẳng hạn, Napoléon đã cấm lưu hành trong nước Pháp và các chư hầu mấy tờ báo Đức, chỉ vì những tờ báo ấy hướng dẫn một cuộc đấu tranh quyết liệt chống tư tưởng cách mạng và đã tâng bốc Napoléon, người đã dập tắt được cách mạng. Napoléon cấm không cho những tờ báo ấy vào nước Pháp vì: Chính bằng cái kiểu ấy mà những tờ báo đó nhắc nhở đến cách mạng, ông ta không muốn thế. Napoléon cũng đã cấm một cách rất ngặt nghèo những cuốn sách chỉ Nam và những cuốn sách miêu tả địa hình mà trong có ghi chú những sự kiện cách mạng, và những cuốn sách xuất bản trước thời ông ta đã bị lôi ra khỏi các nhà in do những cuộc khám xét liên tiếp. Trong các sách giáo khoa không được nhắc lại rằng “xưa kia” nền Cộng Hòa đã có ở Hà Lan và ở Thụy Sĩ, mặc dù đến năm 1806, Napoléon mới thủ tiêu nền Cộng Hòa ở Hà Lan.
Năm 1810, một gã Brian Bove nào đó có ý định viết một quyển sách nhan đề là “Những hành động của những nhà triết học và của những người Cộng Hòa”. Sau khi phun ra những lời hằn học bỉ ổi chống những người cách mạng và trong khi xu phụ Napoléon một cách trơ tráo nhất, Bove đã tự hào là việc xuất bản quyển sách của y sẽ không gặp khó khăn gì. Nhưng chính vì vậy mà y lầm: Sách bị cấm và bị tịch thu... vì trong cuốn tài liệu công khai đó, Bove đã khuấy động những kỷ niệm đau thương. “Chủ nghĩa Jacobin bí mật” là cái tội mà chính phủ Napoléon không bao giờ tha thứ cho những người cầm bút. Và thứ “chủ nghĩa Jacobin bí mật” ấy đã được biểu hiện bằng những hình tích tinh tế rất bất ngờ, thí dụ: Tác giả tán dương đạo đức trong sạch của Aristotle hoặc đức liêm khiết của Caton, lập tức anh ta bị tình nghi ngay: Có phải tác giả muốn tán tụng những chính phủ Cộng Hòa không? Vì Athen và Roma đều là những nước Cộng Hòa.
Napoléon khống chế việc xuất bản báo chí, sách vở của các dân tộc bị khuất phục cũng bằng một cái ách nghẹt thở như vậy. Chỉ hơi đả động bóng gió đến sự nô dịch của tổ quốc là không những toà báo bị đe dọa đóng cửa, bị tịch thu sách, mà còn nguy hiểm đến cả con người của tác giả. Người hàng sách Panmar đã bị bắn ở Nuremberg, theo yêu cầu của Napoléon, chỉ vì Panmar đã từ chối việc phát giác tên tác giả một cuốn sách mà Napoléon không thích. Cái gương đó đã chỉ rõ điều gì đang chờ đợi những nhà văn và những nhà xuất bản ở những nước bị chinh phục nếu họ thoáng có ý gì than vãn cho số phận của tổ quốc bị áp bức.
Bằng những biện pháp khắc nghiệt nhất để xoá bỏ mọi kỷ niệm về các sự kiện và về các nguyên lý cách mạng ở Pháp, và theo dõi không kém phần khắc nghiệt mọi bài báo ám chỉ sự giải phóng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết của Châu Âu bị chinh phục, đó là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ đường lối chính sách của Napoléon trong lĩnh vực xuất bản.
7Hai tháng sau trận Marego và vài tuần lễ sau khi ở Ý về, bằng nghị định ngày 12 tháng 8 năm 1800, vị Tổng Tài thứ nhất lập một uỷ ban phụ trách chuẩn bị dự thảo “dân luật”, tạo thành một bộ luật làm nền tảng cho toàn bộ đời sống pháp lý ở nước Pháp và ở các nước bị chinh phục. Vì công việc này vấp phải nhiều khó khăn quá lớn nên Napoléon đã phải hạn chế số uỷ viên của uỷ ban này trong số bốn người. Ông không chịu được những uỷ ban lớn, những bài diễn văn dài, những cuộc họp liên miên lu bù. Nhưng tất cả bốn uỷ viên đều là những nhà làm luật lỗi lạc.
Sau này, bộ luật ấy mang tên là “luật Napoléon”, được phê chuẩn bằng một sắc lệnh ký năm 1852, và cái tên đó vẫn còn chưa được chính thức đổi, mặc dù người ta cũng còn gọi nó là “dân luật”.
Ý đồ của nhà làm luật là bộ dân luật của Napoléon phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý và là sự củng cố những thắng lợi của giai cấp tư sản đối với chế độ phong kiến, và phải bảo đảm một cách vững chắc địa vị của quyền tư hữu trong xã hội mới, bằng cách bảo đảm nguyên tắc sở hữu tư sản vô hạn độ, chống mọi cuộc tiến công bất cứ ở đâu đến: Của chế độ phong kiến còn ngắc ngoải, hoặc của thợ thuyền muốn vùng lên phá xiềng chặt xích.
Napoléon cho rằng cách mạng đã xảy ra ở nước Pháp, không phải vì nước Pháp muốn tự do mà là vì nước Pháp muốn bình đẳng. Vậy là, Napoléon hiểu bình đẳng theo nghĩa bình đẳng về điều kiện xã hội và kinh tế trong cuộc sống của những người công dân. Và Napoléon đã quyết định bảo đảm cho sự bình đẳng về quyền công dân đó một cách vững chắc bằng bộ luật của mình. Nói về cách mạng, Napoléon nói: “Tự do chẳng qua chỉ là một cái cớ”. Và sau khi đã hủy bỏ quyền tự do chính trị, Napoléon đã bảo đảm và luật lệ hoá “quyền bình đẳng”, theo như ông ta hiểu.
Đứng về mặt sáng sủa, về mặt tinh thần mạch lạc chặt chẽ và về mặt logic được vận dụng vào việc bảo vệ Nhà Nước tư sản, có lẽ Bộ Luật Napoléon đáng để cho những nhà làm luật ở các nước tư bản đã khen ngợi và tiếp tục khen ngợi. Tuy vậy nhà bình luận thiên vị nhất cũng không thể nào chối cãi được rằng so với nền pháp chế của cuộc cách mạng tư sản Pháp thì bộ luật đó đánh dấu một bước lùi, mặc dầu nó có tiến bộ so với những luật lệ hiện hành ở các nước khác trên lục địa Châu Âu. Ngoài ra, nó chẳng có gì hơn là sự phế bỏ vô vàn thắng lợi của cách mạng.
Napoléon đặt người phụ nữ tuỳ thuộc vào người chồng và hơn nữa ở vào địa vị thấp kém và bất lợi đối với những anh em trai về quyền thừa tự. Luật cách mạng, đặt một cách nhân đạo “con hoang” và “con đẻ” đều bình đẳng trước pháp luật, đã hoàn toàn bị thủ tiêu. “Tội tước quyền công dân”, cũng như những hình phạt nhục hình khác đối với những người bị kết án khổ sai đã được khôi phục, mặc dù cách mạng đã thủ tiêu cái hình phạt ác nghiệt đó của toà án. Để xây dựng xã hội mới, Napoléon đã tính đến tất cả những điều bức thiết nhằm bảo đảm tự do đầy đủ nhất và rộng rãi nhất cho hoạt động kinh tế của gia cấp đại tư sản và quét sạch tất cả những cái gì là biểu hiện nguyện vọng dân chủ của giai cấp tiểu tư sản.
Người ta có thể tự hỏi rằng trong khi hoàn thành sự nghiệp to lớn đó, mà kết quả là việc tạo nên bộ dân luật, có xuất hiện sự kháng nghị nào không? Có xuất hiện những ý đồ bảo tồn tính chất rộng rãi của những quan điểm cách mạng trong pháp chế mới không? Quả nhiên là đã có. Khi bộ luật đưa thông qua theo thủ tục “pháp chế” thì cũng có một vài người ở Ủy Hội Pháp Chế dám lên tiếng rụt rè chỉ trích vài điều, nhưng sự phản đối yếu ớt đó không có tiếng vang nào cả. Những điều chỉ trích mà ta vừa nói đến đã bị gạt đi một cách dễ dàng nhất trên đời: Bonaparte thanh trừ Ủy Hội Pháp Chế đến nỗi chỉ còn lại 50 uỷ viên câm như hến và ông ta quy định số uỷ viên của cái hội đồng đó từ nay trở đi không được quá số ấy. Việc cải cách hiến pháp đó một khi đã bất thình lình thành sự thật thì mọi việc đều trôi chảy. Tháng 3 năm 1803, Bộ Luật Napoléon sau khi đã được Hội Đồng Chính Phủ bàn cãi, được đưa lên Hội Đồng Lập Pháp thông qua, hội đồng này cũng không có quyền tranh luận, đã lặng lẽ thông qua từng điều một. Tháng 3 năm 1804, bộ luật có mang chữ ký của Napoléon trở thành nền tảng pháp luật của khoa pháp luật học nước Pháp. Giai cấp đại tư sản Pháp đã toại nguyện: Cách mạng tư sản đã đẻ ra cái kết quả di phúc của nó (đẻ ra sau khi chết - N.D.) và bởi vậy mà rõ ràng là sau ngày 18 Tháng Sương Mù không còn có khả năng nói đến việc tiếp tục cách mạng ở nước Pháp nữa. Nhưng không một nhà viết sử nào được phép quên yếu tố tiến bộ to lớn của bộ luật đó đối với những nước Châu Âu bị Napoléon chinh phục.
Sau này còn có nhiều luật lệ khác phụ thêm vào bộ luật đó, nhờ vậy mà Napoléon mới áp chế được giai cấp thợ thuyền một cách chắc chắn hơn bao giờ hết. Không những luật Le Chapelier[29] năm 1791 được thi hành - theo luật này những vụ bãi công hòa bình nhất và ngay cả lãn công cũng là tội phải đưa ra toà án - người ta còn lập ra “tiểu bạ” nằm ở trong tay người chủ và không có tiểu bạ đó người thợ không thể tìm đâu được việc làm. Trong tiểu bạ, người chủ cũ ghi sự chứng thực của mình về người thợ đã thôi việc và lý do người chủ cũ đã thải người thợ. Người ta lấy làm dễ chịu biết mấy khi những người chủ lạm dụng được “thứ tự do vô hạn độ đó” để tước đoạt tiền công và mẩu bánh mì của người thợ.
Theo lệnh của Napoléon, cũng vào thời kỳ đó, luật thương mại được thảo ra đã bổ sung vào toàn bộ nền pháp chế dân sự bằng một loạt điều khoản quy định và bảo đảm về mặt pháp lý quyền thông thương, sự hoạt động của thị trường chứng khoán và của ngân hàng, luật hối đoái và quyền quản lý văn khế, nghĩa là những hoạt động có liên quan đến việc buôn bán. Cuối cùng, Napoléon hoàn thành về căn bản sự nghiệp pháp chế của ông ta bằng việc lập bộ hình luật. Napoléon duy trì tội tử hình, khôi phục hình phạt đánh roi đã bị cách mạng thủ tiêu, khôi phục hình phạt đóng dấu sắt nung đỏ đối với một vài tội, và đặt ra nhiều hình phạt hà khắc đối với tất cả những âm mưu chống lại quyền tư hữu. Nền pháp chế hình sự của Napoléon là thoái bộ so với luật lệ của thời kỳ cách mạng, điều đó không cần bàn cãi.
Sự nghiệp pháp chế to lớn đó vẫn còn chưa hoàn thành vì tháng 3 năm 1803, chiến tranh với Anh lại bắt đầu. Napoléon lại tuốt gươm ra cho mãi tới khi kết thúc thiên anh hùng ca dài và đẫm máu mới lại tra gươm vào vỏ.
Chú thích:
[25] Người vô thần (athée), người phủ nhận tôn giáo, phủ nhận sự tin tưởng vào những phép lạ, vào đời sống bên kia thế giới sau khi chết. [26] Tự nhiên thần luận (désime), học thuyết này thừa nhận sự tồn tại của Thượng Đế, chỉ về phương diện Thượng Đế là nguyên nhân có trước, nguyên nhân không có nhân cách của thế giới, còn ngoài ra thì vũ trụ bị những quy luật tự nhiên chi phối. [27] Thuyết thần bí (mýticisme), hình thức của thế giới quan tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa thần bí công nhận khả năng liên hệ giữ người và thần linh, khả năng đi sâu vào những “bí mật” của sự vật bằng “sự truyền bảo” của thần linh v.v... [28] Tacite, nhà sử học La tinh sống ở La Mã (khoảng năm 55-120) là nhà sử học thiên vị và đã bóp méo lịch sử theo quan điểm của mình. [29] Le Chapelier, đạo luật cấm các tổ chức công nhân và quy định phạt tiền và tống giam những người cầm đầu hoặc tích cực đấu tranh trong các cuộc đình công.