khi chùa khép cửa
Dạ, nhìn mái ngói âm dương rêu phong này, con đoán ngôi chùa cũng đã nhiều tuổi rồi, đúng không thầy?!
- Ừ, chùa này đã hơn một trăm năm chục tuổi rồi, là chùa cổ nhất vùng này đấy.
- Dạm thi thoảng con có ghé vào đây ngắm cảnh chùa, nhưng thấy chùa thường đóng kín cửa. Dạ, hình như chùa này chỉ mở cửa vào những ngày rằm, lễ lớn?!
- À, thật ra là chùa chỉ khéo cửa chứ không đóng, trong chùa lúc nào cũng có người, nếu khách muốn viếng thăm thì cứ đẩy cửa vào, lúc nào nhà chùa cũng đón tiếp, không phân biệt là ngày nào đâu!
Dường như thấy lời giải thích đó vẫn chưa thỏa đáng, sư thầy nói thêm với tôi:- Đáng lẽ của chùa phải luôn rộng mở, nhưng thật tình là chùa quá neo người mà trong vài năm nay xảy ra trộm cắp ghê quá. Đành lòng, chùa phải khép cửa, để nếu có ai vào may ra còn biết.
Thì ra vậy. Câu chuyện về nạn mất cắp cổ vật trong chùa nào phải là chuyện đâu xa, mà nó đã diễn ra tại ngôi chùa cổ nhỏ bé, nơi làng Mai ngoại thành này, nơi mà mỗi khi đến đây cơ hồ tôi luôn tìm thấy sự bình yên. Sư thầy bảo, họ ăn cắp của chùa công khai mà chớp nhoáng lắm, cứ giả như là khách viếng chùa, rồi bất thình lình ôm pho tương Phật hay lư hương mà vùng chạy. Đằng trước hình như có xe ôm chờ sẵn, nên biến nhanh trong chớp mắt. Cũng có những đồ vật bị mất trong đêm khi người nhà chùa sơ hở. Nói chung là phòng người ngay chứ ai phòng kẻ gian. Có lẽ vậy, nhìn mấy sư thầy tuổi già thân yếu, tôi nghĩ chuyện “tay không bắt cướp” là bất khả thi. Nhưng chẳng lẽ cứ buông xuôi, cứ đểcổ vật trong chùa thành… của chùa đến cạn kiệt hay sao? Sau vài lần trò chuyện, dường như thấy gương mặt tôi có vẻ “khả tín”, sư thầy tâm sự, thật ra chùa vẫn còn một ít cổ vật, nhưng biết không phòng được kẻ gian nên đã mang cất giấu vào một nơi khác. Giờ đây, tất cả những hiện vật bày biện trong chùa là được đặt làm mới hoặc giả cổ, tất nhiên là với giá trị của sự thế chỗ tạm thời.
Thế nhưng cái tạm thời của những vật giả là bao nhiêu lâu? Câu trả lời có thể chỉ là một tiếng thở dài. Sự đời “lộng giả thành chân”, cái giả, giả riết rồi tưởng thật, coi là thật.
Còn cái thật, chẳng biết rồi có chỗ quay về? Không có một chú thích nào cho những vật giả cổ, và không phải ai cũng biết vài câu chuyện nội bộ của chùa như tôi, cho nên sự ngộnhận chắc chắn sẽ xảy ra. Và, mọi sự ngộ nhận dù ở góc độ hay khía cạnh nào cũng là điều đáng tiếc.
Nhà chùa có lý khi mang cổ vật cấy giấu để khỏi bị đánh cắp, thế nhưng vô tình lại đánh mất đi cái lay động tâm linh vô hình nơi người chiêm bái. Ai cũng biết đồ vật vô ngôn, nhưng đồ vật có hồn vía của nó. Không chỉ thế, những cổ vật trong đình chùa còn là di chỉ về văn hóa. Và, như thế tự bản thân cổ vật sẽ “nói” lên nhiều điều hơn là những thuyết trình, nếu có.
Từ khi biết trong chùa có những cổ vật mang đi giấu, trong tôi luôn mơ hồ một sựkiếm tìm, như tìm về chốn thuần nguyên của bản thể, nơi mọi vật được sắp đặt như ban đầu. Chùa khéo cửa, đơn giản chỉ để ngừa bớt trộm cắp, chứ chẳng phải bày ra một “công án” gì. Thế nhưng, mỗi khi nhìn vào những cánh cửa chùa khép kín, tôi thấy như đang diễn ra một sự đi vắng. Không phải người nhà chùa đi vắng, cũng không phải người chiêm bái vắng xa, mà đang dần vắng đi những điều thiện nguyên sơ, những niềm vui tỏ mở nơi con người.
khoảng vườn xuân Nhà ở ngoại thành nhưng không có vườn. Trong khoảng hẹp của thềm hè chỉ đặt được vài chậu cây, treo dăm giò phong lan gọi là. Thế nhưng, ước vọng về vườn, dù thầm kín, nhiều khi vẫn bừng lên thật lạ. Trên ban-công, ngoài bồn cây bông trang, tôi cũng cố tận dụng những khoảnh trống còn lại để trồng những khoanh cải nhỏ trên những hộp xốp. Khi nhìn những hạt cải từ lúc ươm mầm đến nhú xanh mơn, là thất chút niềm vui trong veo như đang dần phủ sóng. Nhưng vài khoảnh cải xanh trên hộp xốp đâu thể gọi là vườn, dù chỉgọi khiêm tốn: một khoảnh vườn! Thế mà cuối cùng cũng có một khoảng vườn.
Cái khoảng cười mà chúng tôi có được bắt đầu từ lúc vợ tôi sinh thằng nhóc thứ hai.
Trong tình cảnh ngặt nghèo không tìm được người giúp việc thì ba tôi đã “tình nguyện” từ quê vào trông cháu. Câu chuyện ông nôi trông cháu sẽ là một câu chuyện không kém phần thú vị, nhưng có lẽ sẽ dành kể trong một dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn kể lại câu chuyện về vườn.
Khi vào trông cháu mới được vài ngày, ba tôi chợt thấy mảnh đất sát tường nhà bỏtrống. “Uổng quá. Sao không dọn dẹp, sửa soạn để làm một miếng vườn?” – ba tôi hỏi vậy. Tôi nghe cũng chỉ biết cười trừ, bởi mảnh đất ấy đâu phải của chúng tôi, là đất trống nhưng không phải là vô chủ. Tôi phong phanh được biết chủ của mảnh đất này vẫn đang định cư ở nước ngoài, họ chỉ mua để dành, và giao cho người cháu có nhà gần đó coi ngó giùm.
Rõ ràng là ba tôi muốn gieo trồng một vài thứ trên mảnh đất đó. “Để vậy cho vui, chứbỏ uổng” – ông cứ nói vậy, rồi cứ đi ra nhìn miếng đất trống cỏ dại mọc đầy. Tôi cũng bắt đầu nghĩ như ba tôi. Rồi, một chiều nọ, tôi qua nhà người cháu – người được giao trông coi miếng đất ấy để có mấy “lời thưa”. Sau khi nghe tôi trình bày, anh bạn trẻ vui vẻ nói ngay:
“Ồ, tưởng chuyện gì, chứ rau thì cứ thoải mái đi”.
Ba tôi bắt đầu sắm một vài vật dụng để dọn cỏ và xới đất lên. Nhưng hạt giống thì được mua dễ dàng từ những cửa hàng rau quả ngoài phố. Dù được đồng ý, nhưng chúng tối cũng không dám “thoải mái” làm như ý muốn. Bởi, nếu làm một mảnh vườn cho ra vườn, có hàng rào chắc chắn, thì sợ người ta nghĩ mình “âm mưu” chiếm đất (!). Cho nên, ba tôi chỉ sửa soạn một khoảnh đất nhỏ, rào chắn sơ sài bằng những cành cây nhỏ. Thế mà, từnhững khoảnh đất sát bên tường nhà đó, một dây mướp đã vươn lên phủ xanh cả mái hiên nhà tôi. Ban đầu, cả nhà ai cũng nghĩ đó là giống “mướp đực” vì chờ khá lâu mà không ra trái. Thế rồi, đột nhiên, giàn mướp buông trái không kịp đếm. Ai ai quan cũng ngó lên nhìn, có nhiều người chạy xe qua một đoạn còn ngoái đầu nhìn lại.
Trên khoảnh đất nhỏ đó cũng mọc lên vài khóm bạc hà, dăm cây ớt, một hàng đậu bắp, một dây mồng tơi, và một vạt rau cải cùng mọc với rau muống. Cho đến bây giờ, thằng nhóc nhà tôi đã hơn một tuổi, dù chưa hề biết thế nào là vườn, những nó đã ăn rau hoàn toàn từ khoảnh vườn đó. Có lẽ nó là đứa trẻ hiếm hoi được ăn rau sạch từ khoảnh vườn… không phải của nhà mình (!). Còn tôi, sướng nhất là vào những xế chiều bụng đói, bước ra khoảnh vườn ngắt vài ngọn rau muống, bứt vài trái ớt mang vào nhà. Rau muống rửa sạch, ớt dầm ước mắm gin, rồi lấy cái bánh tráng nướng sẵn để trong bao mang ra nhúng nước, cuốn rau muống, chấm nước mắm. Chỉ đơn sơ vậy thôi mà ngon lành không thể tả.
❀❀❀
Ba tôi thường dậy sớm đi tập thể dục, rồi quay về tưới cây, chăm sóc khoảnh vườn. Có hôm, khi chúng tôi dậy, nghe ông phàn nàn là có ai đó đã hái mất mấy trái mướp. “Họ giựt bằng tay, vì thấy cuốn bị sứt tưa, làm đứt luôn cả một dây. Có thể là hai đứa nhỏ đồng đồng lên vai nhau để hái” – ba tôi phỏng đoán vậy. Có hôm ông thông báo là đã thấy những dấu chân lạ bước vài trong vườn, nhưng không thấy bị mất cái gì. “chắc là ai đó đã vào hái mấy trái ớt?”. Chúng tôi nghe những thông tin đó kèm với nụ cười và chút niềm vui len nhẹ. Cũng có buổi chiều khi tôi đang đứng nhìn khoảnh vườn, có người đi ngang qua đập vào vai tôi, rồi… dọa: “ Nhìn mấy trái đậu bắp ngon quá, bữa nào tui hái trộm đó nghen”. Nghe dọa trộm mà bật cười.
Ba tôi đã về quê để chuẩn bị đón tết quê. Trước khi về, ông chặt thêm mất nhành cây gai để rào chắn lại khoảnh vườn. Tôi đi xa dăm ngày, khi về thấy một đợt cải đang lên xanh mơn, nhìn thật mát mắt. Ngoài bìa rào còn thấy những cây hoa mào gà đang nhú lên những mầm lửa đỏ. Trong tiết se lạnh của những ngày cuối năm, mà lòng thấy như ấm lại.
Buổi chiều ngồi một mình ở khoảnh vườn, chợt thấy một năm trôi qua thật nhanh, chợt nghĩ về những cuộc thương lượng không kém phần gay cấn trong cõi người, kể cả cõi quỷthần. Thế mà, dường như chẳng mấy ai nghĩ đến một cuộc thương lượng nho nhỏ để được trồng rau và hoa trên những mảnh đất bỏ hoang. Để rồi cứ đất trống là thấy cỏ và rác. Tất nhiên, không phải cuộc thương lượng nào cũng thành công may mắn như chúng tôi. Nhưng dù có may mắn hay không thì vẫn cứ thử, không phải để thỏa mãn giấc mơ vườn, mà đểkhông bỏ phí những khoảnh xanh tươi quanh mình.
Và, trên khoảnh vườn đó, đâu chỉ có rau và hoa, mà còn có cả một thế giới không ngừng sinh hóa của con sâu, cái kiến, bươm bướm, chuồn chuồn… Một mùa xuân sẽ dừng lại ở những khoảnh khắc, nhưng trí nhớ về khoảnh vườn xuân thì như kéo dài bất tận. Cho dù, với tôi, đó là khoảnh vườn… trồng ké trên đất một người xa lạ.
Làng Mai, trung tuần tháng 1/2009
TB: Bây giờ, khi tôi ngồi viết những dòng ghi chú này (tháng 6/2009) thì khoảnh vườn kia đang tốt xanh um. Những cơn mưa mùa hạ đã thay tôi tưới mát khoảnh vườn. Trên bờ rào vườn những ngọn mồng tơi xanh mướt quấn quýt cùng những dây khổ qua. Mỗi buổi chiều vẫn có người trong xóm đi ngang qua, đứng lại ngắm, và có những người xin đọt non mồng tơi về nấu cháo cho bọn trẻ. Còn rau lang và rau muống thì tôi phải cắt liên tục. Tất nhiên là ăn không hết, phải mang cho khắp láng giềng.
Có anh bạn vẫn thường càm ràm rằng, đời sống là mấy, nhưng xem ra cái nghề viết văn viết báo như bọn tôi “hẻo” quá. Cứ phải mệt óc chuyện mưu sinh, phải dè sẻn, rón rén; chẳng bao giờ có được những phút hoành tráng. Sống như thế, Nam Cao gọi là “sống mòn”. Ngẫm cũng đúng. Nhưng đời sống vô cùng, biết đâu là họa đâu là phúc.
Thôi thì, cứ vui với cảnh hiện tại. Và, cứ đâu phải giàu sang mới xem là sống hoành tráng? Như thế này chẳng phải là sung sướng ư?
Chiều về ngắt đọt rau lang
Luộc lên chấm mắm… ngang tàng ngồi xơi.