Chương 1 Thằng tôi tuổi 18
Đã 11 năm kể từ hồi tiểu học. Tôi vẫn đến lớp đều đều chỉ có điều, thật lòng mà nói, hầu như tôi chẳng nhớ nội dung tiết học nào hết.
“Việc của bạn là chơi” là điều người ta vẫn nói về thời con nít. Nhưng rốt cuộc quãng thời gian quý giá đó có ý nghĩa gì đâu bởi hơn nửa số đó, một đứa trẻ sẽ phải đối diện với nỗi đau khổ bị nhốt vào một căn phòng vuông để buộc phải nghe ai đó nói. Hẳn là chẳng phải riêng mình tôi nghĩ thế.
Với tôi, mỗi ngày đi học chỉ là một ngày vừa liếc đồng hồ vừa sốt sắng chịu đựng sự đau khổ trôi qua. Một ngày bình thường, trong đầu tôi là những phép tính phân số:
Giờ học bắt đầu được 5 phút… “mãi mới qua 1 phần 10 tiết…”
5 phút tiếp theo… “và 1 phần 5 tiết…”
Sau 2 tiếng đồng hồ… “1 phần 3 ngày đã xong”…
“Cái sự đi học” là như vậy.
Thật ra, nếu nhớ được những thứ được dạy vào đầu chắc tôi cũng có thể vào đại học, và nếu thế thì hẳn cũng có đôi chút tích sự. Thế nhưng, với tôi, nếu có gì đó thu được từ những buổi học thì hẳn do là sự kiên nhẫn. Tôi cũng định chăm chú nghe lời giảng của thầy giáo đang đứng trước mặt đấy chứ, nhưng kiến thức vẫn vào tai phải rồi ra tai trái. Tự tôi cũng thấy chán ghét, chẳng hiểu sao lũ kiến thức đó không chịu ở yên trong đầu nhỉ?
Trong các bộ phim học đường, không thiếu những cảnh trong giờ học lũ học sinh cuối lớp nghịch ngợm, ngồi lên bàn ném đồ, chơi game, đánh bài, chơi mạt chược… hay bất cứ thứ gì chúng muốn. Nhưng ở lớp tôi chẳng có những thành phần gây rối làm phiền những đứa đang học, quá lắm cũng chỉ tới mức nằm bẹp xuống bàn ngủ.
Phải nói là vì lớp này là lớp của những kẻ sẽ học lên cao. Bởi vì quá nửa lớp là những “bé ngoan” đang học để thi đại học.
Cũng có những đứa ngồi trong lớp chơi game hoặc cắm tai nghe nhạc. Nhưng đó là chuyện của lớp khác. Tôi không định nói là tôi nghi ngờ gì việc một lớp như vậy và một lớp như lớp mình có thể tồn tại trong cùng một ngôi trường, mà là tại đây, học sinh được phân loại theo học lực từ năm đầu, và lớp nào có số học sinh không thi đại học chiếm phần đa cũng có nghĩa ở lớp đó kiểu dự thính trên được thầy cô âm thầm chấp nhận, miễn không làm phiền đến những học sinh khác. Chỉ có điều đó lại là thứ không được chấp nhận trong lớp của tôi. Tôi thì chỉ nhìn cái cặp treo bên hông bàn và nghĩ đến chiếc máy nghe nhạc. Giá có thể cắm tai nghe vào thì hẳn là loáng một cái sẽ hết giờ rồi không cho vào máy nghe nhạc của mình những bản nhạc mà là những mẩu rakugo[1]. Tôi thích nhất là nghe rakugo của những nghệ nhân nổi tiếng.
Dĩ nhiên, tôi cũng nghe nhạc, nhưng trong lúc này, thứ tôi muốn nghe nhất định là rakugo!
“Giá mà…” - tôi nghĩ thế nhưng chẳng có dũng khí để cho tay vào cặp lôi cái máy nghe nhạc ra. Mà không, không hẳn là không có đủ dũng khí, vốn dĩ tôi cũng chẳng muốn làm những việc như thế. Chẳng phải tự khen gì đâu nhưng tôi thuộc kiểu không thích thú gì những hành vi tương tự.
Do đó, giờ học đối với tôi chẳng mang lại gì ngoài chuỗi lê thê những sự chịu đựng và những phép tính phân số.
Người đã làm một cuộc cách mạng nho nhỏ cho cái đứa tôi đó là thầy Miyashita.
Kì mùa xuân năm lớp 11, tôi chọn môn Lịch sử Nhật Bản và lần đầu bước chân vào lớp thầy Miyashita. Buổi học đầu tiên, thầy đã viết lên bảng hai câu tiếng Anh và bảo cả lớp hãy ghi vào trang đầu và trang cuối vở mình:
“Be the change you wish to see in other people.”
“Live as if you were to die tomorrow.
Learn as if you were to live forever.”
Rồi thầy lại dành ra cả tá thời gian nữa để giải thích những câu tiếng Anh đó: nào là “các câu trên đều bắt đầu bằng động từ nên đó là câu mệnh lệnh”, nào là “ngay trước chủ ngữ và động từ giữa câu có danh từ nên đây là rút gọn của đại từ quan hệ” hay “câu này dùng mẫu câu giả định nên…”
“Câu đầu tiên có nghĩa là ‘Hãy tự mình trở thành sự thay đổi mà mình muốn thấy ở người khác’, câu tiếp theo nghĩa là ‘Hãy sống như thể ngày mai bạn sẽ chết, hãy học như thể bạn sẽ sống mãi’.”
Chắc chắn, vào giây phút đó, hơn nửa lớp đã quên mất rằng đây là giờ Lịch sử.
Đó là người lớn đã nhóm lên ngọn lửa trong tim tôi.
Đối với tôi, từ trước đến giờ, và kể cả về sau, thầy Miyashita là người duy nhất làm được việc đó.
Mỗi khi học giờ của thầy, tôi lại yêu quý thầy hơn.
Thầy Miyashita thỉnh thoảng lại nói những điều rất ngầu trong giờ học. Chẳng hạn, với đứa than thở cố gắng mãi mà điểm số vẫn vô vọng, thầy sẽ nói: “Gió ngược chiều thổi mạnh chính là bằng chứng cho việc em đang chạy đó. Hãy ưỡn ngực tự hào!”. Hoặc là, với những đứa đang lạc lõng vì thấy sự tồn tại của mình thật nhỏ bé, thầy sẽ nói: “Có thể các em nghĩ rằng nếu mình mình biến mất thì thế giới này cũng chẳng có gì thay đổi. Thật ra thì ngay bây giờ, cũng có thể nếu em biến mất thì chẳng có gì thay đổi thật. Nhưng các em không được quên rằng nếu các em tiếp tục sống thì thế giới này sẽ vô cùng thay đổi. Không được phép đánh giá mình chỉ bằng khả năng ở hiện tại. Bởi vì chắc chắn các em của tương lai sẽ làm được những điều to lớn mà chính mình hiện tại cũng không tưởng tượng ra nổi, sẽ trở thành những người lèo lái hạnh phúc của rất nhiều người. Các em đừng quên rằng mình chính là những mảnh nhỏ có khả năng trở nên vĩ đại vào ngày mai. Con người là loài sinh vật sẽ đạt được những thay đổi kì diệu vì biết cuộc đời này chỉ được sống một lần. Đừng coi thường khả năng của mình năm năm sau!”
Những lời thầy nói chạm đến gốc rễ của mọi vấn đề. Cộng thêm vẻ mặt ân cần, thầy như thể đang đọc cả tâm hồn tôi vậy.
Đương nhiên, cũng có những đứa ghét thầy Miyashita với những lời nhiệt thành ấy, nhưng tôi thực lòng bị thuyết phục. Tôi thấy lối suy nghĩ đó thật bảnh. Cứ nghe thấy câu “các em này!” là tôi lại nổi da gà. Cái trải nghiệm ấy lần đầu tôi trải qua cũng là tại những giờ học của thầy.
Mỗi khi gặp được những “lời nói gây chấn động trái tim” như thế, tôi lại cố gắng chép vào vở. Chẳng biết từ bao giờ, tôi đã muốn làm một quyển vở có lề đầy ắp những lời nói lay động được tâm hồn ấy. Phải chăng việc đó cũng đúng với dụng ý của thầy Miyashita khi đã bảo chúng tôi chép hai câu tiếng Anh vào vở hôm đầu tiên?
Tôi đoán thầy Miyashita là giáo viên trẻ nhất trong số những thầy cô tôi đã gặp. Dù có bị nói là sinh viên thầy vẫn gật đầu nhận nên trong thế nào tôi cũng thấy thầy như mới đôi mươi. Dù vậy, thầy cũng là người tôi kính trọng nhất với tư cách là một người thầy. Nói thế nào đi chăng nữa, thầy Miyashita luôn khác với các giáo viên còn lại.
Những thầy cô khác, khi nói về tương lai họ nhất định sẽ bảo:
“Thời các em sẽ khó khăn lắm đấy. Tội quá.”
“Thời đại từ giờ trở đi sẽ vất vả lắm đấy. Vì thế nếu các em không nghĩ đến việc học hành tử tế, vào được những trường đại học tốt rồi đi làm ổn định thì…”
Dẫu với chúng tôi, việc cứ nghĩ về tương lai rồi thấy bất an là sự thật, nhưng tôi thấy lúc nói những điều đó, những thầy cô ấy thật lạnh lùng, như thể đó là chuyện của người khác ở đâu đó xa xôi vậy.
Tôi cứ có cảm giác như họ đang nói “thời của các em”, “từ giờ trở đi” nghĩa là “không phải thời của chúng tôi”. Hẳn cũng có những thầy cô thật sự đã nói với ý đó.
Thế nhưng thầy Miyashita thì khác.
“Này các em, trở thành người lớn tuyệt lắm!
Các em sẽ có thể sống làm điều mình thích.
Nhất là thời đại từ giờ trở đi, thế giới sẽ trở thành một chốn mới lạ mà không có những thứ nguyên tắc của lúc này nữa, phải thế không?
Chắc chắn là sẽ thú vị lắm đấy. Các em hãy lớn nhanh lên!
Bởi vì các em trở thành người lớn thì tôi cũng sẽ dạy các em nhiều điều hơn nữa.”
Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được ánh sáng của hi vọng tương lai trong lời nói của một người lớn. Và tôi cũng đã nhiều lần được những lời ấy cứu rỗi. Đó là trải nghiệm của một người nhận ra rằng tương lai đã hóa hạnh phúc đến nhường ấy chỉ bởi họ đã tìm thấy một tia hi vọng duy nhất.
Thầy cũng nói với tôi thế này:
“Trên thế giới này, rất nhiều người không nhìn thấy tương lai.
Thế nhưng chẳng phải riêng gì lúc này, mà vốn từ trước đến nay tương lai vẫn là thứ thường không được định trước. Với chúng ta, tương lai lúc nào cũng đã là một khoảng trống.
Cuộc đời mỗi người sẽ khác hẳn nhau phụ thuộc vào việc người ta lấp chỗ trống đó bằng cái gì.
Những người dùng bất an để lấp khoảng trống tương lai sẽ hành động để mưu cầu sự ổn định. Sau đó, khi xảy ra chuyện gì nằm ngoài dự tính, họ sẽ đổ lỗi cho người khác.
Ngược lại, cũng có người lấp khoảng trống ấy bằng hi vọng Những người kì vọng vào tương lai là những người dám lựa chọn sự thách thức. Đương nhiên, có thế thứ dang chờ đợi họ ở phía trước cũng không phải là điều họ đã dự tính. Thế nhưng, người đã lựa chọn thử thách sẽ không đổ lỗi cho người khác Người đó sẽ thận trọng xem xét lại tất cả những gì mình đã làm để tìm ra lỗi sai. Bài học của cuộc đời có được là chính vào những lúc như thế.
Với những người có dũng khí để thử sức với điều mình muốn làm thì thứ đang chờ đợi trong tương lai là những ngày đầy ắp niềm vui, nhiều hơn cả những gì các em hiện có thể tưởng tượng ra nữa.
Điều này chắc chắn không sai.”
Chính vì tin vào những lời nói của thầy Miyashita mà thằng tôi của lúc ấy đã sống với niềm tin vào tương lai. Nếu không gặp những lời ấy từ thầy thì hẳn là tôi vẫn cứ sống mãi với ấn tượng về một tương lai đen đặc.
Tôi đã luôn nghĩ rằng mình quá đỗi hạnh phúc vì có được cuộc gặp gỡ đó.
“Nhật Bản là một đất nước tuyệt vời. Hầu như các quốc gia khác trên thế giới đều khen ngợi và ngưỡng mộ những gì thuộc về Nhật Bản.”
Những điều như thế tôi lần đầu được nghe cũng từ thầy Miyashita.
Từ tiểu học rồi đến trung học, lúc nào tôi cũng được dạy những điều ngược lại.
Vì thế, tôi học đến nửa chừng học phần lịch sử mà mình yêu thích rồi nhưng lại mất hứng và cuối cùng cũng bỏ. Trái lại, môn Lịch sử Nhật Bản được dạy bởi thầy Miyashita đã cho tôi thêm dũng khí và sức mạnh.
Dù thế nào, thầy Miyashita cũng là người lớn duy nhất khiến tôi cảm nhận được rằng “tương lai rất tươi sáng”. Đó không phải là sự thân thiết theo kiểu cá nhân, tôi thật sự kính trọng thầy, và từ sâu thẳm trong tim, tôi biết ơn thầy.
Cho đến một ngày nọ…
Tôi đã vì một chuyện xảy ra mà nghi ngờ và ghét bỏ thầy Miyashita. Chuyện đó, nói một cách đơn giản, hình như là “ghen”…
***
Có một điều đã mãi tồn tại ở đó, và cho đến lúc đó tôi vẫn không nhận ra.
Nếu nói là điều đó giống như bông hoa nở tuyệt đẹp trong khoảng sân trước cửa nhà ai trên đường đến trường thì có hơi văn hoa quá không nhỉ?
Đó là điều mà trước khi tôi để ý nó chẳng hề tồn tại trong thế giới của tôi, nhưng một khi đã lỡ nhìn thấy thì chỉ riêng việc nhìn ngắm thôi cũng trở thành niềm vui mỗi ngày.
Vào thời gian ấy, một cách từ từ tôi dần nhận ra sự tồn tại của điều đó.
Đúng vậy, là một cô gái.
Khi học kì mới bắt đầu được hai tuần, trong một khoảnh khắc, trái tim tôi đã bị cô bé dễ thương cùng lớp cướp mất.
Tên cô ấy là Nagamori Manae.
Nghe đâu cô bé ấy chuyển trường đến đây vì công việc làm ăn của ba.
Trong cái lớp học mà suốt từ năm lớp 11 đến giờ không có mấy thay đổi, việc để ý đến một cô bé dễ thương lần đầu xuất hiện giữa đám bạn bè hẳn cũng là lẽ thường, nhưng thích đến nỗi cứ nhìn mãi không rời thì mới là chuyện xảy ra sau hai tuần bắt đầu kì học.
Mà nhân đây, tôi tên là Ifuku Daisuke.
Trong lớp có 40 học sinh, quy định chung là con trai tên bắt đầu bằng chữ “A” sẽ có số thứ tự trong danh sách là 1. Do đó, mỗi khi kì học mới bắt đầu, tôi chắc chắn sẽ ngồi ở bàn thứ hai hoặc ba dãy ngoài cùng bên trái[2]. Năm nay số thứ tự của tôi là 2. Số 1 là Akusawa. Đại khái vị trí của tôi là có thể chống tay lên khung cửa mà nhìn ra sân tập.
Trong khi đó, tên bắt đầu bằng chữ cái “Na” lại ngồi phía cuối. Chỗ ngồi của cô ấy là bàn thứ hai từ cuối lên ở dãy thứ hai tính từ phía hành lang.
Nếu ta đứng ở giữa lớp, phía bên trái là bên của nam, phía bên phải là của nữ.
Chỉ điều ấy thôi cũng đủ để thấy chúng tôi ở hai thế giới khác nhau rồi. Nhưng trớ trêu thay, thêm vào đó, ngồi ở phía cửa sổ đầy nắng nhìn ngược sáng qua phía hành lang, nửa căn phòng tính từ giữa lớp ra phía đó rất tối khiến tôi chẳng thấy được gì. Trong cùng một phòng học nhưng tôi thấy mình ở một thế giới hoàn toàn khác với cô ấy.
Chính vì vậy, cho đến ngày hôm ấy, tôi vẫn chẳng quan tâm gì tới cái thế giới ở nửa bên kia lớp học.
Vào năm học mới được hai tuần thì lớp đổi chỗ. Chỗ ngồi mới của Nagamori Manae là ghế cạnh tôi. Vào cái giây phút cô ấy tới bên tôi, trái tim tôi đã bị cướp mất.
Tôi có thể thấy mái tóc xoăn lọn mềm mượt xõa trên vai nàng lấp lánh trong nắng. Cần cổ nàng mảnh mai, trắng trẻo sau cổ áo mới trắng tinh. Tôi tự nhủ rằng những điều quá đỗi kỳ diệu thì chẳng thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng cùng lúc đó, tôi đã thực sự làm được điều này. Chỉ cần nhìn nàng là trái tim tôi nhảy loạn lên, góc nào đó trong dạ dày bỏng rạo rực và tôi sẽ căng thẳng vô cớ.
Ba tôi có tiếng ở văn phòng là người luôn đoán biết được mấy chuyện tình yêu. Để ý thấy chuyện đó, tôi về nhà kể với mẹ. Thế mà mẹ lại lảng “Thôi thôi, ông đi làm cơm đi cho tôi nhờ!” nên tôi biết tôi đoán trúng phóc rồi.
“Muốn hỏi sao ba biết không?”
Ba đã có lần mỉm cười tinh quái và ghé sát mặt vào tôi. Dù tôi trả lời “Không, con chả cần” nhưng ba bắt đầu nói mà chẳng chút bận tâm.
“Đó là cảm giác về khoảng cách. Có một thứ được gọi là khoảng cách chấp nhận được giữa nam và nữ. Chúng ta cần làm cho cái vạch mờ đó trở nên rõ ràng. Nó khác với khoảng cách khi ta nói chuyện với người mình thích hay ghét. Đó cũng không phải là khoảng cách giữa người có hảo ý và người có quan hệ với mình. Khi người ta vượt qua khoảng cách đó và đi vào lòng đối phương, chỉ cần quan sát xem sự thay đổi gì đang diễn ra với cả hai thì tự khắc sẽ hiểu.”
Ba ghé mặt tới gần tôi hơn nữa, nói:
“Nếu hai người vượt qua khoảng cách, tiến lại gần nhau nói chuyện mà không thấy căng thẳng và thay đổi cảm xúc thì chắc chắn họ đang hẹn hò. Cái khoảng cách đó là khoảng cách giữa nam và nữ. Con có thể thử đứng trong cự li đó nói chuyện với nhiều người mà xem.”
Vừa đẩy ba đang nồng nặc mùi bia ra vừa vâng dạ qua loa nhưng trong đầu, tôi đã kịp ghi chép lại thật cẩn thận những điều đó vào “cuốn sổ tâm hồn”.
Từ đó trở đi, tôi thành ra mẫn cảm với những điều thuộc về cảm giác yêu đương và khoảng cách. Trên thực tế, chính vì thế nên Nagamori Manae chỉ đi đến chỗ ngồi kế bên thôi mà cái kim trong chiếc đồng hồ tình cảm của tôi đã nhảy quá lên mức “thích”, đến mức không thể tiến thêm nữa.
“Những quy tắc của cảm giác về khoảng cách thật đáng sợ…”
Tuy thế, điều đó không có nghĩa là tôi có thể bắt chuyện với nàng.
Người ta vẫn cho rằng tôi là đứa nhanh nhẹn vui vẻ có thể dễ dàng bắt chuyện với bất cứ ai. Vậy mà với cô bé mình thích, tôi lại căng thẳng đến mức chẳng thể tự mình bắt chuyện hay làm gì đó tương tự.
Vì thế, từ lúc nàng xách cặp chuyển đến ngồi bàn bên cạnh, chúng tôi chỉ nói với nhau được vài ba câu rồi đến giờ vẫn không có gì hơn. Đã thế, đấy lại còn là do nàng mở lời trước: “Mình là Nagamori Namae. Mong cậu giúp đỡ cho.”
Đôi má bầu bĩnh của nàng có lúm đồng tiền. Khi nàng im lặng, tôi có cảm giác quả đúng là người Tokyo, có gì đó hơi khó gần, và vẻ ngoài nàng trông cũng có vẻ lạnh lùng, tính cách nàng trầm mặc, điềm tĩnh. Thế mà chỉ cười một cái, nàng bỗng trở nên vô cùng thân thiện và thoắt hóa một cô bé… hơi hơi dễ thương.
Trong khi để cho mình bị cuốn vào nụ cười ấy, tôi cũng cố làm ra vẻ bảnh bảnh mà miệng chỉ phát được ra tiếng “Ơ, à, ừ…”
Tôi có một có bé dễ thương ngồi bên cạnh! Điều bé nhỏ ấy cũng khiến tôi thấy cuộc sổng của mình rực lên màu hoa hồng.
Cuộc sống trong trường học của tôi đã trở thành những ngày khấp khởi vui sướng đối lập hoàn toàn với ấn tượng tối tăm về những con mọt học hành thi cử.
“Ước sao lần đổi chỗ tiếp theo sẽ không bao giờ đến…” - Kể từ hôm đó, mỗi ngày tôi đều nghĩ như vậy.
Học sinh lớp tôi kể từ năm lớp 11 gần như chẳng có thay đổi gì nhưng chỉ cần tăng thêm một người là nàng thì bầu không khí đã thay đổi hoàn toàn. Đó không phải vì tôi đang sung sướng được ngồi cạnh nàng đâu. Đó chắc chắn là cảm nhận của tất cả mọi người.
Tôi chẳng thể diễn tả nổi cái gì đã thay đổi, tuy nhiên việc không khí lớp đã thay đổi chỉ vì có thêm người là chuyện có thật.
Đó là điều tôi đã từng cảm nhận được khi sinh hoạt câu lạc bộ. Chỉ một người nghỉ thì không khí sẽ không được như mọi ngày. Tôi cảm nhận được không khí chùng xuống. Tôi đã từng trải qua cảm giác này. Chẳng biết từ khi nào tôi đã thầm khao khát được trở thành “một người” như thế, nhưng tôi thì vẫn chưa biến thành người đó được.
Trong lớp này, chính nàng mới là “một người” đó. Nhưng không phải vì nàng là người nổi bật thu hút sự chú ý. Thật kì lạ.
Vào tiết thứ tư của ngày thứ tư sau khi chuyển chỗ, chúng tôi có giờ Lịch sử Nhật Bản đầu tiên của lớp 12.
“Thầy Miyashita sẽ nói những gì nhỉ?” - Tôi đã kì vọng thật nhiều vào giờ học đầu tiên ấy. Và tất nhiên, tôi đã thủ sẵn một quyển sổ mới chỉ để dành cho ngày này.
Tôi liếc nhanh qua bên cạnh. Nàng đã đặt một quyển sách giáo khoa Lịch sử Nhật Bản là lạ mà tôi chưa gặp bao giờ lên bàn. Chắc là vì vừa chuyển trường nên chưa kịp mua sách giáo khoa, tất nhiên rồi.
Quyển Sử Nhật Bản của nàng dán hàng tá nhãn đủ màu, kẹp một đống tài liệu và giấy ghi nhớ dày gấp đôi quyển sách gốc.
Tôi bất giác lên tiếng:
“Cậu thích học sử Nhật à?”
Nàng quay về phía tôi mỉm cười.
Khi nàng quay lại, hương thơm từ mái tóc bồng bềnh của nàng dịu dàng phả vào tôi. Tôi bất chợt khựng lại.
“Mình hả? Cậu thấy đấy, mình là cô nàng cuồng Sử. Nghiện như một otaku[3] vậy.” - Nàng vừa đáp vừa cười.
Tôi bỗng thấy mừng. Giáo viên sử Nhật Bản của trường này tuyệt lắm nhé! Nhất định thầy sẽ làm cho cậu thích Sử hơn bất kì giáo viên nào khác. Tôi tự nghĩ, miệng cười gian.
Y như cảm giác của một đứa nhỏ đang tự mãn về người thân và gia đình mình vậy.
“Giáo viên dạy sử Nhật thế nào? Cậu thích chứ?”
Nàng lại mở lời bắt chuyện với thằng tôi mặt vẫn đang mỉm cười thích chí.
“À…, ừ thì… thầy có chút kì quặc và hấp hấp, nhưng mình thích.”
Nàng mỉm cười vui vẻ:
“Người kì quặc hả? Haha, mong đợi quá. Sao giờ học mãi chưa bắt đầu nhỉ?”
Cuộc nói chuyện của chúng tôi kết thúc ở đó.
Chuông reo, thầy Miyashita bước vào. Đồng thời, lớp trưởng hô to mệnh lệnh:
“Cả lớp, đứng! Chào thầy. Ngồi xuống!”
Đợi kha khá thời gian cho cả lớp ngồi xuống hết, tiếng bàn ghế chạm sàn nhà quen thuộc lắng lại, thầy Miyashita mới cất tiếng:
“Con người từ khi sinh ra đã có một vai trò gì đó. Tôi nghĩ thế.”
Là cách vào bài đột ngột y như mọi lần. Là phong cách Miyashita, không bao giờ bắt đầu buổi học bằng những lời “Nào, từ hôm nay kì học mới bắt đầu…” hay “Các em, hôm nay chúng ta sẽ học về thời Edo” như thường thấy ở các thầy cô khác.
Tôi lại liếc sang phía Nagamori. Nàng như thể vừa bật cười, đôi mắt tròn xoe hướng về phía tôi. Nhưng tôi lập tức quay về phía trước, tiếp tục nghe chăm chú như thể nuốt lấy những lời của thầy Miyashita.
“Điều đó có nghĩa là các em đang sống để hoàn thành vai trò đó.
Việc đi làm cũng giống như vậy. Đó là các em đang hoàn thành vai trò của mình từ khi được sinh ra. Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhìn vào những vĩ nhân được sinh ra ở đất nước này, những người đã hoàn thành vai trò của mình và ra đi.
Một trong những cái hay của việc học sử là chúng ta có rất nhiều tấm gương tương xứng với niềm tin rằng con người được sinh ra là để hoàn thành vai trò của riêng mình.”
Thầy Miyashita nhìn vào từng ánh mắt, mỉm cười mãn nguyện.
Cả lớp đều ngẩng đầu lên, hòa làm một.
Chỉ còn sự tĩnh lặng như mặt hồ.
Bầu không khí này, trong số những người tôi biết, chỉ thầy Miyashita mớicó thể tạo ra.
“Đoạn này được chưa?”
Vào giây phút thầy Miyashita tiếp lời đế xóa tan sự căng thẳng, Nagamori bỗng giơ tay.
Thầy Miyashita thoáng ngạc nhiên trong tích tắc rồi lập tức mỉm cười, với thầy, có lẽ việc chỉ nói một câu nói đệm mà cô học sinh mới chuyển trường đã giơ tay quả thật gây ấn tượng mạnh chăng?
Tôi cũng ngạc nhiên. Theo tôi biết, đây cũng là lần đầu nàng giơ tay trong giờ học.
“Sao thế Nagamori?”
“Vai trò của thầy là gì ạ?”
“Ồ…”
Lời xì xào bàn tán vang lên. Chính tôi cũng tham gia vào sự ồn ào ấy.
Một câu hỏi táo bạo đường đột Một hành động khác hẳn bình thường mà nếu không phải học sinh chuyển trường thì hẳn không thể làm được. Một sự căng thẳng thú vị.
“Nếu con người nghiêm túc và chân thành, họ có thể làm được những điều to lớn đến mức không thể tin nổi. Vậy nhưng hầu hết mọi người đều đang nghĩ là ‘Kiểu gì mình cũng không làm được đâu’.
Họ không nhận ra rằng người nhấn phanh kìm giữ tâm hồn của mình chính là bản thân mình.
Vai trò của tôi là tháo dỡ cái phanh trong tâm hồn của những học sinh tôi gặp. Các em có thể làm được bất kì điều gì.”
“Ồ…”
Tiếng xì xào lại vang lên lớn hơn.
Nàng nhìn khuôn mặt thầy Miyashita gật đầu thật mạnh. Đôi mắt mở to đang ướt. Tôi đã được chứng kiến một cảnh tượng cảm động.
“Có vẻ ổn rồi nhỉ. Nào, thế bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu bằng một người đã kết thúc cuộc đời sau khi làm tròn vai trò của mình. Sakamoto Ryouma. Và để tìm hiểu được người này, đầu tiên, chúng ta không thể không bắt đầu từ năm Kaei thứ 6[4].”
“Chiến hạm của Perry[5] cập cảng.” - Tôi thầm reo lên trong đầu. Cùng lúc đó, đập vào mắt tôi là chuyển động của tay nàng.
Nàng cầm một trong những tờ giấy nhớ gắn ở sách, thoắt cái mở cuốn sách ra. Trong đó có bức ảnh tuyệt đẹp của Phó Đề đốc Perry. Tôi thật lòng vui mừng với phản ứng ấy của nàng.
Quả nhiên không hổ danh Cô nàng cuồng Sử tự phong.
Từ đó trở đi, cứ hết tiết thứ tư của ngày thứ năm là nàng sẽ nhanh chóng lên bàn giáo viên chỗ thầy Miyashita để hỏi thêm về nội dung kiến thức trong giờ học.
Những học sinh thích giờ học của thầy Miyashita thấy vậy cũng tập trung lại khiến cho quanh bàn giáo viên lúc nào cũng có khoảng mươi người. Cảnh tượng này năm lớp 11 chẳng bao giờ có.
Tôi cũng muốn chui vào cái vòng vây xung quanh thầy nhưng hầu hết đám này là con gái, mà mấy đứa con trai trong đó tôi cũng chẳng thân nên cuối cùng cũng không tham gia mà chỉ lúi húi chuẩn bị cơm hộp. Tuy thế, tai tôi vẫn hướng về phía bàn giáo viên.
Mỗi khi đám học sinh vây quanh, thầy Miyashita lại nói những điều thú vị mà thầy đã không nói trong giờ. Tôi nhớ luôn cả những điều ấy để về nhà chép vào sổ.
Đôi khi cũng có những câu chuyện chẳng liên quan gì luôn.
Lần trước, có một nhỏ bạn còn hỏi những câu vớ vẩn như kiểu “Thầy ơi, thầy chưa kết hôn ạ?” hay “Mẫu người lí tưởng của thầy là gì?”…
Thầy Miyashita hỏi cắt ngang “Thế em thì sao?”. Nhỏ bạn đó liền trả lời chữa ngượng bằng tên một nhóm thần tượng: “Anh Yamashina của nhóm Big Waye ạ.”
Thầy cũng hỏi Nagamori, lúc ấy đang đứng cạnh: “Còn Nagamori?”. Nàng đáp một cách đầy chủ ý mà chẳng hề do dự: “Một người sống để suy nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này chắc cũng được đấy ạ. Phải rồi, là người như thầy Miyashita” khiến mọi người xung quanh cười vang.
“Cô bé này nói thế chắc có ý chế giễu tôi đây.” - Thầy Miyashita nói như thể có chút bực bội nhưng khi bước ra khỏi lớp vẫn vui vẻ: “Vâng, tôi chịu thua”.
Từ đó trở đi, tôi bỗng căm ghét cụm từ:
“Một người sống để suy nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này.”
Tôi nghĩ đàn ông thật sự là một sinh vật đơn giản. Nói một cách dễ hiểu thì là “ngốc”.
Tôi đã từng nghĩ mình là một thằng cứng đầu. Mà không, thực tế thì tôi vẫn sẽ nghĩ rằng tôi cứng đầu. Ba mẹ tôi cũng thường nói thế. Những điều như kiểu: “Vì mày cứng đầu nên…”
Thế mà thằng tôi cứng đầu đó lại chỉ vì một lời nói của một cô gái mà đùng một cái thay đổi hẳn phương hướng tương lai.
Câu chuyện “đàn ông là thứ sinh vật đơn giản” là điều thầy Miyashita đã từng nói hôm nào đó:
“Trong số đàn ông Mỹ có rất nhiều người lực lưỡng cơ bắp vì phụ nữ Mỹ nhiều người thích đàn ông lực lưỡng. Còn các cô gái Nhật thích đàn ông đẹp như thần tượng nên giai Nhật đều cố gắng bắt chước kiểu tóc và thời trang của thần tượng. Vì thế, giá con gái Nhật bảo rằng: ‘Người đọc sách trông thật bảnh’ thì đàn ông Nhật sẽ trở thành hiệp hội độc giả đông đảo nhất thế giới nhỉ.”
Cái lúc thầy nói với vẻ đùa cợt ấy, tôi đã thật sự nghĩ rằng đó không phải chuyện đùa. Dù thế nào đi chăng nữa, cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện như vậy.
Tôi thì trước giờ cứ nghĩ chỉ cần tốt nghiệp đại học, lấy kiếm tiền làm thú vui, mua được thứ mình muốn là đủ.
Đương nhiên, thời buổi này thì những điều như thế chắc cũng khó khăn. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn luôn nghĩ rằng giải pháp có thể đang ở đâu đó. Hiện tại nó ở đâu thì chưa biết nhưng nếu có thể vào đại học thì sẽ tìm thấy thôi. Bởi dù sao thì mình vẫn còn những năm năm nữa cơ mà.
Vậy mà một lời nói của nàng đã thay đổi phương hướng cuộc đời tôi.
“Một người sống để suy nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này.”
Để trở thành như thế thì phải sống và nghĩ cái gì nhỉ?… Tôi chẳng có chút manh mối nào hết.
Trở thành đại gia? Chính trị gia? Hay nghệ sĩ?
Tôi cần nỗ lực hết sức mình để trở thành con người nàng thích.
Tôi đã chẳng biết phải làm gì để trở thành người như vậy thì chớ, “điều to lớn” mà nàng nói tới là gì tôi cũng hoàn toàn không hiểu. Tôi chỉ biết từ cái ngày ấy, mục tiêu cuộc đời tôi đã trở thành như thế:
“Sống để suy nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này.”
Có những khi chẳng hiểu sao tôi tự nói với mình điều đó như thể đang say vậy.
***
Cơ hội để tôi có thể trò chuyện tự nhiên với nàng lúc nào cũng là do Chika mang lại.
Takahashi Chika là bạn cùng lớp tôi năm lớp Mười. Cao, phong cách. Nếu thêm vào cả những mĩ danh như đội trưởng đội bóng mềm[6], hợp với kiểu tóc ngắn… thì dĩ nhiên cô nàng sẽ có nhiều anh theo đuổi. Nhưng tôi đã nhiều lần thấy cô nàng thẳng thừng từ chối: “Tôi không phải người như thế đâu, nên là…”
Tính cách cô ấy phóng khoáng nên tôi có thể thoải mái nói chuyện mà không cảm thấy chút khác biệt nào về giới tính. Có một cô bạn như thế thật sự có ích.
Thật ra thì Chika và Nagamori học cùng trường tiểu học, và hình như vốn đã cực thân thiết.
Chika lúc nào cũng bận rộn với hoạt động ngoại khóa nên không thể về cùng hay thường xuyên đi với Nagamori nhưng một tuần cũng ba, bốn lần qua chỗ Nagamori vào giờ ăn trưa và những lúc như vậy, hai cô gái lại rộ lên vui vẻ những câu chuyện mà chỉ họ mới hiểu.
Cô nàng thật sự có ích vì luôn để dành những khoảng thích hợp để kéo tôi vào các câu chuyện.
“Này Dai-chan, cậu lại nói toàn những chuyện khiêu dâm làm Manae bối rối hả?” - kiểu như vậy. Nội dung chung chung thì tôi sẽ luôn vừa nói “Đừng nói chuyện dở hơi nữa. Tôi nói chuyện khiêu dâm khi nào?” vừa thầm cảm ơn Chika đã dành thời điểm để tôi nhảy được vào: “Hay lắm Chika!”
Nagamori thì sẽ cười đầy ẩn ý: “Ê Ifuku, thật thế á?”, vừa vặn người, cố tạo khoảng cách. Nhưng tôi hiểu được rằng nàng cũng đang vui vẻ với câu chuyện.
Dù chỉ là từng chút một, nhưng tôi cũng đã dần dần nói chuyện bình thường được với nàng. Mối quan hệ giữa chúng tôi có chút thay đổi nhỏ khi kết thúc kì thi thử đầu tiên sau Tuần lễ vàng[7].
Thầy giáo gọi tên học sinh trong lớp và bỏ sót lại một số người. Nagamori cũng nằm trong số đó. Năm ngoái, khi lần đầu bị bỏ lại tôi cũng đã không hiểu lí do. Sau đó tôi mới biết chúng tôi bị bắt ở lại trong lớp để thầy chủ nhiệm nói chuyện với từng đứa và có vẻ như là đó là những người đã chọn nguyện vọng I là “trường đại học tư ở thành phố”.
Chúng tôi bị bắt ở lại là để nghe bài thuyết giáo dài lê thê về chuyện: “Việc đi xa thế thì cần thiết ở chỗ nào.”
Tư duy các thầy cô ở cái trường này thật kì cục. Cứ như thể họ nghĩ rằng việc đi học ở trường Đại học quốc lập Ehime ở Matsuyama là niềm hạnh phúc duy nhất và to lớn nhất vậy.
Năm ngoái, tôi bị gọi ra cũng chỉ vì đăng kí nguyện vọng I là một trường tư ở Tokyo.
“Dù em có đến Tokyo thật đấy nhưng cuối cùng thì cùng lại chơi chứ chả học hành gì đâu. Vừa vất vả cho ba mẹ em phải gửi tiền trợ cấp, vừa khó tìm việc. Thế thì thà thử chọn Đại học Ehime. Rồi sau này làm việc ở ủy ban tỉnh cũng là điều đáng mơ ước đấy chứ hả. Còn nếu em chọn làm giáo viên ở trường học như các thầy cô thì làm ngay tại địa phương của mình là nhất chứ còn gì. Tại đây thì em chọn gì tương lai cũng sẽ ổn định. Tôi nói thế là muốn tốt cho em thôi, nên là cứ quyết thế đi!” - Thầy nói đi nói lại mấy điều đó không biết bao nhiêu lần.
Với cái thằng chẳng hứng thú gì làm ở cơ quan hành chính hay làm giáo viên như tôi thì dù bị nói là “muốn tốt cho tôi” nhưng tôi cũng chả thấy chút sức hấp dẫn nào hết.
“Haa…” - Tôi vừa mới trả lời nửa vời thầy chủ nhiệm đã nhoài người lên nhấn mạnh thêm:
“Mấy đứa ở tuổi các em chắc là muốn lên thành phố để chơi chứ gì? Tôi chỉ nói ra điều tốt cho em thôi. Em hãy chọn trường quốc lập ở địa phương đi. Sau này kiểu gì các em cùng cảm ơn những gì tôi nói hôm nay đấy.”
“Em sẽ thử về nhà nói chuyện với ba mẹ.” - Lúc nào tôi cũng đánh trống lảng như thế.
Nghĩ đến việc lại phải chờ cái giờ khắc đó đến là tôi đã phát ngán. Thế nhưng chả hiểu thứ tự thế nào mà người cuối cùng còn lại là tôi và Nagamori nên tôi bỗng thấy sung sướng, trái hẳn với quãng thời gian chờ đợi phiền phức nãy giờ.
Hình như nguyên vọng I của nàng là một trường đại học ở Sendai.
Những người sống ở Ehime học trường này hình như chưa ai đến Sendai.
“Cái trường này chỉ nói những điều nhảm nhí phiền phức. Mình xin lỗi.” - Tôi làm điệu bộ chán chường rồi tuyên bố lời xin lỗi như thể tôi là đại diện của cái trường này vậy.
Nàng cười đáp:
“Có phải tại cậu đâu.”
“Dù sao thì, sao lại là Sendai?”
“Ồ, bí mật.”
“Càng bí mật thì càng quan tâm đó.”
“Chà, không phải lí do bình thường nên mình cũng đã quyết sẽ không nói.”
“Không bình thường?”
“Đến lúc đó mình sẽ bật mí. Giờ thì không được. Mà Ifuku thì sao? Cậu viết trường nào thế?”
“Mình ấy hả. Trường K.”
“Ế, thật hả? Sao lại là trường K?”
“Chẳng có lí do gì đặc biệt cả. Nếu nói ra thì có lẽ là… mình nghĩ đấy là nơi tập trung những thành phần đang nghĩ những thứ to lớn làm thay đổi đất nước này… nhỉ.” Tôi nói rồi thoáng nhìn Nagamori.
Hẳn là nàng không biết rằng tôi biết kiểu người nàng thích.
Nàng nhìn tôi chằm chằm rồi nở nụ cười, nói một câu mà tôi cũng không dám ngờ:
“Này Ifuku, mai rỗi không?”
“Ơ, mai mình chỉ định qua thư viện học thôi nhưng…”
“Ồ, vậy thì là bận rồi.”
“Không không, không phải thế đâu, rỗi mà… hoàn toàn rỗi.”
“Mai gặp nhau đi.”
“Aa, được thôi nhưng mà… tại sao?”
“Cậu muốn biết phải không? Tại sao lại là Sendai ấy.”
“Á. Ơ ơ… muốn muốn.”
“Được rồi, vậy 11 giờ ngày mai, trước cổng trường tiểu học Minami nhé.”
“À, được.”
Trong khi tôi còn đang bận sửng sốt thì cuộc hẹn đã được quyết định.
Tôi còn đang hồi hộp không rõ đấy có phải lời rủ hẹn hò không thì thầy giáo chủ nhiệm đẩy cửa vào.
“Nagamori, đến lượt em. Em có thể qua đây một lát không?”
Vâng ạ.
Nàng vui vẻ đáp lại, khẽ vẫy tay về phía tôi.
Khuôn miệng nàng khẽ phát âm “Ngày mai nhé.”
Tôi thì hạnh phúc đến mức có thể nhảy cẫng lên tận trời.
Aa, cảm ơn thần linh.
Ngày hôm ấy, tôi trở về nhà trong tâm trạng quá đỗi hưng phấn, đến mức chẳng ngăn nổi miệng ngoác ra cười. Đến mẹ cũng bảo: “Có chuyện gì vui hả con? Đang tủm tỉm cười kìa.”
Miệng đáp “Không có gì đâu ạ” nhưng mặt tôi vẫn ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Và trên hết, cũng chẳng cần thiết cứ phải chường cái mặt ấy ra cho mọi người trong nhà nên tôi cứ loanh quanh trong phòng, thỉnh thoảng lại nắm tay vào giơ lên trời làm động tác chiến thắng.
Đêm đó, tôi phấn khích đến nỗi chẳng ngủ được.
Trường tiểu học Minami cách nhà tôi khoảng 10 phút đạp xe.
Đứng ở cổng chính của trường, tôi vẫn chưa thấy nàng. Kim đồng hồ vừa chỉ đúng 11 giờ.
Tôi đang bồn chồn sốt ruột không biết nàng sẽ đến từ hướng nào thì bất ngờ có tiếng gọi tên tôi vang lên từ phía sau: “Ifuku!”
Tôi ngoái lại:
“Cậu đến trước rồi à?”
“Ừ, mình đến sớm nên ra hồ ngắm cá chép.”
Cái thằng tôi mới chỉ được thấy nàng trong bộ đồng phục học sinh bỗng bối rối trước cô nàng trong trang phục bình thường. Trông nàng, có thể nói thế nào nhỉ, chắc là gầy. Chiếc váy ngắn bay nhẹ.
Nói một cách chính xác, nàng rạng rỡ chói chang đến mức tôi chẳng thấy gì nữa.
“Nào, đi thôi. Theo mình nào.”
Nàng nói đầy hào hứng, xoay người lại phía sau, bắt đầu bước theo hướng khu lớp học tiến vào giữa sân trường.
Tôi vội vã dựng chiếc xe đạp to tướng của mình bên dãy xe nhỏ của lũ trẻ tiểu học đang chơi trong sân, khóa lại rồi chạy theo nàng.
“Cậu có việc gì ở trường tiểu học à?”
“Sai rồi. Ở đằng sau cơ.”
“Đằng sau?”
“Ừ, mình đi qua đây chỉ vì đi đường này nhanh hơn thôi.”
Tôi còn chưa kịp nhớ ra xem sau trường tiểu học Minami này có gì thì đã nhìn thấy cổng sau.
Ừ nhỉ, hẳn là trường mẫu giáo.
Chúng tôi dừng lại ở cổng trường mẫu giáo Megumi.
Đây là một khuôn viên trường mẫu giáo mới và lạ lẫm trong khu vực này. Nghe đâu nó được thiết kế bởi một kiến trúc sư nổi tiếng nên tòa nhà giống một bảo tàng mỹ thuật hơn là một trường mẫu giáo.
Dù tôi có cố nghĩ rằng chắc đó cũng chỉ là một trường mẫu giáo bình thường chẳng khác gì trường tôi học hồi bé nhưng quả đúng là sau khi được xây dựng lại nó trở nên rất nổi. Đến cả thằng học sinh phổ thông như tôi cũng bị tòa nhà cuốn hút, đến mức nghĩ rằng có khi ở một nơi thế này mình cũng thích học hơn.
“Nagamori đã từng đi trường mẫu giáo này à?”
“Không. Mình là bạn của ngài chủ tịch.”
“Ế? Bạn…?”
Nàng bấm chuông gọi cửa chẳng hề do dự.
“Vâng ạ?”
“Em là Nagamori Manae. Ngài chủ tịch có nhà không ạ?”
“À, chúng tôi đang chờ cô ạ. Xin mời.”
Cùng với giọng nói đó qua điện thoại chuông cửa, tôi còn nghe lạch cạch tiếng khóa máy mở tự động.
Nàng đẩy cửa bước vào. Tôi vừa đi vừa quan sát tình hình từ phía sau lưng nàng. Ở đó có một ông cụ cao hơn tôi tầm 10 phân đang đứng chờ:
“Xin chào, cuối cùng cháu cũng đã đến.” - Vừa nói ông cụ vừa chìa tay ra.
Nagamori lập tức bắt tay ông một cách rất tự nhiên, mà đó gọi là “ôm” cũng được.
Sau đó, ông cụ lại chìa tay cho tôi và nở nụ cười tươi rói:
“Cháu là Ifuku nhỉ? Rất vui được gặp cháu, ta tên là Oonishi. Mong được cháu giúp đỡ.”
“Ơ, dạ,… Cháu cũng mong được ông giúp đỡ…”
Thật may, khoản ôm được miễn.
“Lâu lắm rồi nhỉ, Manae. Suốt từ mùa thu năm ngoái.”
“Vâng.”
“Hôm qua tự nhiên cháu gọi điện ta cũng hơi bất ngờ, nhưng cũng đặt được chỗ rồi đấy. Nhanh đi thôi nào!”
” Vâng, làm phiền ông ạ.”
Chúng tôi đi xuyên qua tòa nhà trường mẫu giáo đến gara ở cổng sau.
Tại đó có một chiếc xe ngoại cao cấp sơn đen đổ chờ sẵn. Ông Oonishi mở cửa khoang sau xe giục nàng vào trong.
“Cháu cảm ơn!” - Nàng vừa đáp vừa nhanh nhẹn bước vào xe.
Nagamori có một mặt mà tôi không biết. Mà không, chẳng phải là một mặt. Có thể khuôn mặt nàng ở trường học mới là phương diện duy nhất của nàng mà tôi biết.
Tôi thầm nghĩ phương diện mà tôi không biết của nàng là một người đã thông thạo thế giới của người lớn mà tự thấy xấu hổ.
“Không được phép leo lên xe của người lạ.” - Đó là điều mà từ những năm đầu tiểu học tôi đã bị nói không biết bao nhiêu lần. Đến tận bây giờ, khi tôi đã học lớp 12, nó vẫn trói chặt lấy tôi và khiến tôi do dự. Cuối cùng, bị cuốn theo cái vẫy tay của nàng đang ngồi trong xe, tôi cũng chậm chạp bước vào.
Người đang ngồi ở ghế lái có vẻ như là con gái của ông Oonishi. Còn ông Oonishi ngồi ghế bên cạnh, nói chuyện vui vẻ với Nagamori ở ghế chéo bên dưới suốt chuyến đi.
15 phút sau, chúng tôi đến một nhà hàng Pháp. Khu này tôi cũng đến nhiều lần rồi nhưng đây là lần đầu tiên tôi biết ngôi biệt thự sang trọng được hàng rào bao quanh lại là một nhà hàng thế này.
“Đây là lần đầu tiên cháu đến đây nhỉ?”
Ông Oonishi vừa nói như để xóa tan sự căng thẳng vừa đưa tay theo hướng nhà hàng ra hiệu mời nàng vào. “Cháu cảm ơn ạ!” - Nagamori tiếp nhận sự săn sóc đó bằng một nụ cười và đi vào trong trước.
Còn tôi thì vẫn thế, chẳng biết phải làm thế nào cho đúng, chỉ đứng tần ngần.
“Cả cháu nữa, xin mời.” - Ông Oonishi ngay lập tức mở lời.
“Ơ, vâng.” - Tôi vội vã vào trong.
Bên trong nhà hàng, mấy nhân viên mặc đồ đen và người bếp trưởng đội mũ đầu bếp trắng đang xếp thành một hàng chào đón chúng tôi.
“Kính chào quý khách. Chào mừng đến với quán ‘Deraretto’. Chúng tôi đang chờ quý khách. Musshu[8], ngài có khỏe không ạ?”
Ông Oonishi tiến đến chỗ người bếp trưởng bắt tay.
“Đương nhiên là tôi khỏe rồi. Hôm nay tôi dẫn người bạn quý của tôi đến.”
Tôi chỉ bồn chồn theo dõi cuộc hội thoại giữa hai người bằng mắt. Phía trước tôi, người đầu bếp đưa tay ra trước Nagamori.
“Chúng tôi rất mong đợi được phục vụ.”
“Mong ông giúp đỡ.”
Tiếp theo hẳn là đến lượt tôi rồi. Quá căng thẳng, tay tôi ướt đẫm mồ hôi.
“Chúc cậu vui vẻ.”
“Á, vâ… ââng…”
Chúng tôi được hướng dẫn đến bàn có khung cảnh đẹp nhất giữa khu vườn được bố trí tráng lệ.
Quá nhiều điều xảy đến cùng một lúc khiến đầu tôi không thể xử lý được hết.
Đầu tiên, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ ăn ở một nhà hàng sang trọng như thế này, thử tưởng tượng cũng không. Vì thế, cả người tôi chỉ mang vẻn vẹn 200 yên[9]. Tiếp theo, tôi cũng không biết mảnh vải được gấp hình dẻ quạt để trên cái đĩa trước mặt phải dùng thế nào. Thêm vào đó, ở hai bên và phía trước cái đĩa có bày một đống vật dụng như dao dĩa thìa, điều đó gây cho tôi áp lực ghê gớm.
Ngày xưa, tôi đã từng bị ba nhắc rằng:
“Con mà không nhớ được chút phép tắc nào trên bàn ăn thì kiểu gì cũng mất mặt những lúc quan trọng cho xem.”
Lúc đó tôi cũng chẳng để tâm: “Chỉ cần con không ăn hay làm gì ở mấy nơi sang trọng như thế là được chứ gì”. Nhưng quả nhiên, thật không thể nào ngờ nổi tôi đang ở cái “nơi sang trọng” đó đúng lúc này.
Trong khi ông Oonishi nhìn thực đơn và gọi món, tôi từ từ ghé đầu sát vào Nagamori đang ngồi bên cạnh nói nhỏ:
“Mình không biết là sẽ đến nơi như thế này nên chỉ mang theo có 200 yên…”
Nàng khẽ cười rồi cũng ghé đầu sát lại nói nhỏ:
“Không sao đâu. Cùng lắm thì mình sẽ ở lại rửa bát với cậu.”
Tôi biết thừa nàng đang nói đùa nhưng có thật là không sao không?…
Nagamori sửa lại dáng điệu, vươn thẳng lưng rồi đằng hắng một cái để thu hút sự chú ý của mọi người:
“Vâng, sau đây cháu xin phép được giới thiệu. Thầy Oonishi, đây là Ifuku Daisuke, bạn cùng lớp cháu. Ifuku, đây là thầy Oonishi, còn được gọi là Musshu, hiện đang là chủ tịch của trường mẫu giáo. Trước đây thầy là quản lý bếp ở khách sạn Royal Crown tại Osaka. Thầy Oonishi nổi tiếng đến mức giới kinh doanh nhà hàng Pháp ở Nhật không ai là không biết.”
Ngạc nhiên, miệng tôi há hốc không khép lại được.
Ông Oonishi, ờ không, Musshu thấy thế đột nhiên cất cao giọng cười vang:
“Này này Manae, ta thấy tình hình là Ifuku đã không được báo trước sẽ bị đưa đến đâu thì phải nhỉ. Tội cho cậu ta quá!”
“Cháu cũng nghĩ thế nhưng khó khăn lắm mới được nói chuyện với Musshu nên cháu nghĩ để Musshu trực tiếp nói ra mình là người thế nào thì hơn. Thế nên cháu đã quyết không nói gì cả.”
Nàng nói thế rồi quay về phía tôi:
“Musshu hồi trẻ tự mình lên tàu tới Pháp đó. Sau đó lại còn là người Nhật đầu tiên được khách sạn năm sao ở Paris tuyển nữa, thật là giỏi. Chuyện đó mình nghe mấy lần rồi mà vẫn thấy cảm động.”
Cách mào đầu của nàng hơi khó hiểu.
Cho đến ngày hôm qua vẫn là những ngày bình thường, cảnh tượng tôi sẽ ngồi ở nơi như thế này cùng bàn với một người thuộc hàng khủng trong giới kinh doanh nhà hàng Pháp chẳng bao giờ có. Mà chẳng phải cho đến hôm qua, mà trong tương lai liệu có cảnh tượng này nữa hay không, tôi cũng không hình dung nổi.
Thế mà, ngay lúc này đây, nó lại đang diễn ra trước mắt.
Có thể nói tất cả những chuyện này bắt đầu vì tôi đã gặp một người con gái tên là Nagamori Manae.
Tôi vừa nghe câu chuyện của Musshu vừa bắt chước ông, run rẩy ăn từng đĩa đồ ăn được đưa tới trước mặt.
Đúng như nàng nói, những câu chuyện của Musshu rất cảm động.
Vì sự căng thẳng với toàn những thứ lần đầu, lúc đầu tôi chỉ cố gắng gật đầu nhưng sau đó, tôi cũng từng bước bị cuốn vào những câu chuyện ấy.
Đó là chuyện của nỗi buồn khi tàu xa dần cảng Kobe, là sức trẻ lúc trắng tay ở Paris, là cuộc gặp gỡ với quý bà ân nhân cứu mạng, những ngày học việc ở cửa hàng của bà, chuỗi ngày mà hôm nào ông cũng tự đến xin vào làm ở khách sạn…
Cho đến khi dần dần được làm trong bếp do một sự ngẫu nhiên kì diệu… Càng nghe tôi càng thầy trong đầu mình hiện lên rõ nét hình ảnh của một Musshu trẻ trung đã sống những ngày tràn đầy khát vọng hướng về ước mơ của mình ở Paris.
Musshu cũng tầm tuổi ông tôi nhưng khi ông kể về quý bà ấy, mắt ông sáng lên như đôi mắt của cậu thiếu niên. Tôi lắng tai nghe như bị cuốn sâu vào đôi mắt ấy.
Khi tôi nhận ra, chúng tôi đã uống xong cà phê sau bữa tráng miệng. Loáng một cái đã hai tiếng rưỡi trôi qua.
Trước khi đứng lên, Musshu nói:
“Phù, hôm nay thực sự là một khoảng thời gian tuyệt vời nhỉ. Những gì xảy ra trên chiếc bàn ăn này hôm nay thực sự là một khoảnh khắc ngắn ngủi. Nhưng những món ăn được bày ở đây mỗi món đều có cả một lịch sử của riêng nó. Cả từng nguyên liệu một và cả người đầu bếp đã chế biến ra chúng nữa.
Tất cả chỉ được tạo ra trong khoảnh khắc này. Sẽ không có khoảnh khắc như thế nữa ghé thăm lần thứ hai đâu. Có thể sau này cũng sẽ có dịp ba người chúng ta cùng ngồi ăn với nhau, nhưng chắc chắn không thể giống như ngày hôm nay nữa. Việc chúng ta thưởng thức bữa ăn cũng là việc chúng ta tập trung vào khoảnh khắc có một không hai này. Cả đời này ta nhất định sẽ không quên khoảnh khắc này của ngày hôm nay.”
“Cháu cũng sẽ không quên.”
Tôi gật đầu thật mạnh.
“Nếu nghĩ thế thì quả nhiên đó là một khoảng thời gian tuyệt vời nhỉ.”
Mắt tôi ướt vì cảm động.
Sau khi được đưa về cổng chính của trường mẫu giáo, chúng tôi thi nhau cảm ơn Musshu. Musshu cười: “Lần sau lại đến nhé”, rồi đi khuất vào phía trong tòa nhà. Tôi và nàng lại cùng nhau băng ngang qua sân trường tiểu học Minami ra cổng chính như lúc đến. Trong sân trường, lũ trẻ quần áo đầm đìa mổ hôi vẫn đang chạy nhảy.
Sau kì nghỉ, bỗng nhiên nắng đầu hè lại tiếp tục. Đã là hai giờ chiều mà bóng hai người đi bộ vẫn còn thấy ngắn.
Chúng tôi chẳng ai bảo ai cùng ra ngồi ở ghế đá quanh cái ao gần cổng chính. Khoảng cách giữa hai đứa là thứ khoảng cách không có chút căng thẳng nào của những người bạn.
Đương nhiên, đây không phải là khoảng cách giữa hai người yêu nhau.
“Thế nào?”
Nàng nghiêng cổ, và trong ánh nhìn của nàng đang mỉm cười, tôi cảm thấy mạch đập nhanh hơn.
“Thì, mình cũng chẳng biết phải nói sao, nhưng cứ như là đang mơ vậy. Mình chẳng hề biết là có một thế giới như thế ở gần đến vậy, cũng chưa bao giờ nghĩ rằng chủ tịch của trường mẫu giáo lại giỏi đến vậy. Nó kì lạ như cảm giác vừa đi công viên giải trí về vậy.”
“Công viên giải trí?”
“Ừ, chẳng biết nói là một thế giới khác hay là một phần của một bộ phim cổ nữa. Cậu có hiểu không? Khoảng thời gian đó thật sự là có thật, nhưng khi trở lại cuộc sống thường ngày thì không có cảnh đó.”
“Ừ, có lẽ mình hiểu.”
“Mà, chắc đấy là thế giới mà đám dân thường như mình chẳng bao giờ được thưởng thức lần hai.”
“Mình không nghĩ việc nói năng tự hạ thấp mình là hay ho đâu.”
Tôi ngạc nhiên quay ra phía nàng.
Tôi thấy nàng điềm tĩnh. Nàng hẳn là tuýp người có thể thẳng thắn nói ra điều muốn nói.
“Câu nói về việc sống để nghĩ những điều to lớn đủ để thay đổi đất nước này là nói dối đúng không?”
Nàng cười.
“Nếu điều đó là thật thì thứ ‘dân thường không được thưởng thức lần hai’ sẽ không phải là thật. Nếu thực sự Ifuku nghĩ rằng ‘dân thường không được thưởng thức lần hai’ thì việc ‘sống để nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này’ sẽ không phải là thật nhỉ. Với người sống để suy nghĩ những điều to lớn làm thay đổi đất nước này thì, những câu kiểu như ‘người dân thường như tôi’…”
“Hiểu rồi hiểu rồi! Mình sẽ lại thưởng thức. Lần tới sẽ là bằng chính sức của mình.”
“Hiểu là tốt rồi”
Tôi đã để lộ phút tạm dừng đáng chán đó rồi.
“Và mình cũng không biến thành người dân thường mà Ifuku nói đâu.”
“Làm sao có chuyện đó được Rõ là cậu đã lớn lên trong gia đình khá giả còn gì. Bình thường thì đâu thể làm bạn với một người như thế được chứ.”
“Chắc chắn là nhà mình không khá giả bằng nhà cậu đâu Ifuku.”
Tôi vô cùng ngạc nhiên. Từ lối cư xử vô cùng già dặn chuyên nghiệp của nàng ở nhà hàng và việc nàng làm bạn một người hạng nhất trong thế giới của Musshu, tôi đã nghĩ nàng nhất định là tiểu thư nhà khả giả.
“Cậu không phải là tiểu thư nhà giàu sao?”
Nagamori rũ ra cười.
“Làm gì có chuyện đó! Nhà mình là một cửa hàng làm đẹp bình thường thôi.”
“Bệnh viện[10]?”
“Cửa hàng làm đẹp! Là cửa hàng làm đầu đó.”
“Cửa hàng làm đầu?”
“Đúng thế.”
“Ba cậu làm gì?”
“Ba mình là thợ làm đầu. Mình không còn mẹ. Mình vừa lên tiểu học thì bà cũng lên thiên đường rồi.”
Tôi bỗng không biết nói gì nữa.
Ba tôi làm việc ở nhà máy bia trong vùng. Nói thế nào nhỉ, hình như là lương ba cao hơn những người khác trong công ty. Mẹ tôi làm nhân viên ở ủy ban nhân dân thành phố. Tôi đã lớn lên chẳng thiếu thốn gì.
Vậy mà tôi lại vô cùng ích kỉ, dù tôi vẫn biết thế. Và tôi vẫn luôn trông mong vào sự che chở của ba mẹ để tiếp tục học đại học sau khi tốt nghiệp phổ thông.
Một thằng như tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi nỗi đau của đứa trẻ đã không có mẹ cả chục năm trời.
“N