← Quay lại trang sách

Chương I - 2 ĐÀNG NGOÀI VÀ ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVIII

Việc dừng cuộc chiến công khai cho phép mỗi bên tập trung vào những vấn đề nội bộ, trong lúc sự chia tách dứt khoát góp phần tạo ra những thực thể chính trị riêng biệt ở hai bên bờ sông Linh Giang. Mỗi chính thể theo đuổi một đường hướng chính trị riêng biệt được xác định bởi những hoàn cảnh về địa lý và kinh tế riêng. Mặc dù các nhà viết sử Việt về sau nhấn mạnh đến tính thuần nhất cố hữu của dân tộc Việt Nam, và ở một mức độ nào đó là sự thuần nhất về ranh giới lãnh thổ, như Nola Cooke và Li Tana đã lập luận, rõ ràng là hai vương quốc Nguyễn và Trịnh cần được xem như hai nhà nước tách biệt nhau và phát triển trong những hoàn cảnh lạ thường. Keith Taylor cũng vậy. Trong một khảo sát quan trọng về chủ nghĩa địa phương của người Việt Nam, ông đã chỉ ra sự kiện các đặc điểm dễ phân biệt về vùng miền và kinh nghiệm lịch sử vùng miền từ lâu đã tạo nên tính cách của con người Việt Nam ở mức độ nào đó. Chính sự khác biệt về vùng miền đó đã góp phần hình thành hai thực thể chính trị riêng biệt, với cách nhìn và định hướng rất khác nhau, trên một đất nước Đại Việt bề ngoài có vẻ thống nhất. Các chúa Trịnh và xã hội của họ hướng về Trung Quốc, về một thế giới văn hóa và thương mại nằm ở phía bắc, hoặc trên đất liền, hoặc trên biển. Các chúa Nguyễn thì quay sang phía nam, đông và tây, hướng về biển và vùng lục địa Đông Nam Á, với sự liên hợp phức tạp về văn hóa và kinh tế kết nối họ với các dân tộc Chăm, Khmer, Xiêm cùng thế giới mậu dịch rộng lớn hơn ở các vùng đảo.

Như một thế lực chính trị thực sự ở Đàng Ngoài, các chúa Trịnh chỉ đạo đường lối phát triển chính trị và kinh tế trong vùng. Sau cuộc xung đột với các chúa Nguyễn, các chúa Trịnh thực hiện những cải cách chính trị ôn hòa và cố gắng điều chỉnh về thuế khóa và kinh tế nhằm đáp ứng với tình hình biến chuyển nhanh chóng. Thêm vào đó, chúa Trịnh nỗ lực tăng cường sự ổn định xã hội bằng cách làm nổi bật vai trò và địa vị của các nho sĩ và sử dụng khoa cử như một cơ chế để tuyển chọn họ. Những cải cách này xem ra khá khiêm tốn trước những vấn đề rộng lớn nên không thể theo kịp những biến chuyển nhanh chóng về kinh tế xã hội. Ngoài ra, các chúa Trịnh còn thay đổi gánh nặng thuế khóa trong xã hội Đàng Ngoài, tìm kiếm những giải pháp có tính sáng tạo cho vấn đề thâm hụt ngân sách thường xuyên. Hậu quả là thuế má gia tăng trên những sản phẩm vốn không phải là đối tượng của sưu cao thuế nặng, trong đó có muối, các khoáng chất và sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, những thành phần ưu tú giàu có lại thường xuyên tránh được hoàn toàn các khoản thuế khóa. Một loạt thiên tai xảy ra kết hợp với các cuộc khủng hoảng kinh tế tăng dần vào các thập niên 1730 và 1740. Và cũng từ đó, nạn tham nhũng của công tăng cao. Và điều có thể thấy rõ là quyền hành của chúa Trịnh trở nên mong manh hơn. Hệ quả là sự bất an trong dân chúng gia tăng ở mức độ dữ dội, được châm ngòi bởi những vấn đề trên và bởi sự gia tăng của số người sống lang thang, không đất đai canh tác. Một số cuộc nổi dậy kéo dài nhiều thập niên, trong đó có cuộc nổi dậy của Hoàng Công Chất diễn ra từ năm 1740 đến năm 1767, của Lê Duy Mật, từ năm 1738 đến năm 1769. Hậu quả là những bất ổn này khiến cho quân đội và chính quyền họ Trịnh phải bận tâm giải quyết trong phần lớn khoảng thời gian giữa thập niên 1730 và thập niên 1770.

Mặt khác, ở Đàng Trong do các chúa Nguyễn kiểm soát, những năm cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII tiêu biểu cho thời kỳ các nhà cai trị củng cố địa vị của họ và học cách bòn rút của cải của vương quốc phía nam. Để làm việc này, họ Nguyễn tiếp tục tổ chức nhà nước và cư dân dọc theo các phòng tuyến quân sự. Tư tưởng Khổng giáo và việc đề bạt quan chức dựa vào công trạng có quá ít chỗ ở một nhà nước đang trong tình trạng chiến tranh*. Các quan hệ cá nhân và thị tộc là con đường chắc chắn nhất dẫn đến quyền lực chính trị và uy tín xã hội. Thêm vào đó, định hướng quân sự của chính quyền nhà Nguyễn từng ích dụng trong cuộc chiến với họ Trịnh vào giữa thế kỷ XVII, nay tiếp tục được sử dụng trong sự bành trướng lãnh thổ về phía nam, đến đồng bằng sông Cửu Long. Sự bành trướng này diễn ra bất lợi cho vương quốc Chăm vẫn còn trong tình trạng bán tự trị, đang tồn tại giữa vùng duyên hải miền Trung và của người Khmer ở xa về phía nam.

Cùng lúc đó, tham vọng mở rộng dần sự kiểm soát lãnh thổ về phía tây của các chúa Nguyễn đã tạo ra những căng thẳng lớn dần với các cư dân vùng cao. Cuối cùng, những căng thẳng này bùng lên thành những cuộc xung đột giữa người Việt và người Tây Nguyên vào những thập niên 1750 và 1760. Như nhà nghiên cứu Li Tana đã viết, sự bành trướng của cư dân Việt và vấn đề mùa màng thất bát đã là ngòi nổ của cuộc đối đầu ở Quảng Nam. Người miền cao, thường gọi là “Mọi Đá Vách” thường xuyên mở những cuộc đột kích các căn cứ của nhà Nguyễn ở phía nam Phú Xuân, và các nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm kiểm soát tình hình đã trở nên vô hiệu*. Khoảng thời gian giữa những năm 1767 và 1771, ngay trước cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, là một loạt những cuộc tấn công liên tiếp nhau như thế. Người Srê nổi dậy ở Quảng Ngãi năm 1770, cùng năm với người vùng cao Đá Vách tiến hành những cuộc tấn công xa hơn vào các cộng đồng ở vùng đồng bằng. Cuộc xung đột tiếp tục giữa người ở hai vùng cao và thấp là yếu tố quan trọng góp phần vào những thắng lợi ban đầu của phong trào Tây Sơn, khi các nhà lãnh đạo phong trào xem vùng cao là nơi tuyển mộ người thuận lợi nhất.

Suốt thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn dần dần khoác vẻ ngoài của một thực thể chính trị có tính tự trị hơn. Năm 1702, chúa Nguyễn* gửi một lá thư cho triều đình Trung Hoa thông qua các trung gian người Xiêm, xin nhà Thanh công nhận là một thuộc quốc riêng rẽ. Vua nhà Thanh xét rằng vẫn còn vua Lê trên ngai vàng ở Thăng Long nên từ chối tiếp thư. Dù có sự bác bỏ của Thanh triều, cuộc thương lượng về mặt ngoại giao cũng cho thấy sự hiện diện tại Đàng Trong của một thực thể chính trị đang nỗ lực tái khẳng định mình. Điều này phản ánh qua việc thay đổi các thuật ngữ chính trị, như danh xưng dùng để chỉ kinh đô của họ, danh hiệu các quan chức và tước hiệu dùng cho các thành viên trong vương gia*. Cuối cùng, năm 1744, chúa Nguyễn* chính thức hóa việc thoát khỏi ảnh hưởng của nhà Lê, đánh dấu sự chấm dứt việc công nhận vua Lê là người lãnh đạo về mặt chính trị của họ*. Vào năm đó, chúa Nguyễn Phúc Khoát ban một chỉ dụ tuyên bố việc xưng vương, tự xem mình ngang hàng các nhà cai trị phía bắc, chứ không còn là thần dân của họ nữa.

Vào thời kỳ này, cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn đều củng cố quyền lực chính trị của họ, trong lúc vua Lê vẫn còn ngồi trên ngai vàng. Dòng dõi hoàng tộc này từng một thời lừng lẫy, đã hàm ơn dòng họ Trịnh về sự “phục hưng”, tuy vẫn còn được duy trì danh hiệu và cung điện, song quyền hành thực sự đã về tay chúa Trịnh. Đó là một sự sắp đặt có lợi cho dòng họ Trịnh khi họ có thể nắm giữ quyền hành chính trị và kinh tế mà không cần phải gạt bỏ nhà Lê. Họ toan tính nắm quyền trên danh nghĩa của chính họ mà không cần sử dụng danh nghĩa của nhà Lê. Song họ cho rằng tính chính thống của nhà Lê cũng như sự tưởng nhớ của người dân về thời kỳ hoàng kim của dòng họ trị vì đó là vốn quý, giúp vào việc tái lập sự ổn định sau khi cuộc nội chiến kết thúc*. Cuối cùng thì quyền năng của họ Trịnh đã giúp ổn định ngai vàng vua Lê và cả hai đã phát triển mối quan hệ cộng sinh được công nhận rộng rãi. Có một câu nói trong dân gian như sau: “Chúa Trịnh còn nhà Lê còn, chúa Trịnh mất nhà Lê mất”. Sự sắp đặt đó, cùng với sự căng thẳng chính trị tiềm tàng của nó, kéo dài đến thời kỳ Tây Sơn.

Giữ vua Lê trên ngai vàng là con dao hai lưỡi đối với chúa Trịnh, khi lòng trung thành đối với nhà Lê kéo dài đến thế kỷ XVIII. Thật vậy, nhiều cuộc nổi dậy với qui mô lớn diễn ra ở phía bắc vào thế kỷ XVIII lợi dụng sự bất hòa giữa vua Lê và chúa Trịnh để tuyên truyền lôi kéo tình cảm của người dân hướng về nhà Lê. Điều đặc biệt là sự tưởng nhớ đến thời kỳ vàng son đầu đời Lê lại tương phản mạnh mẽ với sự cam go về kinh tế tác động lên đời sống người dân đang oán thán các chúa Trịnh*. Hai cuộc nổi dậy quan trọng vào thời kỳ này, trong đó có cuộc nổi dậy của hoàng thân Lê Duy Mật, diễn ra vào những năm từ 1738 đến 1769, với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Vài cuộc nổi loạn nhận được sự ủng hộ của giới quan lại, trong đó người nổi tiếng nhất là Phạm Công Thế, đỗ trong khoa thi năm 1727, là quan lại cao cấp tham gia vào cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật. Khi Thế bị bắt vào năm 1738, những người hỏi cung ông ta trách rằng: “Nhà ngươi là người trong khoa giáp làm sao lại đi theo bọn phản nghịch?" Và Thế đã trả lời: “Danh phận không sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân biệt thế nào là thuận với nghịch được nữa?”

Về sau, trong thế kỷ đó, quan điểm này được danh sĩ Phạm Đình Hổ lặp lại, và trong tác phẩm Vũ trung tùy bút , ông đã viết: "thế hệ trượt dài vào những thói quen xấu và con đường quyền lực mỗi ngày một suy yếu. Khái niệm về danh thơm bị xáo trộn, và người ta không còn phân biệt được đúng sai”.

Với những cảm nghĩ như thế, đây là lúc thuận tiện để quy trách nhiệm về các biến động trên và cuộc nổi dậy đầy ấn tượng tiếp sau đó của nhà Tây Sơn khi nhà Lê đang ở trong tình thế suy yếu rõ rệt. Tuy nhiên, việc xem xét chặt chẽ lại cho thấy những điều khác hơn. Dù cho nhiều biến động nổi lên vào giữa thế kỷ XVIII, đặc biệt ở khu vực phía bắc, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tương đối mạnh, họ tập trung quyền lực vào giữa và một phần nửa sau thế kỷ này. Ở phía nam, thời kỳ giữa thế kỷ XVIII là thời kỳ của sự mở rộng về mặt địa lý và một vương triều quyết đoán, có đầu óc độc lập được lãnh đạo bởi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), một người kiên quyết và có tài. Thời gian trị vì 27 năm của ông đánh dấu một thời kỳ mở rộng đất đai và những mối quan hệ ngoại giao rộng rãi với người Xiêm và người Khmer. Ở phía bắc cũng tương tự như thế, trong lúc có nhiều biến động lớn do dân chúng gây ra vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII nhằm phản ứng lại đường lối cai trị khắc nghiệt của chúa Trịnh Giang (1729-1740), tình hình được cải tiến chậm dưới thời hai người kế tục ông là Trịnh Doanh (1740-1767) và Trịnh Sâm (1767-1782); cả hai đã có những nỗ lực đáng kể nhằm giải quyết những vấn đề trọng đại mà họ đã kế thừa*. Cuối cùng thì họ đã thành công trong việc đàn áp phần lớn các cuộc nổi dậy và bắt đầu chú ý đến một số bất mãn ngấm ngầm của giới nông dân. Cho dù họ không thể loại trừ được hết những vấn đề về cơ cấu mà họ Trịnh phải đương đầu, những nhà cai trị của hai miền cũng phục hồi được trật tự ở một mức độ nhất định. Không mấy ai đặt vấn đề về việc họ là những nhà cai trị có khả năng, tương đối mạnh mẽ. Mặt khác, họ có thể ngăn chặn một số vấn đề tiềm ẩn trong vương quốc riêng của mình, song họ không thể loại bỏ chúng hoàn toàn.