← Quay lại trang sách

Chương I - 3 ĐỘNG LỰC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA VÀO THẾ KỶ XVIII

Biến động đột ngột về chính trị tại Đàng Ngoài và Đàng Trong giúp định hình hoàn cảnh xuất hiện cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, song các động lực khác trong xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XVIII cũng góp phần lớn vào việc xác định đặc điểm của thời kỳ này. Nhiều yếu tố sẽ được đề cập đến về sau, song có một vài yếu tố đáng được nêu bật ở điểm này. Điều đặc biệt là ảnh hưởng của phương Tây gia tăng, khi có nhiều người Âu, nhất là các giáo sĩ, đến Đại Việt. Có những biến đổi nội tại trong xã hội liên quan đến sự gia tăng thịnh vượng và một cấu trúc giai cấp thay đổi không ngừng. Hơn nữa, đây là thời kỳ của sự vận động mạnh mẽ về tri tuệ, được thúc đẩy một phần bởi những nỗ lực của giới nho sĩ nhằm tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của một xã hội nhiễu loạn.

Có lẽ điều đáng chú ý nhất là vào thời kỳ này, người ta nhận thấy ảnh hưởng của người châu Âu một cách sâu sắc và trực tiếp hơn bất cứ lúc nào trước đó. Con đường chủ yếu dẫn đến sự giao tiếp ngày càng gia tăng là thương mại và tôn giáo. Các thương nhân và giáo sĩ châu Âu tranh nhau hàng hóa, thị trường và tâm linh của người Việt. Các giáo sĩ châu Âu đã hiện diện ở Đại Việt vào những năm đầu của cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh và nhân số của họ tăng lên vào thời kỳ hậu chiến, đồng thời với sự gia tăng của người dân địa phương theo đạo Thiên Chúa. Mặc dù sự thành công của các giáo sĩ còn hạn chế, một vài gia đình có máu mặt và một vài ngôi làng cải sang đạo mới, hình thành những nhóm nhỏ trong xã hội Đàng Ngoài và Đàng Trong mà quyền lợi phần nào vượt ra ngoài những chuẩn mực đã được chấp nhận về xã hội và tôn giáo*. Những căng thẳng giữa triều đình Việt Nam với người theo đạo Thiên Chúa được biết đến nhiều vào thế kỷ XIX, song ở nửa sau thế kỷ XVIII, giáo dân Việt và các giáo sĩ châu Âu đã đứng trước một tình thế nan giải về mặt chính trị, như chúng ta sẽ thấy ở Chương IV. Dù trong trường hợp nào, giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam và các giáo sĩ châu Âu cũng bị thu hút vào các cuộc xung đột của nhà Tây Sơn, và con đường được vạch ra trong việc chọn phe nào không nghiêm ngặt và dễ đoán trước một chút nào.

Như Nguyễn Thanh Nhã đã lập luận, thế kỷ XVIII là thời kỳ có những chuyển biến kinh tế quan trọng, trong đó những hoạt động thương mại và mậu dịch (cả trong nước lẫn quốc tế) đã hình thành sự phân phối của cải và những nền tảng của quy ước xã hội. Ông cho rằng sự gia tăng thịnh vượng dưới hình thức hoạt động thương mại đã phá vỡ các rào cản xã hội. Những phân hóa xã hội đang tồn tại đã ít được khảo sát một cách cẩn trọng và một số dạng nghề nghiệp (như nghề diễn tuồng chẳng hạn) đã không còn bị khinh rẻ. Mối quan hệ gia đình của những người như thế không còn là rào cản ngăn họ vươn tới địa vị cao nữa. Khi nhắc tơi Lê Quý Đôn, Alexander Woodside cũng đã viết rằng ở Đàng Trong “sự phân biệt giai cấp và địa vị xã hội đã suy giảm”. Trong lúc những phân biệt đó không bao giờ được khảo sát một cách nhiệt tình ở vương quốc nhà Nguyễn thì có những dấu hiệu cho thấy rõ rằng ảnh hưởng của chúng ở vương quốc chính thống về mặt văn hóa của chúa Trịnh cũng suy tàn. Thật vậy, các tác giả như Lê Quý Đôn đã miêu tả một số thay đổi này và sự gia tăng mức độ thịnh vượng về thương mại ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.

Cuối cùng, thế kỷ XVIII là thời kỳ của sự vận động về mặt tinh thần, đặc biệt ở Đàng Ngoài. Một số nhân vật quan trọng hiểu biết nhiều về lịch sử Việt Nam hoạt động tích cực vào thế kỷ XVIII vốn được miêu tả như một trong những cao điểm trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Nửa sau thế kỷ này là thời kỳ của Lê Quý Đôn (1726-1784), một trong những tác gia và nhà triết học quan trọng nhất trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Ít nổi tiếng hơn một chút song cũng có nhiều tài như Ngô Thì Nhậm (1746- 1803), Phan Huy Ích (1751-1822), Bùi Dương Lịch (1758-1827), Bùi Huy Bích (1744-1818), Nguyễn Thiếp (1723-1804), và những người khác đã hoạt động tích cực trong thời kỳ Tây Sơn, bị tác động bởi chúng và phản ánh chúng trong tác phẩm của họ. Đó cũng là thời kỳ của Nguyễn Du (1765-1820), tác giả lừng danh của Truyện Kiều . Ngoại trừ Nguyễn Thiếp và Nguyễn Du, những người còn lại thuộc về tầng lớp đỗ đạt tiến sĩ, những sĩ tử đã đi đến giai đoạn cuối của hệ thống khoa cử nhiều cấp do triều đình tổ chức.

Đối mặt với những rối loạn về chính trị và xã hội ngày một gia tăng của thời đại mình, nhiều người trong những nhà nho này tích cực tìm phương thuốc nhằm ổn định trật tự. Cho dù là một thành phần trong cơ chế quan liêu, giới nho sĩ trong thơi kỳ này vẫn còn gắn bó chặt chẽ với cái gốc rễ nông thôn của họ, vì thế họ đã cố những mối quan tâm cụ thể đến việc thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của người nông dân*. Trong số những nhà nho được biết đến nhiều vào giai đoạn đó có Lê Quý Đôn và Ngô Thì Nhậm, đã nhắc lại câu danh ngôn của Khổng phu tử “Dân là gốc nước” (Dân vi bang bản)*. Hay như danh sĩ Nguyễn Thiếp đã viết cho nhà lãnh đạo Tây Sơn một bức thư vào năm 1791: “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên”*. Do đó, mối quan tâm của họ không phải xuất phát từ một chủ nghĩa vị tha, mà đúng hơn bằng nhận thức rằng sự ổn định ở nông thôn rất cần thiết cho sự tồn tại của nhà nước.

Để giải quyết các vấn đề xã hội như vậy, những nhân vật này nỗ lực phục hồi các tư tưởng của xã hội Khổng giáo đã được miêu tả trong văn hán cổ từ di sản triết học mà họ đã chia sẻ với người Trung Quốc. Họ tìm cách gieo rắc tư tưởng của những văn bản đó và đưa ra những giải thích cá nhân, cốt sao những giải pháp họ đề ra đạt được hiệu quả mong muốn. Kết hợp mối quan tâm về cuộc khủng hoảng xã hội trong cộng đồng với niềm tin về tính cải thiện trong học thuyết Khổng tử, các nho sĩ phía bắc tham gia vào nhiều hoạt động sôi nổi nhằm quảng bá các tác phẩm kinh điển của Khổng giáo cùng với thông điệp của chúng. Những thông điệp từ các tác phẩm mà họ viết ra thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau: tóm lược nguyên tác, trích dẫn từ tác phẩm kinh điển, chuyển thành thơ, và quan trọng hơn cả là dịch toàn phần hay ít nhất một phần tác phẩm kinh điển ra chữ Nôm*. Mặc dù giới sử gia Việt Nam đương đại cho là các nhà lãnh đạo Tây Sơn về sau đã có những công trình dịch những tác phẩm kinh điển ra chữ Nôm, hành động này cần được coi như là biểu thị to lớn và có hệ thống nhất của một nỗ lực nhằm mở rộng nhận thức của công chúng về sách vở Khổng giáo thông qua một hình thức dễ tiếp cận rộng rãi hơn.

Nói tóm lại, thế kỷ XVIII trải qua cuộc khảo sát chặt chẽ hơn về cả hai mặt tinh thần và xã hội, về sự bất mãn của giới nông dân bùng nổ dữ dội dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn*. Như chúng ta sẽ thấy, cả hai mặt này có quan hệ hỗ tương chặt chẽ với nhau, giúp tạo ra phong trào Tây Sơn và về thực chất đã định hướng phong trào suốt hơn 30 năm trải rộng khắp lãnh thổ Việt Nam.