Chương I - 4 CÁC YẾU TỐ GÂY RA SỰ BẤT MÃN CỦA DÂN CHÚNG: TẠI SAO CÓ PHONG TRÀO TÂY SƠN?
Trong lúc động lực xã hội được coi là cơ sở quan trọng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, nó lại không thể giải thích được căn nguyên của sự biến loạn. Vì thế, chúng ta cần nhìn một cách trực tiếp hơn vào những mô hình rộng rãi về chuyển đổi dân số và kinh tế, góp phần làm lan rộng tình trạng bất an, và vào những yếu tố trực tiếp hơn, chủ yếu về kinh tế nhưng cũng về cả quân sự và chính trị. Và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, cả hai yếu tố này góp phần làm cho tình hình trở nên tệ hại hơn bởi một loạt những chuyển tiếp chính trị gay go ở cả hai miền đất nước, những chuyển tiếp có thể mang lại thành công về quân sự và chính trị cho đạo quân nổi dậy.
I.4.1. Chuyển biến về dân số trên lãnh thổ của chúa Nguyễn
Lãnh thổ của chúa Nguyễn nhanh chóng được mở rộng từ giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Việc mở rộng sự thống trị của nhà Nguyễn đến những vùng xa kinh đô Phú Xuân cũng mang lại những hệ quả quan trọng. Trước tiên, dân số và khối lượng đất đai do chúa Nguyễn kiểm soát đã gia tăng rất nhiều, khiến cho việc quản lý về mặt hậu cần của vương quốc này trở nên phức tạp hơn rất nhiều*. Thêm vào đó, sự mở rộng quyền lực chính trị về phía nam có nghĩa là các chúa Nguyễn ở một chừng mực nào đó đã bị cô lập về mặt vật chất với phần lớn vương quốc của họ, một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam đèo Hải Vân, thuộc trấn Quảng Nam. Những vùng đất mới do chúa Nguyễn công bố chủ quyền là nơi cư trú của những nhóm người pha tạp, hay dời đổi, có mối quan hệ lỏng lẻo với kinh đô Phú Xuân. Như chúng ta đã biết, khu vực quanh Qui Nhơn được dành làm nơi cư trú của những tù nhân chính trị phía bắc và cũng là quê hương của những người còn sót lại của vương quốc Chăm, trong khi có nhiều nhóm người vùng cao sống sát cạnh trung tâm của cuộc nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn tìm cách nới rộng ảnh hưởng trong khu vực, họ tác động đến quyền lợi chính trị của người Chăm và người vùng cao tại địa phương, song cả hai nhóm người này sẽ sớm trở thành những nhóm ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.
Ngoài ra, khi nhà Nguyễn bành trướng xa hơn về phía nam, đến vùng đồng bằng sông Cửu Long do người Khmer cắt nhượng, họ xung đột với những người dân còn sót lại của vương quốc Chân Lạp. Trong lúc người Khmer không phải là chướng ngại quan trọng đối với quân nhà Nguyễn thì việc di chuyển đến vùng này khiến nhà Nguyễn đụng độ trực tiếp với các thế lực chính trị ở lục địa Đông Nam Á, đặc biệt là với sức mạnh của người Xiêm*. Cùng với thời gian, vận may của các nhà cai trị đất Chân Lạp suy yếu dần, dẫn đến những cuộc tranh giành quyền lực giữa những người muốn chiếm lấy ngai vàng. Những sự kiện này lần lượt thu hút sự chú ý của triều đình Xiêm vốn không ngừng mưu tìm một vai trò trực tiếp trong các vấn đề chính trị tại Chân Lạp. Sự đến sau của nhà Nguyễn không tránh khỏi việc lôi kéo triều đình Việt vào những mưu đồ trong đời sống chính trị ở Chân Lạp và sự đối đầu trực tiếp với người Xiêm vào thập niên 1760*. Năm 1766, quân Nguyễn xung đột quân sự với quân Xiêm, chủ yếu tập trung vào trung tâm thương mại quan trọng ở vùng duyên hải Hà Tiên, song cũng ở cả khu vực nội địa*.
Năm sau, một quốc vương Xiêm mới lên ngôi báu ngay sau một cuộc xâm lược của người Miến Điện* Nhà cai trị mới của Xiêm là Taksin, một người có hai dòng máu Hoa-Thái, nhanh chóng theo đuổi một chính sách ngoại giao hung hăng, đưa quân Xiêm áp sát biên giới các nước láng giềng. Quan trọng hơn cả là Taksin thân hành dẫn một đoàn quân đi vào đất Chân Lạp vào năm 1771, và đưa người ông ta ưa thích lên ngai vàng ở Oudong. Cuộc đụng độ ở Hà Tiên tiếp tục âm ỉ và bùng phát theo chu kỳ vào những năm tiếp sau. Đầu năm 1772, nhà Nguyễn huy động trên 10 vạn quân để đối phó với quân Xiêm và quân Chân Lạp. Mặc dù quân Nguyễn cầm chân được quân Xiêm ở vịnh và chiếm được đất của Chân Lạp ở Phnom Penh và vùng phụ cận, những nỗ lực này khiến cho chính quyền nhà Nguyễn ở Phú Xuân phải luôn bận tâm với vùng đất ở xa về phía nam kinh đô của họ. Cuối cùng, họ dễ rơi vào tình trạng rối loạn nội bộ, ngay khi mà cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã được trù tính xong ở vùng cao An Khê.
I.4.2. Những vấn đề kinh tế của nhà Nguyễn
Trong lúc bận rộn về mặt quân sự ở xa về phía nam, nhà Nguyễn còn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế trải rộng trên nhiều mặt trận. Cuộc khủng hoảng bao gồm những vấn đề có phạm vi rộng lớn nhưng có quan hệ mật thiết với nhau như chi tiêu quá đáng, sưu thuế tăng cao và bất quân bình về mặt địa lý, tham nhũng trong chính quyền, thu nhập từ ngoại thương giảm sút đột ngột, sản lượng lúa gạo không cân bằng và một cuộc khủng hoảng về tiền đồng phát sinh trong tình huống ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Phú Xuân. Thật vậy, trong những thách thức mà nhà Nguyễn gặp phải vào lúc này, chính vấn đề thuế má sẽ đổ dầu vào ngọn lửa bất mãn của dân chúng. Chính thứ dầu này mà các lãnh tụ Tây Sơn đã bật tia lửa làm bùng lên cuộc nổi dậy của họ.
Hình 3: Cảnh sông Thu Bồn ở phía nam Đà Nẵng năm 1793, Tranh vẽ của William Alexander, một thành viên thuộc phái bộ Huân tước McCartney năm 1793. In trong tác phẩm Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến du hành sang Đàng Trong những năm 1792-1793) của John Barrow (London, T. Cadell & W. Davies, 1806; in lại tại Kuala Lumpur bởi Oxford University Press, 1975).
I.4.3. Khủng hoảng về thu nhập, thương mại và tiền đồng
Cái giá phải trả cho cuộc chiến với quân Xiêm buộc nhà Nguyễn phải triển khai một quân số tương đối lớn ở xa kinh đô Phú Xuân là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng về kinh tế ở vương quốc Đàng Trong. Tuy nhiên, đó không phải là lý do duy nhất, vì còn có sự kiệt quệ về ngân khố nữa. Nhiều lúc các chúa Nguyễn thực hiện những chi tiêu quá đáng cho nhiều dự án nhằm nâng cao uy tín của họ, trong đó có việc xây dựng những công trình rất công phu và hoa mỹ tại kinh đô Phú Xuân, vấn đề chi tiêu quá đáng tăng cao vào nửa sau thập niên 1760, đồng thời với việc công khố bị kiệt quệ đã khuyến khích nạn tham nhũng ở cả cấp địa phương lẫn trung ương. Sau khi củng cố địa vị như một gương mặt chính trị chủ yếu của vương quốc Đàng Trong, vị tân quốc phó Trương Phúc Loan đã nâng cao và mở rộng thuế má, từ đó làm gia tăng mạnh mẽ tài sản và ảnh hưởng cá nhân của ông ta. Việc Loan thừa nhận sự hối lộ cho phép các quan chức được miễn nghĩa vụ quân sự đã phản ánh một vấn đề rộng lớn về nạn tham nhũng diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau trong xã hội Đàng Trong.
Cùng lúc đó, nhà Nguyễn phải đương đầu với sự giảm sút đột ngột các khoản thu về thương mại khi số lượng tàu buôn từ nước ngoài ghé thương cảng quan trọng là Hội An (Faifo) giảm xuống rất nhanh trong suốt thập niên 1760 và đầu thập niên 1770, Trong Phủ biên tạp lục soạn năm 1776, Lê Quý Đôn đã viết rằng trong năm 1771, chỉ có 16 tàu buôn nước ngoài ghé Hội An và hai năm sau đó, chỉ còn phân nửa số tàu này cập bến!. Điều này trái ngược với một cảng sầm uất từng đón từ 60 đến 80 tàu buôn nước ngoài vào cuối thập niên 1740. Sự suy yếu về thương mại có thể một phần đo thuế nhập khẩu hàng hóa tăng nhằm đài thọ những dự án xây dựng quá phung phí của chúa Nguyễn Phúc Khoát khởi đầu vào giữa thập niên 1750. Hệ quả âm ỉ của sự suy yếu về thương mại còn diễn ra bên ngoài phủ chúa Nguyễn, có quan hệ với nhiều người sống trong vùng, bao gồm người dân trong nước cung cấp hàng hóa xuất khẩu và các thương nhân người Hoa cư ngụ ven biển kiếm sống nhờ vào các tàu buồn nước ngoài. Trong số những nhà buôn này có những người đầu tiên ủng hộ về tài chánh và quân sự cho nhà Tây Sơn, hi vọng sự thay đổi về mặt cai trị có thể giúp phục hồi các trung tâm thương mại sinh lợi ở vùng duyên hải.
Dính dáng trực tiếp đến sự suy yếu về thương mại là cuộc khủng hoảng về tiền đồng với những hệ quả quan trọng đối với nền kinh tế Đàng Trong. Lượng tiền đồng nhập từ Nhật Bản và Trung Quốc giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ vững sự tăng trưởng kính tế mà nhà Nguyễn đã trải qua trong 150 năm, tạo điều kiện thuận tiện cho giao dịch thương mại trong và ngoài nước. Không có mỏ đồng riêng, các chúa Nguyễn phải lệ thuộc vào kim loại nhập khẩu, và vào đầu thế kỷ XVIII, khi trị giá tiền đồng ở Nhật Bản và Trung Quốc tăng lên, lượng tiền đồng xuất cho Đàng Trong giảm đi rất nhiều. Sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp đồng từ bên ngoài của nhà Nguyễn luôn là một khâu yếu của nền kinh tế, và khi khâu này bị vỡ, họ không có nhiều sự lựa chọn. Cuối cùng, họ chỉ chọn một bước đi là nhắm vằo đồng tiền riêng của mình, song đúc bằng kẽm thay vì bằng đồng, một sự thay đổi dẫn đến một loạt vấn đề mới.
Để chuyển sang một kim loại mới, các chúa Nguyễn muốn rằng tiền kẽm phải được ngang giá với tiền đồng. Tuy nhiên, hình như đa số người dân chống lại đòi hỏi đó. Nhiều người thích tích trữ gạo hơn là bán lấy tiền kẽm, và giá gạo tăng lên khi nguồn cung cấp giảm xuống, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực ở một số nơi. Ngoài ra, như Lê Quý Đôn đã viết, tiền mới bị làm giả dễ dàng, góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng niềm tin vào đồng tiền và hủy hoại những nỗ lực ổn định tiền tệ. Chúa Nguyễn không phải là không biết đến những vấn đề do chính sách của họ gây ra, và điều này đã được một quan lại đã trí sĩ là Ngô Thế Lân kể lại trong một hồi ức vào năm 1770*. ông Lân kêu gọi chúa Nguyễn sản xuất thêm tiền đồng và xây dựng các kho chứa thóc để ổn định giá cả của loại hàng hóa quan trọng này, song lời cảnh báo của ông không được lưu ý đến, và cuối cùng ông đã phó thác số phận của mình cho nhà Tây Sơn.
Một vấn đề cuối cùng nhưng gần gũi hơn đã tạo sức ép lên vùng Qui Nhơn là ở Phú Xuân, người ta ngày càng thích loại gạo không mắc tiền trồng ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo một khảo sát tiến hành vào năm 1769, có một sự mất cân bằng giữa dân số và sản lượng lúa gạo giữa hai miền, và Quảng Nam đánh thuế gạo cùng loại cao hơn 30% so với Thuận Hóa. Mặc dù có thể điều này không liên quan trực tiếp với sản lượng gạo lúc bấy giờ, song nó gợi cho thấy có một khoảng cách lớn giữa hai vùng. Bằng cách tiếp cận số lúa gạo thặng dư sản xuất được ở Quảng Nam, nhà Nguyễn có thể định một giá gạo hợp lý cho Thuận Hóa, một vùng theo truyền thống chỉ trồng lúa đủ sống, với số lượng đủ để nuôi dân. Nhưng khi miền Nam của lãnh thổ có thể sản xuất một khối lượng lớn lúa thặng dư, số lúa này cần được chuyển đi gần 900 cây số để ra kinh đô của nhà Nguyễn. Khối lượng lúa chở ra Phú Xuân đòi hỏi việc trưng dụng một lượng lớn tàu thuyền.
Như Li Tana đã cung cấp thêm chi tiết, phần lớn yêu cầu của nhà Nguyễn về sự lao dịch và tàu thuyền chuyên chở lúa gạo từ phía nam diễn ra ở vùng phụ cận Qui Nhơn*. Khu vực này được coi như một trạm dừng lý tưởng trong hành trình chuyên chở lúa gạo rất cần cho người dân, được chia gần như cách đều nhau giữa Phú Xuân và Gia Định, nổi bật là một cảng quan trọng ở Thị Nại. Qui Nhơn cũng có lợi cho nhà Nguyễn, vì ở rất gần, dễ dàng tìm lao động và thu giữ tài nguyên hơn là vùng Gia Định xa xôi. Hậu quả là sức ép của nhà Nguyễn trên miền duyên hải nam-trung đã tạo ra một sự bất mãn to lớn ở đây. Dù cho tàu thuyền bị ép buộc chở lúa gạo hoặc được dỗ dành bằng các biện pháp khích lệ, kế hoạch cũng trở nên phức tạp và không chắc chắn. Tuy nhiên, điều chắc chắn là trung tâm chính trị của nhà Nguyễn đã trở nên lệ thuộc về kinh tế vào vùng đất phía nam của vương quốc Đàng Trong.
I.4.4. Thuế má và sự bất mãn của dân chúng
Vấn đề cơ cấu đặt ra những câu hỏi khó cho phủ chúa Nguyễn cũng như cho xã hội Đàng Trong rộng lớn hơn, song nguyên do trước mắt của sự bất mãn về kinh tế của dân chúng là thuế má. Nửa sau thế kỷ XVIII chứng kiến cả sự gia tăng gánh nặng sưu thuế lẫn nỗ lực mở rộng việc thu thuế ở những khu vực trước đây chưa từng bị đánh thuế như thế. Thuế má gia tăng do một số áp lực đã kể trên được làm cho dễ dàng một phần bằng cách cải tiến và cập nhật các hồ sơ về sở hữu đất đai và các thông tin liên quan đến các sản phẩm phi nông nghiệp. Năm 1769, có lẽ do mệnh lệnh của Trương Phúc Loan, vị chúa trẻ* ban chỉ dụ cập nhật sổ điền, dân số và năng suất vụ mùa cùng với dữ liệu chính xác về nguồn thu các sản vật thiên nhiên khác từ mật ong đến ngà voi. Tiếp đó, vào năm 1770, lại có một chỉ dụ khác cho tiến hành một cuộc điều tra và ghi sổ bộ các tư điền tại Thuận Hóa, nằm ở phần phía bắc lãnh thổ của các chúa Nguyễn*. Tác động của nỗ lực lập sổ dân, ruộng cày và tính khả dụng của nguồn nguyên liệu là rất đáng kể. Có thể là qua thời gian, những trang trại hiện có đã được mở rộng và nhiều trang trại mới được canh tác trong vùng. Phần lớn đất canh tác mới có thể chưa được ghi vào sổ bộ thuế chính thức. Vì vậy, việc lập sổ điền mới có thể mang về thu nhập mới cho phủ chúa, tiền thuế do những người trước đây tránh nộp nay phải đóng hoặc đang đóng với một thuế suất thấp trên đất đã được nâng cấp do sổ điền lập từ trước đã được biên soạn xong.
Những thay đổi này làm lan rộng sự oán thán về sưu cao thuế nặng và người dân nhắm trực tiếp vào ông quốc phó. Trong tài liệu điều tra nghiên cứu, Lê Quý Đôn đã viết là:"... Theo lời người ta nói, thuế tạp ở xứ Quảng Nam do Trương Phúc Loan mới tăng, không phải các vương công đời trước đặt”. Nhiều bài viết cho rằng Trương Phúc Loan đưa ra một loại thuế đinh rất không được hoan nghênh. Không giống như những dạng thuế khác đánh trực tiếp và tỷ lệ thuận với năng suất mùa màng và tình trạng cá nhân, thuế đinh là loại thuế cố định đánh trên mỗi dân làng có tên trong sổ thuế, cho dù như Nguyễn Thanh Nhã đã viết là khoản tiền thuế thay đổi tùy theo địa vị xã hội và cả địa điểm trong vương quốc nhà Nguyễn. Hệ thống thuế khóa mở rộng này cùng với việc Trương Phúc Loan dung túng cho nạn hối lộ, tham nhũng tràn lan, trong đó có việc mua quan bán chức trong làng, với mong muốn đó là một nguồn thu nhập. Những ai trả tiền để có một chức vị trong làng sẽ bù đắp vốn đầu tư bằng cách đặt thêm những khoản thuế phụ trội đánh vào những người dưới họ. Người dân còn thất vọng về một hệ thống phí bổ sung phức tạp, không bao giờ thay đổi và những chi tiêu cộng thêm vào các khoản thuế có sẵn, được các quan chức địa phương thực hiện một cách có hệ thống hoặc dưới hình thức đặc biệt. Có các loại phí “dầu đèn", phí “quà tặng” và phí “trầu cau”, bổ sung vào phí vận chuyển hàng hóa, phí xây dựng và phí bảo quản kho thóc. Hệ thống phí bổ sung diễn ra tệ hại nhất tại khu vực Qui Nhơn, nơi khởi phát không ngẫu nhiên cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.
Một vấn đề cơ bản khác và cũng là nguồn gốc sự khốn khổ của người dân là chính quyền đánh sưu cao thuế nặng đặc biệt trong những vùng kinh tế phát triển, vì những nơi này rất hấp dẫn đối với những viên chức tham nhũng. Chẳng hạn như Quảng Nam được coi là giàu có hơn phần phía bắc Thuận Hóa, và chính ở đây gánh nặng thuế khóa rất nặng nề. Như Lê Quý Đôn đã viết: “Thuận Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam là đất phì nhiêu nhất thiên hạ”. Nhà nghiên cứu họ Lê kết luận: “Lệ phí thuế ở xứ Quảng Nam khác với xứ Thuận Hóa. Sự trưng thu so với Thuận Hóa hơi nặng, cho nên kho tàng thu vào rất nhiều, bổng lộc quan lại rất nhiều, mà dân địa phương ấy nổi loạn trước cả cũng vì cớ ấy”.
Không chỉ người nông dân ở vùng thấp là những người lao đao vì chế độ thuế khóa thay đổi. Sự bất mãn về thuế rất mạnh mẽ ở những vùng cao thuộc Quảng Nam. Người vùng cao sống trong những khu vực này cảm thấy phải đối diện với một gánh nặng thuế khóa tăng đột ngột và toan tính của nhà Nguyễn trực tiếp kiểm soát hầu mở rộng cơ sở kinh tế của họ. Trước sự giảm sút thu nhập từ hoạt động thương mại vào giữa thế kỷ XVIII, có vẻ như nhà Nguyễn cùng các quan lại ở địa phương và khu vực chuyển sự chú ý của họ vào việc thu lợi tức từ những người sống bên lề sự kiểm soát chính trị của họ, và như Li Tana đã viết, phần nào nhằm chuyển gánh nặng thuế khóa ra khỏi những người dân vùng thấp vốn bất định. Những nhóm này kiểm soát một lượng lớn hàng hóa có giá trị mà bất cứ một nhà nước Việt Nam nào cũng cần hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của họ, từ các loại gỗ thơm đến các nguồn tài nguyên khoáng sản và động vật. Sự trao đổi hàng hóa từ lâu là mối tương tác về thương mại bền vững giữa người vùng cao và các đối tác của họ sống ở vùng ven biển. Chính quyền nhà Nguyễn đã thu thuế các nhóm dân vùng cao ngay từ cuối thế kỷ XVII, một việc làm chỉ phát triển vào thế kỷ XVIII. Có vẻ như sự thay đổi trong thời kỳ của Trương Phúc Loan là việc nhà Nguyễn tăng thu thuế ở những vùng này, với cái đích nhắm đặc biệt là vùng nội địa giàu tài nguyên của Quảng Nam*.
Mối tương tác đó lúc đầu chỉ nhắm vào thương mại, nhưng sau đó phát triển thành một khuôn khổ thuế má gia tăng, và Li Tana đã ước tính rằng vào cuối thập niên 1760, người vùng cao đã đóng góp gần 50% các khoản thuế thứ cấp (không quan trọng) (thuế phi đất đai và thuế thân) hàng năm cho nhà Nguyễn. Với chính quyền Đàng Trong áp đặt thuế thương mại và các loại thuế khác lên những người dân vốn từ lâu chưa từng phải đóng những loại thuế như thế, hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi những nhóm người này ủng hộ một phong trào nổi lên nhằm đảo ngược những áp lực thuế khóa như thế. Sự kiện các nhóm người vùng cao sẵn sàng tham gia vào những hành động chống lại nhà Nguyễn diễn ra từ thập niên 1750; cuộc nổi dậy mới xảy ra này* đối với họ đơn thuần chỉ là sự tiếp nối những thách thức của họ đối với chính quyền vùng đồng bằng. Việc tăng thu thuế của chính quyền nhà Nguyễn là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự ủng hộ phong trào Tây Sơn ngay từ đầu của các bộ tộc thiểu số. Tóm lại, như Li Tana đã nhận xét một cách sắc sảo: “chính hệ thống thuế khóa đã gây ra cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”.