← Quay lại trang sách

Chương I - 6 KHỞI NGUYÊN: NHỮNG NĂM ĐẦU TIÊN TRONG CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Tình hình chín muồi cho một cuộc nổi dậy, và nhiều cơ hội đang chờ đợi các nhân vật có tham vọng về quân sự tìm cách liên kết với những người ủng hộ. Vào giai đoạn đó, có ba anh em cư ngụ ở ấp Tây Sơn nhỏ bé. Người anh cả là Nguyễn Nhạc nằm trong guồng máy hành chánh mà sau này ông ta sẽ lật đổ, ở đó, ông ta giữ chức tuần biện lại) có nhiệm vụ thu thuế ở khu Vân Đồn. Nhạc cũng là người buôn bán trầu cau, một loại hàng hóa quan trọng ở địa phương lúc bấy giờ. Vì thế, ông ta đã có mối liên hệ với cả nhà cầm quyền lẫn địa hạt thương mại rộng lớn đang ở trong tình trạng căng thẳng vào giữa và nửa sau thế kỷ XVIII. Cả hai nghề nghiệp này đòi hỏi ông ta phải thường xuyên đi lại trong vùng, trong đó có việc tiếp xúc với khu vực cao nguyên, một nơi mà chúng ta đã biết là đang chịu một áp lực thuế má rộng lớn và không thoải mái từ nhà Nguyễn. Những chuyến đi này giúp ông ta mắt thấy tai nghe về mức độ bất mãn của dân chúng trong vùng.

Các nguồn tư liệu không có sự đồng nhất với nhau về một nguyên nhân chính xác đã thúc đẩy Nhạc đi đến quyết định khởi loạn, song tất cả đều cho rằng ông ta không có khả năng giao nộp tiền thuế đã thu từ khu vực ông ta chịu trách nhiệm. Một vài tư liệu ám chỉ việc Nguyễn Nhạc ưa thích cờ bạc và ngụ ý rằng ông ta đã tiêu phí tiền thuế thu được vào loại trò chơi này*. Maurice Durand có vẻ như hoàn toàn có lý khi cho rằng Nhạc không bao giờ có thể thu ngay được thuế do tình trạng lụn bại về kinh tế trong vùng và do dân chúng bất mãn trước gánh nặng thuế má dành cho họ. Dù chi tiết của việc không nộp thuế thu xong có được giải trình như thế nào, vào một thời điểm trong năm 1771, ông ta tìm cách trốn lên vùng cao nguyên ở phía tây ngôi nhà ở để không bị quan lại nhà Nguyễn truy lùng và bắt bớ*, ông ta đưa hai người em và một nhóm nhỏ những người ủng hộ đi theo, hi vọng chốn xa xôi sẽ bảo vệ được họ trong lúc trù tính kế khác. Trong quá trình hành động này, ông ta nhận được sự khích lệ của một người thầy giáo cũ tên Trương Văn Hiến, vốn là một người tị nạn khỏi chính quyền nhà Nguyễn do Trương Phúc Loan chế ngự. Hiến thúc giục Nhạc tự xem như mình được sinh ra để thực hiện lời tiên tri lâu năm tại địa phương: tây khởi nghĩa, bắc thu công*. Ông thầy gợi ý rằng từ “tây” trong lời tiên tri có liên quan đến Tây Sơn là tên ngôi làng của ba anh em Nguyễn Nhạc.

Vùng An Khê mà ba anh em Tây Sơn lui về là một địa điểm lý tưởng cho những người cầm đầu một cuộc khởi loạn khi họ tìm cách giành lấy sức mạnh và người ủng hộ. Nó tương đối xa, chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm, dễ dàng bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của quân nhà Nguyễn*. Vùng cao nguyên này nằm giữa những con đường thương mại quan trọng trải dài từ cảng biển Qui Nhơn ở phía tây đến lãnh thổ của Chân Lạp và vùng nam Lào, mở đường cho hàng hóa chuyên chở dọc theo chúng*. An Khê cũng là một khu vực giàu tài nguyên có thể cung cấp cho anh em Tây Sơn các thứ gỗ, sắt, sulphur, ngựa và voi. Nguyễn Nhạc từng có nhiều cuộc tiếp xúc trong vùng, nơi cung cấp cho ông ta chỗ trú ẩn, và một điều quan trọng không kém là tuyển mộ quân sĩ. Trong hai năm kế đó, Nhạc và nhóm người theo ông ngày càng đông đúc, tiếp tục ở An Khê để củng cố căn cứ và lôi cuốn thêm người ủng hộ. Ưu thế của vị trí của họ giúp ba anh em đạt được vài thắng lợi ban đầu ở các vùng phụ cận, rút kinh nghiệm chiến đấu, tăng cường uy tín, trong khi ít nguy cơ hơn. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nguyễn Nhạc quyết định là đạo quân của ông ta đã sẵn sàng đi xuống vùng đồng bằng và thách thức trực tiếp quân nhà Nguyễn.

Để thiết lập một vị trí vững chắc ở vùng đồng bằng ven biển quê nhà, đạo quân Tây Sơn cần chiếm lĩnh phủ Qui Nhơn có thành lũy bao quanh, với phủ lỵ cùng tên. Không đủ nhân lực và vũ khí để trực tiếp tấn công thành, các lãnh tụ Tây Sơn quyết định lấy thành bằng mưu chước. Dụng cụ họ sử dụng là một phiên bản của con ngựa thành Troie, nhằm công thành từ bên trong. Để thực hiện mục tiêu này, vào giữa tháng 9 năm 1773, Nhạc giả vờ bị bắt. Ông ta hướng dẫn những người ủng hộ làm một chiếc cũi và khi cũi làm xong, ông ta tự nhốt mình vào đó. Những người ủng hộ Nhạc đến gặp các quan lại ở phủ, báo rằng họ đã bắt được lãnh tụ Tây Sơn nổi tiếng và rồi mang “tù nhân” đến trình diện các quan.

Quan nhà Nguyễn thích thú với vận may này, sau khi tưởng thưởng xứng đáng cho những người mang giao nộp người tù đáng giá, họ chuẩn bị đưa cũi về phủ lỵ. Đêm hôm đó, khi những người ủng hộ Nhạc tập trung bên ngoài thành, ông ta tự chui khỏi chiếc cũi, đoạt gươm của người lính coi ngục và bắt đầu tấn công đám lính gác, cùng lúc đó, ông ta mở cổng phủ lỵ để cho quân lính của ông ta tràn vào. Khi đã vào thành rồi, quân Tây Sơn nhanh chóng tiêu diệt số lính đóng trong thành, đốt cháy doanh trại của họ. Quan Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên chạy ra khỏi thị trấn, vội quá đến nỗi đánh rơi ấn tín, chứng cứ chính thức về quyền cai trị của ông ta. Việc dùng vũ trang chiếm lấy phủ Qui Nhơn và của cải lấy được góp phần mở rộng quyền lực và uy tín của anh em Tây Sơn. Ngoài ra, việc chiếm phủ giúp họ kiểm soát có hiệu quả một dải đất trọng yếu dọc theo bờ biển.

Thắng lợi nhanh chóng bước đầu của quân nổi dậy có thể được quy cho nhiều yếu tố, trong đó có sự thành lập một liên minh quân sự rộng lớn (nhưng không ổn định), một quân đội nhà Nguyễn không có động lực chiến đấu và có thể không được chuẩn bị sẵn sàng, không triển khai khéo léo các mưu lược cùng những thiết bị khác để giảm thiểu cách biệt với nhà Tây Sơn. Trong những năm đầu tiên đó, những người khởi loạn khai triển và cổ vũ cho hình ảnh như là những chiến sĩ chính trực, những người của nhân dân, và chịu khó hành xử để người nông dân chiếm đa số trong dân tộc không xa lánh họ. Một giáo sĩ người Tây Ban Nha là Cha Diego de Jumilla đã viết về quân khởi loạn trong một bức thư gửi đi năm 1774 rằng họ:

“Không làm tổn hại người hay tài sản. Trái lại, có vẻ như họ muốn mọi người Đàng Trong đều được bình đẳng; họ vào nhà của người giàu, và nếu như họ được tặng một món quà biếu nào đó, họ không làm hại gì. Nhưng nếu họ bị kháng cự, họ tịch thu những món đồ xa xỉ nhất rồi mang chia cho người nghèo, chỉ giữ lại cho họ gạo và thức ăn... (Vì thế, người dân) bắt đầu tôn xưng họ là những kẻ cướp nhân từ và bác ái, được người nghèo khổ kính trọng”*.

Tuy nhiên, nhà Tây Sơn không chỉ kêu gọi những người nông dân nghèo trở thành những người cốt cán theo họ. Họ cũng cần có sự ủng hộ của những thành phần khác trong xã hội, trong đó có những người có nhiều uy thế ở địa phương, có thể mang theo những người tùy tùng và của cải, những người có thể đóng góp nguồn tài chánh rất cần thiết cùng những tài nguyên vật chất khác. Trong số người được tuyển mộ vào phong trào những ngày đầu có những người như Nguyễn Thung, được Đại Nam liệt truyện của nhà Nguyễn nhắc đến như là một “tên ác ôn ở xóm làng”, ám chỉ việc ông ta có một thế lực nhất định ở địa phương (tuy nhiên ông ta đã bị các sử gia triều Nguyễn miệt thị), và Huyền Khê, cũng được Đại Nam liệt truyện miêu tả là xuất thân từ một gia đình giàu có.

Các lãnh tụ Tây Sơn cũng mở rộng quân đội của họ để liên kết rộng rãi với những người dân đồng bằng bất mãn, phần lớn là người Chăm và người Hoa. Trong hai nhóm người này, quan trọng nhất về mặt tài chánh và quân sự là người Hoa, nhiều người trong số họ là thành viên của các hội buôn quan trọng dọc theo miền duyên hải. Điểm đặc biệt là những thương buôn người Hoa ngày càng cảm thấy khốn khổ vì tình trạng xuống dốc trong thương mại, cùng với chính sách thuế khóa của nhà Nguyễn, họ hi vọng nhà Tây Sơn sẽ cải thiện được tình hình. Các thành viên của cộng đồng này đóng góp tiền bạc và nhân lực cho Tây Sơn, tác động trực tiếp và quan trọng vào sức mạnh của phong trào nổi dậy. Lực lượng của người Hoa giúp mở rộng đạo quân Tây Sơn một cách nhanh chóng, nhưng đồng thời sự hiện diện của họ cũng làm xói mòn tính thuần nhất mong manh của quân nổi dậy. Quân lính người Hoa được tổ chức như những lực lượng quân sự tự trị chỉ nghe theo các cấp chỉ huy người Hoa, là những đồng minh hơn là thống thuộc quân đội Tây Sơn. Ngoài ra, có vẻ như những cam kết của người Hoa với anh em Tây Sơn cũng có giới hạn, và trong vòng 2 năm, những người chỉ huy các đạo quân tự trị này đã làm rạn nứt hàng ngũ những người ủng hộ nòng cốt ban đầu của nhà Tây Sơn.

Thứ đến, nhà Tây Sơn lợi dụng tình trạng chưa sẵn sàng của quân đội nhà Nguyễn để xem đó là cơ hội của một cuộc nổi dậy. Quân Nguyễn dưới quyền Trương Phúc Loan được huấn luyện kém, và thiếu kinh nghiệm, vốn là hệ quả của tình trạng thái bình tương đối lâu dài trong vùng. Dù cho quân Nguyễn không tỏ ra lười nhác vào những thập niên đầu, song họ có liên quan đến việc gây ra sự náo động trong người dân cao nguyên, đến cuộc giao tranh với quân Xiêm vào cuối thập niên 1760 - họ đã không được chuẩn bị để đối phó với tầm cỡ và sức tiến nhanh của những thách thức quân sự mới nảy sinh từ nhà Tây Sơn. Có vẻ như quân Nguyễn bỏ chạy khỏi chiến trường mỗi khi có thể, và các quan lại thường đưa hối lộ để khỏi phải đi lính và cử người khác đi thay họ. Cùng với thời gian, quân Nguyễn hoạt động hiệu quả hơn khi cuộc tấn công bất ngờ ban đầu của nhà Tây Sơn qua đi, nhưng cũng cần có một khoảng thời gian nào đó để họ có thể cản được đà tiến của quân khởi loạn trong những cuộc chạm trán đầu tiên.

Cuối cùng, như đã đề cập trong kịch bản chiếc cũi, vào những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng nhiều chiến thuật và mưu lược khác nhau để cải thiện tình thế bất lợi cho họ. Chẳng hạn như để làm cho đối phương hoảng sợ, lực lượng Tây Sơn tạo ra những tiếng rít to khi di chuyển qua vùng nông thôn và khi chiến đấu. Chính từ chiến thuật này mà họ được khoác cho cái biệt danh phổ biến là quân ó. Quân Tây Sơn cũng tìm cách dọa dẫm kẻ thù của họ bằng cách chiến đấu dưới một lá cờ đỏ khổng lồ được cho là dài 9m. Có thể đoán chừng là lá cờ đó được nhìn thấy từ rất xa, và cùng với những tiếng rít ít nhất cũng có khả năng làm cho quân Nguyễn hoảng sợ. Một cách khác gây ra sự hoảng sợ là cải trang thành những người cao nguyên to lớn như đạo quân người Hoa, rồi khuyến khích họ uống rượu say và trần truồng lao vào chiến trận. Người ta cho rằng những đạo quân này có mang những tấm giấy vàng và bạc dùng đắp lên mặt quân lính đối phương đã ngã xuống để xem họ còn thở không để rồi sát hại những người giả chết. Kết quả là các tài liệu của nhà Nguyễn có ghi là “Không ai kháng cự lại chúng được”.