← Quay lại trang sách

Chương I - 7 DIỄN BIẾN CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN: ĐẠI CƯƠNG VỀ MẶT LỊCH SỬ

Bằng cách này, quân Tây Sơn đã thách thức quyền lực tối cao của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Lực lượng nổi dậy nhanh chóng gia tăng về số lượng và trải rộng sự kiểm soát một dải đất to lớn hơn bao giờ hết. Từ một góc nhỏ trong nội địa Qui Nhơn, quân đội Tây Sơn chiếm lấy phần lớn Đàng Trong và cuối cùng cả toàn bộ Đàng Ngoài nữa. Phần còn lại của tác phẩm này dành khảo sát xem các lãnh tụ Tây Sơn đã bành trướng quyền lực bằng cách nào và các mối quan hệ phức tạp giữa họ với nhiều thành phần khác nhau trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Vì phương pháp nghiên cứu của tôi không theo lối biên niên một cách chặt chẽ, tôi bắt đầu với một cái nhìn khái quát về hành trình chính trị và quân sự của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn kéo dài ba thập kỷ. Bản phác thảo của tôi sẽ đề cập đến những nhân vật và biến động quan trọng của thời kỳ này và chỉ ra một số động lực xã hội sẽ được kể lại với những chi tiết quan trọng hơn ở phần phân tích về sau.

I. 7.1. Các trận chiến ở Đàng Trong (1773-1785)

Sau thắng lợi ở Qui Nhơn, lực lượng Tây Sơn có thể chiếm lấy nhiều huyện kế cận trước khi đối mặt với sự kháng cự của quân Nguyễn. Cùng lúc này, lợi dụng biến động ở Đàng Trong, quân Trịnh tiến công vào nam vào năm 1774, bề ngoài là để giúp quân Nguyễn đàn áp cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, nhưng rõ ràng họ xem đây là cơ hội bằng vàng để khuất phục một đối thủ chính trị lâu đời của họ. Khi lực lượng quân sự to lớn của miền Bắc tiến về Phú Xuân, triều đình nhà Nguyễn đi bằng đường biển vào Gia Định, nơi được dùng làm trung tâm kháng chiến đến cuối thời kỳ Tây Sơn. Tại đây, chúa Nguyễn* dành thời gian đầu cho việc tuyển mộ người ủng hộ để chuẩn bị cho cuộc phản công, cùng lúc với việc quân Trịnh tăng cường tấn công nhằm chiếm lấy Phú Xuân rồi vượt đèo Hải Vân nhắm tới các vị trí của Tây Sơn ở phía bắc Quảng Nam. Nằm giữa gọng kìm của quân Trịnh đang tiến đến và quân Nguyễn đang tập hợp lại ở phía nam, các lãnh tụ Tây Sơn áp dụng giải pháp thực dụng là đầu hàng quân Trịnh vào tháng 5.1775. Tướng chỉ huy đạo quân miền Bắc* sẵn sàng giao trách nhiệm truy đuổi chúa Nguyễn cho anh em Tây Sơn để tiếp tục cuộc tiến công kẻ thù ban đầu của họ.

Thời gian 10 năm sau được đánh dấu bởi một loạt chiến dịch quân sự qua lại giữa lực lượng Tây Sơn và quân chúa Nguyễn. Trọng tâm của những cuộc giao tranh là phủ Gia Định và thành phố chiến lược Sài Gòn của nó. Nhịp độ của trận chiến được điều chỉnh ở một mức độ đáng kể bởi những trận gió mùa chỉ có thể để cho các lực lượng thủy quân di chuyển đến những vị trí nào đó, vào những thời điểm nào đó. Hình thức giao tranh được định hướng theo kiểu nước đôi của anh em nhà Tây Sơn trong việc tiến hành những chiến dịch quân sự mở rộng ở bất cứ khoảng cách nào so với căn cứ của họ. Rõ ràng là họ luôn cảm thấy thuận tiện trong phạm vi Qui Nhơn hoặc quanh vùng Qui Nhơn và trở nên do dự khi đi xa ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vì thế, trong lúc thường xuyên đánh lấy Gia Định, các anh em Tây Sơn không muốn chiếm giữ vùng này. Thay vào đó, họ nhanh chóng quay về phòng tuyến của họ ở Qui Nhơn trước khi gió mùa bất lợi đối với họ. Mỗi lần họ để lại phía sau một lực lượng chiếm đống mà sức mạnh có vẻ cạn kiệt khi không có mặt những lãnh tụ quan trọng của họ, cũng là lúc họ để lại một khu vực dễ dàng bị quân nhà Nguyễn phối hợp phản công.

Quân Tây Sơn chiếm lấy Sài Gòn lần đầu tiên vào giữa mùa xuân năm 1776, khi người em nhỏ nhất là Nguyễn Lữ* đưa thủy quân tấn công sông Sài Gòn. Tuy nhiên, không lâu sau, quân nhà Nguyễn quay lại, tái chiếm thành phố, buộc Lữ rút quân về Qui Nhơn. Vào giữa mùa xuân nãm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Lữ và Huệ tái chiếm Sài Gòn. Nguyễn Huệ dẫn một đoàn quân hùng hậu đi bằng đường bộ và đường thủy trong 6 tháng đã tiêu diệt phần lớn quân nhà Nguyễn, bắt giữ và giết gần như toàn bộ thành viên của hoàng tộc nhà Nguyễn*. Sau khi hoàn thành sứ mạng này, Huệ quay về Qui Nhơn, để lại một lực lượng để kiểm soát thành phố. Người duy nhất trong hoàng tộc nhà Nguyễn còn sống sót sau cuộc tàn sát của nhà Tây Sơn là một ông hoàng trẻ tuổi tên Nguyễn Ánh*. Ánh chạy khỏi Gia Định, sống giữa vùng đầm lầy Cà Mau ở vùng cực nam Việt Nam, trước khi tìm chỗ ẩn lánh ở hòn đảo Pulau Panjang* trong vịnh Xiêm La. Nghe tin quân Tây Sơn rút khỏi Gia Định, ông tập hợp số quân còn lại từ hướng tây tiến qua vùng Long Xuyên và Sa Đéc, trở lại Sài Gòn và đoạt thắng lợi vào đầu năm 1778*.

Điều này đánh dấu sự khởi đầu một thời kỳ dài chiếm đóng Gia Định và ông hoàng trẻ tuổi họ Nguyễn lợi dụng cơ hội này để củng cố quyền hành còn chưa chắc chắn của mình, ông cử một sứ bộ sang Xiêm hi vọng đạt được một hiệp ước hữu nghị, giúp ông tăng cường tính chính thống trong lúc chuẩn bị một chiến dịch tái chiếm phần còn lại của xứ sở từ tay nhà Tây Sơn. Trong vùng kiểm soát của mình, ông tổ chức lại ba trấn, cử nhiệm các quan chức chính trị, thu thuế, huấn luyện quân bộ và quân thủy, cổ xúy một chương trình tái phân phối đất đai nhằm cải tiến nông nghiệp ở một vùng đã bị chiến tranh tàn phá nhiều năm liền. Rồi vào năm 1780, nhằm mục đích củng cố liên minh chính trị đã hình thành, Nguyễn Ánh tự xưng vương. Hai năm trước đó, tức năm 1778, Nguyễn Nhạc cũng nắm lấy quyền lực nhân danh mình, tự tuyên xưng hoàng đế với niên hiệu Thái Đức, đặt kinh đô ở Chà Bàn, một trung tâm chính trị cũ của người Chăm.

Từ đầu năm 1778 đến năm 1781, không bên nào tìm cách cải thiện hiện trạng, vì cả hai bên đều bận rộn củng cố vị trí riêng của mình. Thế rồi, vào mùa hạ năm 1781, sự thù nghịch nổ bùng trở lại khi Nguyễn Ánh tung ra một cuộc tấn công thất bại vào dinh lũy của Tây Sơn nằm ở bờ biển Nha Trang. Tiếp theo đó là cuộc phản công của Nhạc và Huệ diễn ra vào tháng 5.1782. Hai anh em Tây Sơn tập hợp100 tàu chiến và tiến về phía nam, hướng về sông Sài Gòn và mở cuộc tấn công vào Gia Định- Chiếm lấy thành phố, quân Tây Sơn đốt cháy và cướp bóc các tiệm buôn của Hoa thương, và tàn sát hàng ngàn cư dân người Hoa. Cuộc tàn sát này là hậu quả trực tiếp của việc một trong những tướng giỏi của Nguyễn Nhạc bị một tướng người Hoa theo chúa Nguyễn giết chết*, song điều này phản ánh sự căm giận của nhà Tây Sơn trước việc cộng đồng người Hoa ngày càng ủng hộ kẻ đối địch với họ là chúa Nguyễn. Sau thắng lợi dã man đó, tháng 6.1782, các lãnh tụ Tây Sơn trở về phía bắc, giao thành phố Sài Gòn lại cho các tùy tướng. Nghe tin Huệ và Nhạc đã rời Sài Gòn, Nguyễn Ánh phản công và chiếm lại thành phố mấy tháng sau đó*.

Tháng 3 năm 1783, một lần nữa, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại tấn công Sài Gòn, đánh bại quân Nguyễn và buộc Nguyễn Ánh phải thoát chạy. Thừa thắng xông lên, các lãnh tụ Tây Sơn bố trí một đội thuyền truy đuổi Nguyễn Ánh và đoàn quân đã mất hết tinh thần chiến đấu của ông. Tuy nhiên, một trận bão to giữa biển đã phá hủy phần lớn đoàn thuyền Tây Sơn, giúp Nguyễn Ánh thoát ra đảo Phú Quốc, nơi quân sĩ của ông phải ăn cỏ và chuối để sống. Cuối cùng, từ đây, ông đến Xiêm, được vua Xiêm cho tạm trú để mưu tính bước đi kế tiếp sẽ diễn ra vào tháng 1.1785. Vào thời điểm này, khởi đầu từ căn cứ ở Xiêm, với sự bổ sung 20.000 quân Xiêm và 300 tàu chiến do nhà cầm quyền Xiêm cử ra, Nguyễn Ánh và quân đội của ông đi đường bộ xuyên qua Chân Lạp và đường biển sang vịnh Xiêm La, tấn công các địa phương phía nam. Quân Tây Sơn đã sẵn sàng ứng phó với cuộc tấn công của quân Nguyễn, họ phục kích dọc theo con sông Mekong gần Mỹ Tho. Nguyễn Huệ dụ đội thủy quân Xiêm quá khinh địch rơi vào bẫy phục kích, tiêu hủy toàn bộ thuyền chiến của quân Xiêm, giết hầu hết, chỉ 1.000 quân Xiêm thoát được. Sự thất trận này đã phá hủy lực lượng của chúa Nguyễn, họ cùng tàn quân Xiêm trở về nơi ẩn lánh ở Vọng Các (Bangkok).

I.7.2. Quân Tây Sơn xâm chiếm Đàng Ngoài (1786-1789)

Sau khi đã đánh bại hoàn toàn Nguyễn Ánh, Nguyễn Nhạc nhìn thấy cơ hội thực hiện tham vọng ôm ấp từ lâu là mở rộng quyền hành ra vùng đất cũ của nhà Nguyễn nằm giữa đèo Hải Vân và sông Gianh, lúc ấy vẫn còn bị quân Trịnh chiếm đóng. Việc tính toán thời gian tỏ ra không khá hơn khi quân Trịnh cuối cùng cũng suy yếu sau một loạt trận đói và lũ lụt diễn ra vào thập niên 1770 buộc nhiều người phải rời bỏ làng quê để đi tìm cái ăn. Ngoài ra, như chúng ta đã thấy, cái chết của Trịnh Sâm vào năm 1782 tiếp theo là cuộc đấu tranh nội bộ dẫn đến cuộc đảo chánh ở cung đình. Điều này tạo ra sự bất ổn chính trị và sự nổi lên của đám kiêu binh chỉ được kiểm soát một cách lỏng lẻo bởi phe cầm quyền mới. Cuối cùng, Nguyễn Nhạc quyết định tiến ra bắc theo lời cổ vũ mạnh mẽ của Nguyễn Hữu Chỉnh, một nhân vật nổi tiếng đã phản lại họ Trịnh và chạy theo nhà Tây Sơn. Sau vụ đảo chánh trong nội bộ họ Trịnh vào năm 1782, Chỉnh bị buộc phải rời khỏi Đàng Ngoài, và đã tham gia vào hàng ngũ Tây Sơn như một lãnh tụ quân sự, một nhà chiến lược. Trong bốn năm sau đó, ông ta cố gắng làm cho Nhạc chú tâm đến việc tiến ra bắc, hi vọng một cuộc viễn chinh như thế sẽ tạo cơ hội cho ông ta trả thù những ai đã buộc ông ta phải trải qua cảnh lưu vong chính trị.

Theo lời khuyên của Chỉnh, Nguyễn Nhạc cử đoàn quân viễn chinh ra Phú Xuân vào tháng 6.1786. Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Chỉnh cầm đầu; Huệ chỉ huy lực lượng thủy quân chạy dọc theo bờ biển rồi đi vào sông Hương, Chỉnh lãnh đạo cuộc tấn công trên bộ xuyên qua đèo Hải Vân. Sau một cuộc kháng cự ngắn ngủi, thành Phú Xuân đầu hàng, quân Tây Sơn tàn sát rất nhiều quân của họ Trịnh. Không lâu sau, những khu vực lân cận cũng quy phục quân Tây Sơn và việc toàn bộ Thuận Hóa cũng như sông Gianh rơi vào tay họ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Nguyễn Nhạc ra lệnh cho Nguyễn Huệ dừng lại ở ranh giới Trịnh-Nguyễn từ trước (tức là con sông Gianh), song với sự thúc giục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ quyết định nhân đà này, mở cuộc tấn công và chiếm hết phần đất còn lại của họ Trịnh. Huệ và Chỉnh sử dụng 400 thuyền chiến để tấn công phía bắc, tịch thụ các kho thóc trên đường đi. Chỉnh đi qua Nghệ An và Thanh Hóa mà không gặp một sự kháng cự nào đáng kể. Không lâu sau, sự hoảng loạn diễn ra ở kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh Cán chạy lên Sơn Tây, tại đây ông ta bị bắt và tự tử, có vẻ như thời kỳ cầm quyền dài của các chúa Trịnh đã kết thúc. Cái chết của Trịnh Cán và sự kháng cự của quân Trịnh bị đập tan, khiến con đường hướng về kinh thành mở rộng và quân của Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long ngày 21.6.1786.

Vào kinh đô rồi, Huệ long trọng ra mắt vua Cảnh Hưng* (1740- 1786) xin thần phục và xin dâng sổ quân, sổ đinh cùng một văn kiện tuyên bố rằng quyền hành hợp pháp của triều đại nhà Lê đã được phục hồi. Đối lại, nhà vua phong Huệ làm tướng và tước quốc công và gả con gái cho*. Nhiều ngày sau, nhà vua thăng hà, và sau khi thảo luận, quyền kế vị được trao cho người cháu của ông là Lê Chiêu Thống*. Trong khi đó, do ganh tức trước những thành tích của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc thân hành ra bắc ra mắt vua Chiêu Thống. Mấy ngày sau, khoảng cuối tháng 8.1786, anh em Tây Sơn dẫn quân về nam, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại miền Bắc. Ở trong tình thế phải tự lo liệu và không chắc gì về tình trạng của mình ở Đàng Ngoài, Chỉnh từ kinh đô phía bắc lui về Nghệ An xây dựng căn cứ ở đó.

Sau khi trở về nam, Nguyễn Nhạc phân chia lãnh thổ vừa mở rộng cho ba anh em. Người em yếu nhất là Nguyễn Lữ được phong tước Đông Định vương và cai trị vùng đất Gia Định. Nhạc tự mình giữ vùng đất giữa, tiếp tục cương vị hoàng đế Thái Đức, đóng đô tại thành Hoàng đế ở Qui Nhơn. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được phong Bắc Bình vương, cai quản vùng Thuận Hóa vừa giành được cùng với vùng Nghệ An chiếm từ tay nhà Lê. Sự chia rẽ giữa anh em nhà Tây Sơn không chỉ là về mặt địa lý, mà còn về mặt cá nhân. Những căng thẳng nảy sinh từ việc Nhạc để ý thấy tính độc lập ngày càng tăng của Huệ đã bùng sôi thành một trận chiến cốt nhục tương tàn kéo dài từ cuối tháng 2 đến giữa tháng 6 năm 1787. Sự xung đột lên đến cực điểm khi Huệ vây hãm kinh đô Chà Bàn của người anh và đạt đến thắng lợi quyết định buộc Nhạc phải nhượng thêm phần đất ở phía nam đèo Hải Vân.

Trong khi đó, ở phía bắc, Lê Chiêu Thống tỏ ra là một ông vua nhu nhược, dễ dàng để cho những nhà chính trị có uy tín hơn thao túng. Chính từ sự nhu nhược đó mà ông để cho những người còn lại trong dòng họ Trịnh quay lại, và họ nhanh chóng áp đặt trở lại ảnh hưởng của dòng tộc họ lên triều đình. Nhà vua bí mật thông báo tin tức về tình hình này cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết. Nhận thấy đây là cơ hội để tăng cường quyền lực riêng, Chỉnh tập hợp một đạo quân 10.000 người và tiến về Thăng Long vào tháng 12 năm 1786. Đến cuối tháng 1.1787, Chỉnh đánh bại quân Trịnh và tự xem mình là ông chủ mới của phương Bắc. Nguyễn Huệ tức giận vì Chỉnh đã hành động khi không được phép, ra lệnh cho Chỉnh quay về, song Chỉnh từ khước. Tin tưởng hoàn toàn vào sức mạnh của mình, và có lẽ cũng tin là anh em nhà Tây Sơn đang tiếp tục chia rẽ nhau, Chỉnh khuyên vua Chiêu Thống triệu hồi Nguyễn Huệ trở ra Nghệ An.

Huệ giận dữ, cự tuyệt yêu cầu của vua Lê, ra lệnh cho tướng thân cận là Võ Văn Nhậm* mang một đạo quân ra Thăng Long bắt Chỉnh. Nhậm ra bắc vào mùa thu năm 1787, dễ dàng chiếm lấy kinh đô đã bị vua Lê nhanh chóng rời bỏ, bắt Nguyễn Hữu Chỉnh và giết đi. Nhưng rồi có vẻ như Nhậm cũng bị lôi cuốn bởi một tham vọng từng kích thích Chỉnh, không nhìn thấy chướng ngại nào trên con đường đi của mình, nên tự nắm quyền hành. Một tướng Tây Sơn ở phía bắc lúc bấy giờ là Ngô Văn Sở tỏ ra khinh miệt Nhậm và gửi cho Huệ một mật thư xác nhận Nhậm đang trù tính phản lại Huệ. Huệ tin Sở và quyết định mở một cuộc tấn công Thăng Long vào mùa xuân năm 1788, bắt giữ và chém đầu Nhậm.

Chạy khỏi kinh thành trong cuộc xâm chiếm Đàng Ngoài lần thứ hai của quân Tây Sơn vào năm 1787, cuối cùng vua Lê Chiêu Thống tìm đường sang Trưng Quốc, tại đây, ông kêu gọi hoàng đế nhà Thanh giúp ông lấy lại ngai vàng. Ông lập luận rằng do nước Đại Việt là một nước phụ thuộc Trung Quốc nên triều đình nhà Thanh buộc phải bảo vệ chống lại kẻ gây hấn. Cho dù Thanh đế tỏ ra do dự khi dính líu vào một việc có vẻ thuộc về nội bộ của người Việt, song viên Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) nhiều tham vọng là Tôn Sĩ Nghị đã thuyết phục nhà vua rằng xâm chiếm Đại Việt là một chuyện đơn giản. Cuối tháng 10.1788, quân Trung Hoa, với quân số có lẽ vào khoảng 200.000 người*, đi qua miền Bắc Đại Việt, vào thành Thăng Long mà không gặp một sự kháng cự nào và đưa vua Lê trở lại ngai vàng.

Quân số ít hơn, lực lượng Tây Sơn dưới quyền Ngô Văn Sở rút về Thanh Hóa, tại đây, ông gửi một thư về Phú Xuân cho Nguyễn Huệ xin tăng cường quân. Huệ quyết định rằng vua Lê Chiêu Thống đã mất quyền đòi lại ngai vàng, vì thế ông tự lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Quang Trung (1788-1792). Ngay lập tức, tân hoàng đế Tây Sơn tập hợp một đạo quân khác và tiến về phía bắc. Ông cũng cử một sứ giả mang thư cho viên chỉ huy đạo quân nhà Thanh yêu cầu họ lui quân. Viên tướng Tàu trả lời bằng cách xé toang bức thư và hành hình sứ giả Đại Việt. Trong lúc đó, quân Trung Quốc bận rộn việc tổ chức mừng tết, không để ý gì đến phía địch. Biết trước điều này, Nguyễn Huệ ra lệnh cho binh sĩ ăn tết sớm rồi định thời điểm tấn công thành Thăng Long vào lúc nửa đêm ngày mùng 5 tết. Quân Việt tấn công vào lúc quân Thanh không phòng bị gì, và họ dễ dàng bị đánh bại, tướng lĩnh và binh lính tháo chạy trong tình trạng vô trật tự*.

I.7.3. Vua Quang Trung nắm lấy chính quyền (1789-1792)

Thắng trận xong, vua Quang Trung bắt tay vào một chiến dịch hai mũi giáp công nhằm củng cố địa vị của ông. Với mũi đầu tiên, ông tìm cách đảm bảo một nền hòa bình lâu dài với Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, ông sử dụng công sức của hai trong số những nhân tài lỗi lạc của đất bắc là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Cả hai đi theo nhà Tây Sơn sau chiến dịch năm 1788 chống lại Võ Văn Nhậm, cuối cùng đã kết thúc sự thống trị của nhà Lê. Bằng việc kết hợp giữa sự khẩn khoản và sự đe dọa ngấm ngầm, hai nhà ngoại giao Tây Sơn có thể thuyết phục triều đình nhà Thanh từ bỏ các nỗ lực phục hồi nhà Lê. Quan trọng hơn, các nhà ngoại giao của vua Quang Trung đạt được sự công nhận quyền lực của tân quân và hoàng đế nhà Thanh phong Huệ làm An Nam Quốc Vương. Cuối năm 1789, một sứ bộ Việt khác cũng đi sang Trung Quốc để làm lễ ra mắt. Hoàng đế nhà Thanh nhấn mạnh rằng vua Quang Trung cần thân hành cầm đầu sứ bộ sang Trung Quốc. Không muốn tham gia chuyến đi nguy hiểm này, vị hoàng đế Đại Việt cử một người giống hệt ông đi thay mình*. Đó là nhân vật được vua Càn Long tiếp đón như một tân quốc vương Đại Việt khi ông ta đến cung điện mùa hè của nhà Thanh ở Nhiệt Hà (Jehol)*. Theo nhiều tài liệu, sứ bộ Việt ở nhiều tuần lễ tại triều đình nhà Thanh trong tình hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau*. Những sứ bộ như thế và thư từ trao đổi giữa hai bên đảm bảo mối quan hệ yên bình và chính quyền Trung Quốc vẫn đứng ngoài cuộc chiến đang tiếp tục giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn. Nhà Thanh chỉ công nhận nhà Nguyễn sau năm 1802, khi mọi dấu tích của triều Tây Sơn không còn tồn tại nữa.

Thiết lập xong mối quan hệ tốt đẹp với triều đình Trung Quốc, vua Quang Trung quay sang những vấn đề cấp bách trong nước. Những năm tháng rối loạn về chính trị và chiến tranh đã gióng lên hồi chuông báo động về phúc lợi kinh tế và xã hội trên lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát. Chính vì vậy, vua Quang Trung đã đặt ưu tiên cao cho việc vãn hồi trật tự và hiệu suất kinh tế. Ông ban bố một tuyên cáo kêu gọi những nông dân bỏ nhà đi trở về ruộng vườn của họ, thiết lập một mức thuế khuyến khích họ trở về và thưởng công cho những ai cày cấy trên các mảnh ruộng bỏ hoang. Thêm vào đó, nhằm kêu gọi người dân trở về làng cũ của họ, vị tân hoàng đế Tây Sơn ban lệnh điều tra dân số cả nước, thiết lập một hệ thống thẻ căn cước. Mỗi người được cấp một thẻ căn cước và những ai không có thẻ này sẽ bị cưỡng bách vào quân ngũ ngay. Trong lãnh vực chính sách xã hội và chắc chắn rằng với sự cố vấn của những người theo Nho giáo, vua Quang Trung ra lệnh khởi sự một dự án phiên dịch và ấn hành các sách kinh điển của Nho giáo từ chữ Hán sang chữ Nôm. Ông cũng tìm cách làm sống lại một hệ thống giáo dục đã suy tàn, bao gồm việc xây dựng trên cả nước những trường học ở các địa phương do các nhà nho điều hành và tổ chức lại hệ thống khoa cử. Dù chỉ cô mỗi một kỳ thi Hương diễn ra trước khi ông mất vào năm 1792, nỗ lực này cũng cho thấy vua Quang Trung mong muốn thiết lập một nền tảng học thuật trong chế độ mới của ông.

Đồng thời với việc vãn hồi trật tự trong nước, vua Quang Trung tiếp tục tiếp cận với thế giới bên ngoài biên giới Đại Việt. Các tướng của ông tiến hành ít nhất hai cuộc tấn công lãnh thổ của Lào, cho là để trừng phạt ông vua ở Luang Prabang vì đã quên đáp ứng lời yêu cầu cử sang một sứ bộ triều cống. Cuộc tấn công đầu tiên diễn ra năm 1790 khi 50.000 quân xâm chiếm lãnh thổ Lào sát cạnh Nghệ An. Chiến dịch thứ hai vào năm sau với một lực lượng nhỏ hơn gồm 10.000 quân nhưng đánh thẳng vào bên trong nội địa Lào, cuối cùng chiếm lấy Luang Prabang vào mùa thu năm 1791. Sau khi cướp phá kinh đô Lào, và rồi đi đến biên giới Xiêm, quân Tây Sơn rút về. Vua Quang Trung cũng tiếp xúc ngoại giao với các tiền đồn của người châu Âu ở Macao và Philippines. Hi vọng thuyết phục người Âu giao thương với chế độ của ông thay vì với đối phương của ông là chúa Nguyễn, ông cử các sứ giả đem mật thư yêu cầu được thiết lập quan hệ thương mại với Manila và Macao. Những nỗ lực này rất không thành công vì phần lớn người Âu đã thiết lập quan hệ thương mại với nhà Nguyễn, nay họ không muốn làm thương tổn mối quan hệ đó khi buôn bán với kẻ đối địch với chúa Nguyễn. Tuy vậy, người Bồ Đào Nha ở Macao đã có một số động thái khởi đầu để đáp ứng lại lời đề nghị của chính quyền Tây Sơn. Cuối cùng, vua Quang Trung cũng khuyến khích việc buôn bán xuyên biên giới với Trung Quốc và thương lượng với vua nhà Thanh nhằm thiết lập thị trường mậu dịch mới ở biên giới hai nước.

I.7.4. Thời kỳ hậu Quang Trung

Tháng 9 năm 1792, trong lúc sắp sửa mở một cuộc tấn công lớn vào lực lượng chúa Nguyễn Ánh tại Gia Định, vua Quang Trung bất ngờ quá đời ở tuổi 40*. Cái chết sớm của người có sức lôi cuốn nhất, nhiều tham vọng nhất và có tài quân sự trong số ba anh em là một bước ngoặt trong thời kỳ Tây Sơn. Gần như ngay lập tức, cái chết của vua Quang Trung đã đe dọa sự tồn tại của chế độ mà ông chỉ vừa mới thành lập. ông làm hoàng đế trong một thời gian chưa tới 4 năm và chỉ đạt được một số tiến bộ nhất định trong việc ổn định xã hội và chính trị sau một thời khoảng dài chiến tranh và dời đổi. Hơn nữa, khi ông nằm xuống, người con trai và cũng là người sẽ kế vị ông mới có 11 tuổi*. Người con đó là Nguyễn Quang Toản, lên ngôi với niên hiệu Cảnh Thịnh, dưới sự giám hộ của một phụ chánh là Thái sư Bùi Đắc Tuyên, anh (em) cùng mẹ khác cha với mẹ ông*. Chế độ phụ chánh này bị chi phối bởi một cuộc đấu tranh nội bộ giữa một số tướng cũ của vua Quang Trung chống lại vị thái sư nhiều tham vọng, đang nuôi ý định cho một trong những người con trai của ông ngồi lên ngai vàng nhà Tây Sơn.

Trong lúc cái chết của vua Quang Trung là một tai họa giáng xuống chính quyền nhà Tây Sơn đang có triển vọng tồn tại lâu dài thì những biến động ở vùng cực nam cũng góp phần làm cho nó suy yếu thêm. Sau khi bị đánh bại vào năm 1785, chúa Nguyễn buộc phải chạy sang Vọng Các (Bangkok) với đồng minh người Xiêm, và ở đó, Nguyễn Ánh cùng một số tướng sĩ tòng vong mưu tính việc quay về nước. Trong lúc họ làm điều này thì người con còn nhỏ tuổi của chúa Nguyễn là hoàng tử Cảnh đang ở Pháp với sự chăm sóc của một giáo sĩ người Pháp là Pierre Joseph Pigneau de Béhaine*. Nguyễn Ánh giao phó con trai cho người Pháp này với hi vọng cả hai sẽ thuyết phục được hoàng đế Pháp Louis XVI gửi quân viện cho, đổi lại những nhân nhượng về kinh tế và lãnh thổ sau khi chúa Nguyễn toàn thắng*. Pháp hoàng thỏa thuận một hiệp ước theo những điều đã vạch ra, song dành cho người đại diện của ông ở Pondicherry được tùy ý quyết định việc thực hiện hiệp ước*. Viên chức này nhận thấy kế hoạch không đáng để nước Pháp dính vào nên từ khước nó trước sự thất vọng của Bá Đa Lộc. Không nao núng, giáo sĩ này dùng tiền riêng và những lời hứa hẹn tưởng thưởng thích đáng để tập hợp một nhóm lính đánh thuê người Pháp và nhiều tàu thủy châu Âu rồi giong buồm trở về Đàng Trong vào mùa hè năm 1789. Vào thời điểm đó, lợi dụng được cuộc chiến nồi da xáo thịt giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh rời Vọng Các, chiếm lại căn cứ cũ của ông tại Gia Định, ông dễ dàng đánh đuổi Nguyễn Lữ, buộc ông này phải chạy về Qui Nhơn và qua đời một thời gian ngắn sau đó.

Mặc dù không góp phần vào cuộc giao tranh đầu tiên ấy, đội quân nhỏ gồm những người Pháp và các cố vấn quân sự của Nguyễn Ánh giữ một vai trò quan trọng về mặt tâm lý đối với chúa Nguyễn trong những năm tiếp sau. Quân số người Âu tham gia chiến đấu cho sự nghiệp của chúa Nguyễn luôn là con số nhỏ; năm 1792, có khoảng 40 người trong hàng ngũ bộ binh, được sự hỗ trợ của 2 tàu chiến châu Âu trong đội thủy quân của chúa*. Dù đó là những con số khiêm tốn, song sự hiện diện của người châu Âu trong hàng ngũ quân Nguyễn và các tàu chiến phương Tây cũng tạo một ấn tượng mạnh cho nhà Tây Sơn; họ nhiều lần khuyến dụ những chuyên gia về chiến thuật người Pháp về với họ*. Các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên cho những cuộc thất trận lớn của họ là do có sự tham gia của người Âu trong hàng ngũ quân Nguyễn và những giáo sĩ hỗ trợ họ. Rõ ràng điều này nhằm phóng đại ảnh hưởng của sự tham gia quân sự của người Âu, song giới lãnh đạo quân sự Tây Sơn vẫn xem sự dính líu của người Âu trong cuộc nội chiến là điều đáng báo động.

Từ năm 1787 đến năm 1792, Nguyễn Ánh củng cố vị trí ở phía nam, kiểm soát bền vững một khu vực từng là nơi đụng độ trong một thời gian dài giữa hai đạo quân đối địch nhau. Có vẻ như Nguyễn Nhạc không còn có ý muốn, hay không còn khả năng mở ra một cuộc tấn công có thể đánh bật chúa Nguyễn ra khỏi dinh lũy phía nam. Nhạc tiến hành những cuộc tấn công định kỳ chống lại quân Nguyễn, nhưng cả việc tạm thời ngăn chặn quân Nguyễn tiến về vùng duyên hải cũng không thành công. Trong khi đó, vào mùa hè năm 1792, quân chúa Nguyễn mở cuộc tiến công, và thành công trong việc vây hãm Nhạc ở Qui Nhơn. Thiếu lực lượng bảo vệ, tướng chỉ huy Qui Nhơn buộc phải bỏ đội thủy quân trọng yếu, tàu thuyền của họ lớp bị bắt giữ, lớp bị tiêu hủy bởi quân Nguyễn. Cuộc vây hãm thứ hai của quân Nguyễn diễn ra một năm sau đó chỉ kết thúc sau khi Nhạc gửi lời cầu xin tuyệt vọng đến người cháu ruột là vua Cảnh Thịnh và nhận được sự tăng viện của vị vua trẻ này.

Nỗi nhục do quân nhà Nguyễn gây ra khiến Nhạc rơi vào tình trạng tuyệt vọng, ông thất bại trong việc nhường lãnh thổ của mình cho người cháu* để đổi lại việc được rút lui trong sự yên bình*. Ít lâu sau, vào cuối mùa thu năm 1793, Nhạc qua đời ở tuổi 50, chỉ một năm sau cái chết của người em trai ông*. Sau cái chết của Nguyễn Nhạc, con trai ông là Nguyễn Bảo được người em họ là vua Cảnh Thịnh cử làm người kế nghiệp ông, nhưng không được mang một lễ phục hoàng gia nào. Bảo chỉ được phong tước Hiếu công và bị kiểm soát bởi một phái bộ do người em gửi đến Qui nhơn. Như tác giả Maurice Durand đã viết: “Mọi việc diễn ra như là chính quyền ở Phú Xuân đang điều khiển cái vương quốc vẫn còn nằm trong tay nhà Tây Sơn. Hơn nữa, những cuộc hành quân chống lại quân Nguyễn tùy thuộc phần lớn vào các con của Nguyễn Huệ”.

I.7.5. Chính trị của nhà Tây Sơn vào thời kỳ hậu Quang Trung (1792-1802)

Có thể nói thời kỳ hậu Quang Trung là thời kỳ suy tàn của nhà Tây Sơn. Sự kiện này không bất ngờ, và trước năm cuối cùng của triều đại Tây Sơn, người ta cũng không hoàn toàn tin rằng nó sẽ xảy ra. Ngay cả khi hai khuôn mặt chính trị và quân sự chủ yếu đã khuất rồi, các tướng Tây Sơn vẫn tiếp tục thách thức chúa Nguyễn Ánh. Mặc dù không có nhiều tham vọng như người cha trong việc tiến hành những thay đổi về kinh tế-xã hội, vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản cũng đề ra nhiều sáng kiến chính trị. Một thời gian ngắn sau khi nắm quyền, ông ta vội vã bãi bỏ chương trình “thẻ căn cước” không được dân ủng hộ của người cha*. Ông ta chỉ tiến hành ít nhất một cuộc điều tra dân số trong nỗ lực kế tục ý nguyện của người cha muốn phục hồi sự ổn định về dân cư trong nước. Vua Cảnh Thịnh cũng đề ra một số thay đổi về mặt tôn giáo. Có lẽ do khuyến cáo của những cố vấn theo Khổng giáo, nhà vua ra lệnh củng cố rất nhiều đền chùa Phật giáo nằm rải rác ở nông thôn. Chúng được tháo dỡ, thay vào đó là những kiến trúc to lớn hơn được xây dựng từ những vật liệu thu thập được, chiếm một diện tích to rộng ở khu trung tâm. Thêm vào đó, từ những nghi ngờ về giới giáo sĩ và về lòng trung thành của họ đối với chúa Nguyễn, ông khởi sự thẳng tay đàn áp đạo Thiên Chúa từ năm 1795. Theo nhiều thư từ của các giáo sĩ, việc đàn áp này không có tính hệ thống*. Tuy nhiên, Cảnh Thịnh ngày càng cảm thấy bị bỏ rơi bởi giới nho sĩ Bắc hà, những người từng nhiệt tình ủng hộ cha ông. Sức lôi cuốn quần chúng của vua Quang Trung đã không truyền lại được cho người con trai còn trẻ của ông và ngay cả những nho sĩ từng lạc quan cho rằng chế độ mới của nhà Tây Sơn có thể làm thay đổi những thập niên suy tàn dưới thời Trịnh cũng bỏ đi dần. Ngoài ra, mối đe dọa quân sự gia tăng từ phía chúa Nguyễn cũng đang làm cho triều đình Tây Sơn ở Phú Xuân phải lo lắng.

I.7.6 Các chiến dịch quân sự thời kỳ hậu Quang Trung

Các chiến dịch quân sự diễn ra vào thập niên 1790 có thể so sánh với những chiến dịch vào thập niên 1770 và đầu thập niên 1780 được quyết định bởi những mùa gió ven biển, đôi khi được mệnh danh là “chiến tranh gió mùa”. Mỗi bên sẽ mở cuộc tấn công khi gió thuận lợi cho việc khởi động lực lượng thủy quân của họ. Cho dù mỗi doanh trại có một lực lượng bộ binh hùng hậu, sự di chuyển trên biển tỏ ra hiệu quả hơn. Mặt khác, di chuyển bằng đường biển cũng có nghĩa rằng nếu không đạt được một thắng lợi có tính quyết định, không bên nào có thể kéo dài các cuộc tấn công hoặc dễ dàng củng cố thắng lợi của họ. Mở rộng một chiến dịch, đặc biệt để chống lại một mục tiêu ở xa, sẽ có nguy cơ không gặp được mùa gió thuận lợi để quay về căn cứ. Trái lại, đơn vị tấn công sẽ có nhiều nguy cơ đối mặt với một cuộc phản công. Chính vì điều này mà quân Nguyễn tiến rất chậm, và các cố vấn người Âu cảm thấy thất vọng, họ thường xuyên than vãn về vẻ thận trọng quá đáng của chúa Nguyễn Ánh.

Hình 4: cổng thành Diên Khánh hiện vẫn còn. Nằm cách thành phố biển Nha Trang 11km về phía tây. Thành Diên Khánh do chúa Nguyễn Ánh xây dựng trong chiến dịch chống nhà Tây Sơn thập niên 1790. Thành trì có tường bao quanh, được sử dụng như một phần quan trọng trong chiến dịch của chúa Nguyễn nhằm chiếm lấy vùng đất nằm trong tay nhà Tây Sơn. (Ảnh của tác giả.)

Sự tiến quân của chúa Nguyễn tuy chậm mà chắc, mở rộng dần lãnh thổ dưới sự kiểm soát trực tiếp của ông ở vùng duyên hải. Hầu như mục tiêu chính trong các chiến dịch này của quân Nguyễn là vùng phía nam kinh đô của nhà Tây Sơn gần Qui Nhơn và cảng Thị Nại thuộc thị trấn này. Việc đội thủy quân của Nhạc bị phá hủy tại Thị Nại năm 1792, tiếp theo là cái chết của ông vào năm 1793 là những trở ngại chính đối với nỗ lực của nhà Tây Sơn nhằm tranh quyền kiểm soát phía nam với chúa Nguyễn, về sau, hình như nhà Tây Sơn ngày càng dựa vào các hải tặc Trung Hoa để bổ sung sức mạnh thủy quân đang suy yếu của họ. Thêm vào đó, năm 1794, mục tiêu của nhà Nguyễn được củng cố bởi việc họ chiếm lấy thành Diên Khánh, nằm ngay phía tây thành phố cảng quan trọng Nha Trang. Diên Khánh trở thành một căn cứ quan trọng giúp chúa Nguyễn mở những cuộc hành quân xa hơn về phía bắc, và vì thế, nó cũng trở thành mục tiêu của những cuộc tấn công liên tục của nhà Tây Sơn, kể cả những cuộc vây hãm định kỳ và mạnh mẽ trong những năm tiếp theo*.

Mùa xuân năm 1795, quân Tây Sơn phản công lại quân của chúa Nguyễn và truy đuổi họ tới Bà Rịa, ở hướng đông nam Sài Gòn. Thế nhưng, đó là lần phản công quan ưọng cuối cùng về phía nam của quân Tây Sơn, và trong mọi trường họp, các cuộc tấn công của họ đều diễn ra trong một thời gian ngắn. Trong khi đó, chúa Nguyễn tiếp tục tiến hành thường xuyên những cuộc hành quân ở vùng duyên hải, hướng về dinh lũy của Tây Sơn. Mùa xuân năm 1797, trong một cuộc tấn công, quân Nguyễn vòng qua mục tiêu quen thuộc là Qui Nhơn, đi xa hơn về phía bắc, vào giữa lãnh thổ của nhà Tây Sơn. Trong cuộc viễn chinh này, quân Nguyễn chiếm thành phố Tourane (Đà Nẵng) trong hai tháng rồi sau đó lại bỏ ngỏ. Năm 1799, quân Nguyễn lại mở cuộc tấn kích hai mũi giáp công, vừa hướng về trung tâm chính trị Phú Xuân của nhà Tây Sơn, vừa nhắm đến thủ phủ Qui Nhơn ở phía nam. Tháng 6 năm này, Qui Nhơn rơi vào tay quân Nguyễn và được đổi tên là Bình Định. Một lần nữa được sự hỗ trợ của các nhóm hải tặc, quân Tây Sơn khởi phát cuộc vây hãm Qui Nhơn suốt một năm tròn, về sau, lực lượng của họ không thể lấy lại thị trấn này, nhưng họ vẫn còn chiếm khu vực gần Phú Yên, và nơi đây được sử dụng như một căn cứ để mở các cuộc phản công.

Cuộc tấn công của quân Nguyễn năm 1799 là một đe dọa cho kinh đô Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn chạy ra bắc, hi vọng tập hợp lực lượng hỗ trợ để mở cuộc phản công khác. Ông tổ chức lễ ra quân trở lại và đổi niên hiệu là Bảo Hưng, ông ban lời hiệu triệu kêu gọi dân chúng chuẩn bị bảo vệ miền Bắc chống lại cuộc xâm chiếm của quân chúa Nguyễn có thể xảy đến. Cùng lúc đó, ở miền Trung, một cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ các vị trí của nhà Tây Sơn vẫn được tiến hành bởi hai vợ chồng Bùi Thị Xuân và Trần Quang Diệu. Họ tích cực vây hãm quân Nguyễn trong thành Qui Nhơn và sau đó tiến ra bắc trong nỗ lực bảo vệ nhà Tây Sơn ở Nghệ An. Nữ tướng Bùi Thị Xuân từng được huấn luyện trong vùng đất Tây Sơn giàu tinh thần thượng võ, là một chỉ huy lỗi lạc dưới tay có hàng ngàn quân. Bà cưỡi voi ra trận, thực hiện nhiều cuộc tiến công, đối đầu với những khó khăn, gian khổ dồn đập trước khi bị quân chúa Nguyễn bắt giữ vào năm 1802 và bị hành hình sau đó không lâu cùng với chồng và cô con gái.

Trong thời gian đó, vào đầu năm 1800, quân Nguyễn mở một chiến dịch rộng lớn nhằm phá vòng vây quân Tây Sơn ở Qui Nhơn. Các đạo quân phía nam đang sẵn sàng đánh bại quân Tây Sơn thì phải đối đầu với hai chuyện không may. Trước tiên là cái chết của Giám mục Bá Đa Lộc, một người tin cẩn lâu năm của chúa Nguyễn Ánh, một cầu nối giữa chúa và người châu Âu*. Kế đó, một thời gian ngắn sau cái chết của Bá Đa Lộc, một phần lớn trong đội thủy quân của chúa Nguyễn bị phá hủy hoặc trôi dạt ra biển Đông trong một trận bão ập đến bất ngờ. Sau những khó khăn, trở ngại đó, họ không mở những cuộc tấn công nữa mà rút về Gia Định. Song cho dù quân Nguyễn gặp những trở lực như thế, quân Tây Sơn vẫn không ngăn cản được đà tiến của họ về vùng duyên hải. Đòn giáng mạnh cuối cùng diễn ra vào mùa xuân năm 1802, khi quân chúa Nguyễn không quan tâm đến cuộc vây hãm thành Qui Nhơn của quân Tây Sơn, họ giong buồm tấn công trực tiếp vào phần nửa phía bắc của đất nước. Dù quân Tây Sơn có chống cự, quân Nguyễn không gặp mấy khó khăn khi đặt chân lên đất Sơn Nam và nhanh chóng theo hướng tây bắc tiến về kinh thành Thăng Long, nơi vua Cảnh Thịnh đang ẩn lánh từ năm trước. Ngày 20.7.1802 là ngày khởi đầu của triều đại Việt Nam cuối cùng. Cho dù các lực lượng theo Tây Sơn còn tấn công rải rác ở miền Bắc, và số người trung thành với nhà Lê vẫn còn, chúa Nguyễn Ánh bắt đầu nỗ lực hợp nhất các phần đất khác nhau về mặt địa lý.