← Quay lại trang sách

Chương II - 2 TÍNH CHÍNH THỐNG VỀ CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC ĐẠI VIỆT XƯA

Mặc dù lịch sử Việt Nam là lịch sử kéo dài của tính cha truyền con nối, vấn đề chính thống về mặt chính trị không bao giờ rõ ràng. Có những thời kỳ yên bình, sự kế vị diễn ra một cách có trật tự, quyền hành được chuyển cho người kế tục đã được chỉ định, song nhiều sự kế vị khác đã không được thừa nhận do sự lừa bịp hoặc bạo lực. Cũng có những trường hợp người kế vị bị thay thế bởi người đang trị vì hoặc do bè cánh về chính trị. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, có những giai đoạn quyền lực được phân chia giữa người đang trị vì với một người hay một nhóm quý tộc. Vì thế, tính chính thống về mặt chính trị có thể xuất phát từ nhiều cách khác nhau, thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu riêng của người tuyên bố nắm quyền.

Thực tế phức tạp liên quan đến tính chính thống về chính trị này có thể tìm thấy vào những giai đoạn sớm nhất trong thời kỳ độc lập của Việt Nam, vào thế kỷ XI, khí quyền cai trị có quan hệ chặt chẽ với những biểu trưng đặc biệt của “đức vương”*. Như Keith Taylor đã chỉ rõ, tính chính thống của triều Lý (1009-1225) là một chức năng của điều mà ông gọi là “tín ngưỡng triều Lý", theo đó việc tuyên bố nắm quyền phần lớn xuất phát từ quan hệ giữa người cầm quyền với nhiều thần linh trong vùng đất đó. Nói cách khác, tính chính thống mang tính cá nhân nhiều và phải được chứng tỏ một cách tích cực bởi các nhà cai trị nối tiếp nhau. O.W. Wolters cũng lập luận rằng vào thế kỷ XIII, người Việt không có một hệ thống cố định về quyền trưởng nam hoặc một thông lệ chặt chẽ nào đối với vấn đề kế vị ngai vàng. Cũng như ở những quốc gia Đông Nam Á khác, các nhà cai trị ở Việt Nam thời kỳ này là những lãnh tụ anh hùng xây dựng sự liên kết thông qua hôn nhân hay những lời tuyên thệ trung thành. Mặc dù vào thế kỷ XIII, triều đại nhà Trần (1225- 1400) đề ra một tập tục kế vị chính thức như một phần nỗ lực né tránh những người không thừa nhận họ, song điều này vẫn không chấm dứt những cuộc tranh giành quyền lực phức tạp.

Dựa vào một phân tích các triều đại đầu tiên và tiếp theo đó, Ralph Smith cho rằng về mặt lịch sử, Việt Nam trải qua những chu kỳ mà các chế độ theo Nho giáo xen lẫn với những chế độ thể hiện sức mạnh chính trị, tức thể hiện tính hợp pháp của họ, từ những nguồn xuất phát khác. Một khảo sát ngắn về các chế độ chính trị tại Việt Nam khỏi đầu vào thế kỷ XIV hình như đã xác minh điều đó. Cuối thế kỷ XIV, thông qua hôn nhân, Hồ Quý Ly trở thành thành viên của dòng họ Trần đang trị vì và chiếm lấy ngai vàng từ cương vị này*. Ông ta lập nên một chính quyền theo khuôn mẫu Nho giáo trước khi bị quân đội Trung Hoa lật đổ vào năm 1406. Rồi quân Minh cũng bị Lê Lợi đánh đuổi và lập nên triều đại mới với một tính chính thống về Nho giáo thậm chí còn lớn hơn nữa. Tính chính thống về mặt chính trị dựa vào Nho giáo đạt đến cao điểm dưới triều Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông, vị vua thứ 5 triều Lê. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XVI, triều đại nhà Lê bắt đầu sụp đổ, vai trò nổi bật về chính trị của Nho giáo cũng không còn nữa. Lợi dụng biến động chính trị này, Mạc Đăng Dung chiếm lấy ngai vàng, và dù ông ta có ý quay lại các chuẩn mực Nho giáo thời Hồng Đức, song điều này cũng không tồn tại được lâu. Thay vào đó, nước Đại Việt bước vào một thời kỳ rộng mở, trong đó năng lực về quân sự và quan hệ gia đình được coi là những yếu tố quyết định mang lại quyền lực chính trị*. Xét về cơ bản, Nho giáo và các nỗ lực chính thống hóa dựa vào học thuyết này đã lùi xa sau khi nhà Mạc bị đánh bại vào cuối thế kỷ XVI.

Như chúng ta đã thấy trong chương trước, sự phân chia lãnh thổ giữa hai họ Trịnh-Nguyễn tạo ra hai thực thể chính trị, mỗi nơi có cách chính thống hóa về mặt chính trị riêng. Chế độ nhà Nguyễn tiếp tục đi theo hướng phi-Nho giáo đã xuất hiện trong cuộc chiến chống nhà Mạc, họ cai trị một đất nước mà quyền lực chính trị xuất phát từ các liên minh quân sự cũng như từ sự ủng hộ của Phật giáo. Tại Đàng Ngoài do họ Trịnh kiểm soát, có những thời kỳ Nho giáo được phép phát triển trở lại và được sử dụng như một thế lực chính thống hóa, đặc biệt trong thời gian tại vị của chúa Trịnh Tạc (1657-1682). Tuy nhiên vào đầu thế kỷ XVIII, một lần nữa Nho học lại suy tàn, và đến thời Trịnh Giang (1729-1740), chính quyền Đàng Ngoài cấm du nhập từ Trung Quốc các sách về Nho giáo, trong khi sách kinh Phật giáo lại được tích cực sưu tập. Cùng lúc đó, người ta có thể mua điểm trong các kỳ thị Nho học, làm mất giá trị của chúng và xói mòn một trong những nền tảng của trật tự chính trị Khổng giáo. Cơ cấu chính trị vào thời kỳ này rất phức tạp bởi sự phân tán liên tục quyền lực chính trị trong các thành viên của hai dòng họ Nguyễn và Trịnh vào lúc mà vua Lê vẫn tiếp tục ngồi trên ngai vàng ở Thăng Long. Thêm vào đó, vào giữa thế kỷXVIII, nhiều nhân vật thách thức quan trọng đối với dòng họ Trịnh nổi lên trong dòng họ nhà Lê, cho rằng tính chính thống của nhà Lê vẫn còn là một tiêu chuẩn chính trị quan trọng. Vì thế, khi nhà Tây Sơn nổi dậy vào năm 1771, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều đứng trước thử thách phải xác định khái niệm hợp pháp về mặt chính trị, ngoài ra, còn phải đương đầu với các ý tưởng quanh co về nguồn gốc của tính chính thống đó.

Bối cảnh chính trị vào thế kỷ XVIII được định hình bởi những cuộc đua tranh quyền lực. Với một lịch sử kéo dài và khá phổ biến về những thách thức đối với khái niệm về tính hợp pháp chính trị và sự kế vị triều đình một cách trật tự, lãnh thổ của người Việt vẫn để ngỏ cho những đòi hỏi mới về quyền lực chính trị, đặc biệt trong thời kỳ hỗn loạn. Vào những thời điểm như thế, quyền lực chính trị thường được khẳng định bởi sức mạnh thể hiện dưới hình thức một quân đội mạnh. Thật vậy, cách khẳng định quyền lực đó dễ được tin tưởng ở Việt Nam trong buổi đầu thời hiện đại, nhất là đã tạo ra những rối loạn trong các cuộc truyền ngôi báu đã qua. Ý tưởng cho rằng thực tế chính trị có thể không phản ánh một cơ cấu chính trị được lý tưởng hóa gói gọn trong câu nói dân gian "được làm vua, thua làm giặc”. Những ai có đủ quyền lực thì được làm vua, những ai không có quyền lực thì làm giặc. Vào thời kỳ Tây Sơn, ý tưởng này được lặp lại bởi một tướng tài giỏi của phong trào Tây Sơn là Ngô Văn Sở. Trong một lần bàn luận với lãnh tụ Tây Sơn là Nguyễn Huệ, Sở đã nhận xét rằng “từ xưa đến nay, thiên hạ* không phải là riêng của một dòng họ; nếu ta có thể nắm lấy thiên hạ thi hãy tiến tới và hành động”. Trong lúc chưa có một phương cách nào giúp nắm lấy quyền lực, nhận định của Ngô Văn Sở phản ánh một thực tế lịch sử nhất định. Và dù sao thì cũng như nhiều người đi trước họ, các lãnh tụ Tây Sơn biết rằng một thế lực tàn bạo không phải lúc nào cũng là những phương tiện đủ và có hiệu quả để lôi cuốn người khác theo mình hoặc đạt được tính hợp pháp. Một tính hợp pháp như thế còn cần dựa vào những biểu hiện thiêng liêng hoặc sự hỗ trợ có tính siêu nhiên, hoặc những dấu hiệu cụ thể hơn của quyền hành chính trị.