← Quay lại trang sách

Chương II - 3 SỰ CHUẨN NHẬN CỦA “TRỜI” VÀ NHỮNG TUYÊN BỐ SIÊU NHIÊN VỀ QUYỀN LỰC

Từ những ngày đầu của cuộc nổi dậy, các anh em nhà Tây Sơn dựa nhiều vào tín ngưỡng dân gian liên quan đến thế lực siêu nhiên, trong đó có tính quan trọng của những lời tiên tri, điềm báo, và những biểu hiện khác của quyền lực cá nhân nhằm hợp pháp hóa yêu sách chính trị của họ. Điều này đặc biệt quan trọng trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy vì đó là một công cụ quan trọng giúp những người trong cuộc lảng tránh chuyện họ thiếu hẳn các mối quan hệ chính trị. Trong khi sự tự kết nối với các cơ cấu chính trị hiện hữu có một giá trị to lớn, như sẽ được chứng minh sau này, thì khả năng chứng tỏ rằng những quyền lực cao hơn là công cụ giúp con người đạt đến sự xuất chúng thường có một giá trị tức thời. Ngoài ra, các lãnh tụ Tây Sơn thường vận dụng tín ngưỡng dân gian trong thế giới thần linh và siêu phàm, trong đó có khái niệm về “ý trời”, trong lúc họ vẫn nhấn mạnh đến các lời tiên tri và những chỉ dấu khác về vận mệnh dành cho họ. Như Michael Adas đã viết trong tác phẩm Prophets of Rebellion (1979) (Những lời tiên tri về cuộc nổi dậy): “Những khải huyền này và luận điệu của các nhà tiên tri tự coi mình là những đấng cứu thế siêu phàm hoặc được trời sai xuống để phê chuẩn những quyết định của họ và truyền đạt ý niệm về tính hợp pháp cho những người theo họ”*. Rõ ràng là cơ chế này vận hành trong trường hợp của nhà Tây Sơn và là công cụ giúp các lãnh tụ cuộc nổi dậy nhận được sự tin tưởng của những người theo họ.

II.3.1. Nhà Tây Sơn và Thiên Ân

Thông qua các cuộc vận động, các lãnh tụ Tây Sơn vẫn thường nhấn mạnh một trong những ý tưởng chính là những gì họ làm không đơn thuần là việc làm của một nhóm nông dân bất mãn. Đúng hơn, đó là một sứ mạng thiêng liêng phản ánh “ý trời” và liên hệ với điều mà họ gọi là “mệnh trời”. Từ ngữ này dễ dàng bị cường điệu hóa, thường được sử dụng hoặc để nói đến một định mệnh nào đó xảy đến trong tương lai, hoặc một cách nói giễu cợt khi đề cập đến vận mệnh đổi thay. Tuy nhiên, không có gì đáng nghi ngờ rằng từ ấy (và những biến thể của nó sau đó) là một yếu tố quan trọng trong thế giới tư tưởng và những cuộc đàm luận về thời đại này. Trong thế giới quan của người Việt, khái niệm về “trời” (thiên) kết hợp ý thức hệ ưu tú của Khổng giáo với ý niệm của người dân về các sức mạnh thiêng liêng. Đó không phải là trời trong ý nghĩa tôn giáo như cái thế giới của kiếp sau mà là sự đề cập một cách trừu tượng hơn về một sức mạnh siêu hình, đôi khi có thể bức chế và định hình những diễn biến trên đời. Trời thường được dùng để nói đến những gì ở bên trên - như bầu trời ” với những mối liên kết với mùa, thời tiết, và tất cả những hiện tượng tự nhiên khác. Vì thế, sự hiểu biết của người Việt Nam về trời nhắc đến nhiều ý tưởng có liên quan và sự kết nối giữa người trần tục với thần thánh.

Dù cho trời đôi lúc được quan niệm như một sức mạnh dẫn dắt định mệnh của con ngươi và tạo ra các thể chế, nhưng không phải lúc nào ý niệm đó cũng được xem như là những tác nhân gây ra sự đổi thay. Những giải thích khác về trời coi đó là sức mạnh phản ánh - chứ không phải điều khiển - diễn biến các sự kiện. Như Alexander Woodside đã chỉ rõ, các học giả Việt Nam vào thế kỷ XVIII thường không xem trời là ý niệm định đoạt diễn biến các sự kiện, theo ý nghĩa của thuyết định mệnh- Hơn thế nữa, họ quan niệm nguồn gốc những đổi thay và chuyển biến nằm trong thế giới con người, đặc biệt có liên quan đến đạo đức và phẩm hạnh của cá nhân các nhà lãnh đạo. Vì vậy, trời có thể biểu lộ bằng nhiều dấu hiệu khác nhau, song không phải là sự biểu thị của một kết quả tiền định, mà là phản ánh sự hạn chế về mặt đạo đức của những nhân vật đặc biệt. Alexander Woodside nhắc đến danh sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiếp vào thế kỷ XVIII khi ông nhận định rằng: “sự hủy diệt đất nước và gia đình xảy ra do sự bại hoại của đạo đức làm người, do những nhà cai trị tầm thường, và do những quan lại chỉ biết xu nịnh họ, không do những tiến trình không thể đảo ngược lại vượt ra ngoài tầm với của con người”. Quan điểm của Nguyễn Thiếp cho thấy là trời không gây ra những biến đổi trong thế giới loài người, mà chỉ báo hiệu chúng.

Các nho sĩ thế kỷ XVIII cũng có chung ý niệm này, điều đó cho thấy rõ họ hiểu về mối tương tác giữa ý trời và dục vọng của con người. Một nho sĩ nổi tiếng là Ngô Thì Sĩ đã viết rằng: “Người ta sinh ra đều có mệnh... mệnh là trời phú cho”. Con ông là Ngô Thì Nhậm thì nhận xét rằng: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển”. Rõ ràng là những nho sĩ sống cùng thời với phong trào Tây Sơn nhìn thấy mối quan hệ giữa con người và trời là quan trọng và không dễ giải quyết. Hơn nữa, tình trạng căng thẳng này còn tìm thấy trong cách các lãnh tụ Tây Sơn chứng minh cho hành động của họ. Một mặt, họ lập luận rằng một quyền lực thiêng liêng buộc họ phải hành động, tức khái niệm về ý trời; mặt khác, họ thừa nhận rằng động lực chính của họ là sự khốn khổ của người dân do sự cai trị tồi mà ra. Nêu lên quyền lực của “trời” trong thế giới tư tưởng của người Việt thế kỷ XVIII, các lãnh tụ Tây Sơn ngay từ lúc khởi đầu cuộc nổi dậy đã nói đến ý trời như sự hỗ trợ, cổ vũ cho phong trào và các mục tiêu của họ. Chẳng hạn như họ đúc chiếc ấn quân sự cho các tướng lãnh của họ có hàng chữ “Phụng Thiên phạt bạo Nguyễn Phúc”* (Vâng mệnh trời trừng phạt bạo chúa [họ] Nguyễn Phúc)*. Câu đó ám chỉ vị chúa Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần, người đã được Trương Phúc Loan đưa lên ngai vàng. Ở đây chúng ta có được chứng cứ cụ thể nhất về việc các lãnh tụ Tây Sơn gợi lên khái niệm mệnh trời, nhân danh người dân để hướng dẫn hành động của họ. Hơn nữa, thông điệp trong chiếc ấn nêu rõ sự giận dữ của trời thông qua nhà Tây Sơn, trước sự cai trị tồi của nhà Nguyễn.

Nhiều bài tường thuật của các chứng nhân người châu Âu nhấn mạnh đến việc các lãnh tụ Tây Sơn nêu lên tầm quan trọng của mối liên hệ với trời và sự phù hộ của trời dành cho phong trào của họ. Tháng 2 năm 1774, một giáo sĩ người Tây Ban Nha* là Diego de Jumilla viết về nhà Tây Sơn rằng “họ loan báo cho các làng mạc rằng họ không phải là kẻ cướp, mà họ tiến hành một cuộc chiến tuân theo ý trời”. Bài viết của một giáo sĩ Pháp về những ngày đầu của phong trào cũng cho rằng “[các lãnh tụ Tây Sơn] phổ biến hàng ngàn câu chuyện về những giấc mơ và các dấu hiệu từ trời chứng minh cho sứ mạng của họ”. Một du khách ngươi Âu khác viết rằng người trẻ tuổi nhất trong ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Lữ đã tuyên bố rằng các vị tiên* đã ban chiếu chỉ rằng cả ba anh em nên phục vụ như những nhà cai trị mới của vương quốc. Những lời ám chỉ sớm sủa đó cho thấy rõ rằng các lãnh tụ cuộc nổi dậy đã đã phổ biến cách giải thích của họ về ý trời ngay vào thời kỳ khỏi đầu của cuộc nổi dậy.

Những lời tuyên bố về sự phù hộ của trời không phải là không có người hoài nghi. Như sẽ được nêu rõ dưới đây, những lời tuyên bố đó đã được chứng minh bởi những biểu lộ về sự phù hộ của trời. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1776 nêu lên những khó khăn mà nhà Tây Sơn gặp phải khi tìm cách thuyết phục một công chúng còn hoài nghi về tính hợp pháp của Nguyễn Nhạc cùng những lời tuyên bố đang được sự hỗ trợ siêu nhiên: “Người cầm đầu cuộc nổi dậy đã tiến tới và tự xưng vương, nhưng ông ta không có ấn tín lẫn quyền trượng, và chính điều này là bằng chứng cho thấy rằng ông ta đã không được ông trời chọn lựa”*. Nói tóm lại, tuyên bố làm vua là một chuyện, còn chứng minh được rằng mình được trời phong cho một địa vị nào đó là một chuyện hoàn toàn khác, đôi lúc đòi hỏi những dấu hiệu của nghi thức thế tục, như những ấn tín chẳng hạn. Tầm quan trọng của ấn tín sẽ được khảo sát chi tiết dưới đây, cho dù cũng cần nêu ra ở đây rằng Nguyễn Nhạc đã đúc cho riêng ông ta một ấn vàng khi ông xưng hoàng đế năm 1776, có lẽ để đối lại với sự hoài nghi của dân chúng mà thư của các giáo sĩ đã phản ánh.

Các lãnh tụ Tây Sơn luôn nhấn mạnh rằng họ hành động theo ý trời và điều này rất phổ biến vào những năm đầu của cuộc nổi dậy, song về sau, lối nói phô trương này vẫn được tiếp tục, khi phong trào đã chín muồi và lan rộng ra ở Đàng Ngoài. Năm 1778, một du khách Anh là Charles Chapman viết rằng Nguyễn Nhạc đã thông báo cho ông là "lạy Trời đã cung cấp cho ông ta một công cụ để giải thoát (người dân) và đưa ông ta lên ngôi báu”*.

Một tường thuật khác trong lá thư viết năm 1784 của một giáo sĩ Tây Ban Nha là cha Ginestar kể lại việc một tướng Tây Sơn đã nói với ông rằng “trời đã phó thác vương quốc này cho họ”, cái vương quốc được nói đến là vương quốc của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Những bài tường thuật này cho thấy rằng các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục nhấn mạnh điều mà họ gọi là sự phù hộ của trời và họ cảm thấy điều quan trọng là phải kể lại chuyện này với du khách châu Âu. Sự nhấn mạnh đó gợi cho thấy rằng các lãnh tụ cuộc nổi dậy coi hình thức hợp pháp hóa chính trị này là điều cơ bản trong toàn bộ sứ mạng của họ.

Khi quân Tây Sơn tiến vào lãnh thổ họ Trịnh vào mùa hè năm 1786, họ mang theo lời tuyên bố hành động nhân danh ông trời. Khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê già nua* tại Thăng Long, vị lãnh tụ Tây Sơn đã miêu tả những nỗ lực nhân danh nhà vua bằng cách cầu khẩn sự phù hộ của trời. Huệ tâu “thần đã đến đây, bởi vì đó là thể theo ý trời", và “trời đã mượn bàn tay của hạ thần để tấn công và tiêu diệt họ Trịnh bất kính, để mở rộng uy quyền to lớn của bệ hạ”. Huệ còn tỉ mỉ hơn khi quả quyết “Thần đến đây vào lúc này hoàn toàn dựa trên ý trời, về những tàu thuyền đã đưa quân của hạ thần đến đây, nếu không thể làm cho nước lụt và ngọn gió nồm yếu đi thì làm sao hạ thần đù sức mạnh để hoàn thành công việc này?”. Điều đáng chú ý là vị lãnh tụ Tây Sơn lập luận rằng ông không chỉ đơn thuần là người làm thay ý trời, mà lời tuyên bố của ông còn được minh chứng bởi những biểu hiện về uy lực của trời. Nguyễn Huệ cho rằng do trời không ở bên cạnh ông, các sức mạnh tự nhiên do trời kiểm soát, đã không giúp ông một cách hoàn hảo để ông hoàn thành những việc phải làm*. Rõ ràng là trong việc phục hồi ngai vàng vua Lê, Nguyễn Huệ tuyên bố rằng trời đã chọn nhà Tây Sơn để vãn hồi trật tự, tiêu diệt họ Trịnh áp bức, mà không tự đặt mình như những nhà cai trị tại vương quốc Đàng Ngoài, như họ đã làm ở Đàng Trong,

Tuy nhiên, hai năm sau, tình hình đã đổi khác, Nguyễn Huệ chuẩn bị đẩy mạnh lời tuyên bố về quyền lực chính trị ra phía bắc, cũng lại nhân danh ý trời. Khi lên ngôi báu, ông ban chỉ dụ nêu rõ rằng “nỗi thống khổ của người dân diễn ra khắp nơi chung quanh ta, (việc ta lên ngôi báu) là theo ý trời đã định, không phải như người dân đã truyền tụng. Ta đã dựa theo ý trời và đi theo lòng người”. Lại một lần nữa, vị lãnh tụ Tây Sơn nhấn mạnh ý tưởng là “trời” đã kêu gọi ông chống lại “sự áp bức đối với người dân”. Điều quan trọng hơn là chỉ dụ này chứa đựng một nội dung được người tín cẩn của Nguyễn Huệ là danh sĩ Ngô Thì Nhậm soạn ra một cách thận trọng*. Câu “là theo ý trời đã định, không phải như người dân đã truyền tụng” nhằm hợp lý hóa các hành động của nhà Tây Sơn theo Khổng giáo, phân biệt những gì do các thế lực siêu nhiên khởi phát với những gì chỉ đơn thuần bị kích động do áp lực của người dân. Đối với một nho sĩ, ngoài việc tham gia một phong trào như thế, sẽ thừa nhận nó xuất phát từ ý trời chứ không phải đơn thuần từ khát vọng của con người. Ý trời được sắp đặt bởi một quyền lực thiêng liêng và siêu việt trong khi khát vọng của người dân đối nghịch trực tiếp với mối quan hệ theo Khổng giáo tồn tại giữa người cai trị và người bị trị.

Mặc dù nhà Tây Sơn cố công nuôi dưỡng mối quan hệ tốt đẹp với giới nho sĩ (như đã nêu rõ ở phần diễn đạt cẩn trọng của Ngô Thì Nhậm) và nhấn mạnh rằng hành động của họ nhằm đáp ứng lại ý trời, đôi khi họ lại nêu rõ là sự nổi dậy của họ được thúc đẩy bởi những nỗi thống khổ cụ thể và phù hợp với tiếng gọi của nhân dân. Trong một tuyên cáo gửi dân chúng Đàng Ngoài trong thời gian họ xâm chiếm vùng này, nhà Tây Sơn kết hợp khái niệm về ý trời với nỗi khát khao của người dân và miêu tả hành động của họ như “phù hợp với ý trời và đáp ứng với lòng người”*. Và rồi, khi miêu tả tình cảnh của người dân, cũng bản tuyên cáo trên nói về “những người dân khốn khổ và sống rải rác chờ đợi sự quay về của ngọn cờ chính nghĩa”. Ngoài ra, ngay trong chỉ dụ ban hành năm 1788, khi lên ngôi, hình như tìm cách tin là ý trời đã xui khiến cho phong trào của ông, Nguyễn Huệ viết “Lúc đầu, ta không có ý làm vua. Chỉ vì lòng dân đã chán ngấy cuộc sống hỗn độn mà ta nóng lòng muốn trở thành một vị vua đức hạnh để cứu vãn đời sống và mang thanh bình lại cho muôn dân”. Vì thế, các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục thay đổi những lời tuyên bố về động cơ chính xác dẫn đến hành động của họ, có khi thì tin ở trời, có khi thì nói đến khát vọng của những người dân khốn khổ.

Cho dù động cơ ban đầu của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là gì đi nữa, các lãnh tụ của phong trào xem trọng vai trò của uy lực của trời. Họ làm thế rõ ràng vì lối nói hoa mỹ và những lời tuyên bố như vậy khá quan trọng trong bối cảnh văn hóa và chính trị Việt Nam và được mọi phía sử dụng trong cuộc tranh giành chính trị vào thời kỳ này. Đến cuối thời kỳ Tây Sơn, khi có một cảm nhận chung là gió đã đổi chiều chống lại chế độ của những người nổi dậy và có lợi cho nhà Nguyễn, một quan sát viên người châu Âu đã ghi rằng “tất cả nông dân và những kẻ chuyên quyền cũng vậy, đều thừa nhận và lớn tiếng tuyên bố rằng chính Trời đã ban cho chúa Nguyễn một chiến thắng nhanh chóng và toàn diện đến như vậy”. Lời tuyên bố này củng cố quan niệm phổ biến về vai trò của ông trời trong việc xác định quyền cai trị vương quốc và đồng thời làm rõ bản chất hay thay đổi của ơn trời và sự bất định về chính trị cố hữu mà nó tạo ra. Lời tuyên bố được trời phù hộ chỉ được tin khi một nhà cai trị hay kẻ nổi dậy có thể trưng ra những dấu hiệu của sự phù hộ đó. Nếu họ không làm được như thế, dòng tình cảm của người dân sẽ quay sang hướng khác. Thật vậy, lời tuyên bố được trời phù hộ phải luôn luôn được củng cố bằng những minh chứng về sự phù hộ đó, nếu không, ý trời sẽ được hiểu một cách rất khác bởi những người nghe khác.

II.3.2. Các lãnh tụ Tây Sơn và thế giới siêu nhiên

Khi các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên nói đến việc trời chuẩn nhận cho những hành động của họ, họ cũng liên kết họ một cách rộng rãi với thế giới siêu nhiên vốn có một ảnh hưởng đáng kể trong óc tưởng tượng của mọi người. Họ làm điều đó theo nhiều cách khác nhau, bao gồm việc sử dụng những lời tiên tri, tín ngưỡng địa phương, và những dấu hiệu khác của ân huệ siêu nhiên. Nguồn gốc chính xác của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn có thể vẽ ra một phần từ người thầy của ba anh em đã khuyến cáo Nguyễn Nhạc tự xem là có trách nhiệm hoàn thành một lời tiên tri tồn tại lâu đời tại địa phương: "Ở phía tây, có một cuộc nổi dậy vì chính nghĩa, ở phía bắc, một đại công đã hoàn thành”*. Lời tiên tri cũng được Nguyễn Nhạc sử dụng từ đó, nó được ghi lại trong nhiều bài tường thuật, ý nghĩa của nó thúc đẩy phong trào và lôi cuốn người ủng hộ ngay trong những ngày đầu. Lời tiên tri là một yếu tố quan trọng trong thế giới tư tưởng của người bình dân cũng như giới trí thức vào cuối thế kỷ XVIII, và vì thế, anh em nhà Tây Sơn đã tìm cách loan truyền rộng rãi lời tiên tri này cùng sự giải thích của họ về ý nghĩa của nó và sự khẳng định đã thực thi nó.

Ngoài lời tiên tri đó, các lãnh tụ Tây Sơn còn tìm các cách khác để tuyên bố về mối quan hệ trực tiếp của họ với thế giới siêu nhiên. Nhiều truyện dân gian nói về các lãnh tụ cuộc nổi dậy, có những truyện nhấn mạnh đến các yếu tố phi thường xoay quanh anh em Tây Sơn, phần lớn liên quan đến những năm đầu tiên của phong trào. Từ góc độ của người chép sử, những truyện như vậy đáng ngờ, bởi vì phần lớn chúng được truyền khẩu thay vì được viết thành văn bản, khiến cho khó mà tìm ra nguồn gốc của chúng. Một vài truyện được viết sau này và hiện có thể tìm thấy trong các bản thủ bút lưu trữ, song phần lớn chúng không có tên tác giả và không đề ngày tháng, khiến cho chúng cũng đáng ngờ như vậy. Một vài truyện được ghi nhận trong những tài liệu có đề ngày vào thế kỷ XIX, cho thấy rằng chúng được lưu hành vào cuối thế kỷ XVIII. Cho dù nhiều truyện này không dễ dàng chứng minh hay xác định ngày tháng, chúng tạo thành một phần quan trọng trong sự hiểu biết của người dân về thời kỳ Tây Sơn. Hơn nữa, mặc dù các chi tiết có tính hư cấu, những truyện này thường phù hợp với những gì chúng ta biết về nhà Tây Sơn từ những nguồn tư liệu khác, về những truyền thuyết dân gian quanh các lành tụ Tây Sơn.

Trong những văn bản còn tồn tại và các truyện truyền khẩu liên quan đến những biểu hiện siêu nhiên quanh các lãnh tụ Tây Sơn, có nhiều vũ khí siêu phàm do anh em Tây Sơn phát hiện hay do người khác mang đến cho họ. Những thứ này có một lịch sử dài dòng trong hiểu biết của người dân Việt, với truyền thuyết kể về các vũ khí siêu phàm vào đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Một truyện kể rằng vào đầu thời kỳ đó có một chiếc nỏ thần được cho là “Ai có thể giữ chiếc nỏ này sẽ cai trị đất nước; ai không giữ được nó sẽ bị diệt vong”. Và như thế, việc mất chiếc nỏ thần đã gây ra sự sụp đổ của vị vua từng sở hữu nó. Nhiều năm sau đó, vào thế kỷ XV, người ta kể rằng vị đại anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh là Lê Lợi đã nhận được thanh gươm thần để sử dụng trong các chiến dịch chống lại lực lượng chiếm đóng Trung Quốc. Khi sứ mạng của ông hoàn tất, chiếc gươm thần được trả về chiếc hồ nơi nó từng xuất hiện*.

Những vũ khí thần bí là vật quan trọng được sử dụng đặc biệt trong lễ nghi tại địa phương nơi nhà Tây Sơn nổi dậy, như Li Tana đã giải thích, các bộ tộc thiểu số ở cao nguyên và đồng bằng sống trong vùng Qui Nhơn có nhiều truyền thuyết liên quan đến gươm báu và uy lực mà chúng dành cho những ai sử dụng chúng. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những vũ khí có ma lực, đặc biệt là gươm kiếm, giữ một vai trò nổi bật trong truyền thuyết về nhà Tây Sơn. Một câu chuyện như thế, được miêu tả một cách ẩn dụ về quyền uy thống nhất của nhà Tây Sơn, kể về việc Nguyễn Nhạc tìm được một lưỡi gươm báu ở vùng duyên hải và rồi tìm thấy cán gươm phù hợp với nó trên vùng cao nguyên. Một biến thể khác của câu chuyện trên bao gồm sự mô phỏng theo truyền thuyết về vua Arthur*, kể rằng Nguyễn Nhạc phát hiện lưỡi gươm gắn vào một phiến đá và ông chỉ một mình dùng sức mạnh rút nó ra. Rồi một hôm đi thăm một ngôi làng của người Bahnar trên vùng cao nguyên phía tây Qui Nhơn, người ta mang đến cho ông một con chim khổng lồ, nó há miệng ra cho thấy một cái cán vừa với lưỡi gươm. Khi hai vật thể này được tra vào với nhau, chúng không rời nhau nữa*. Một câu chuyện tương tự kể về việc Nguyễn Nhạc tìm thấy một thanh gươm ở đồng bằng và một ấn vàng trên cao nguyên, điều đó biểu thị cả quyền lực về quân sự và chính trị. Điều này một lần nữa gợi lên ý tưởng về sự liên minh giữa người ở cao nguyên và người ở đồng bằng, được nhà Tây Sơn thể hiện ở một mức độ nào đó vào những năm đầu tiên của họ.

Một câu chuyện trau chuốt hơn liên quan đến Nguyễn Nhạc kể về một việc xảy ra vào những ngày đầu của cuộc nổi dậy, khi vào một đêm nọ, dân làng giật mình nhìn thấy ánh sáng chói lòa phát ra từ khu rừng bên cạnh. Có vẻ như luồng ánh sáng đó không có một nguồn xuất phát rõ ràng. Khi ánh sáng xuất hiện vào đêm thứ hai, dân làng đi điều tra và phát hiện một cây cung khổng lồ cùng với tên. Tiếng đồn về vụ này lan xa, và lần sau đó, khi ánh sáng phát ra vào nửa đêm, nhiều dân làng đi ra để định vị nguồn ánh sáng. Dõi theo luồng ánh sáng xuyên qua rừng, dân làng bắt gặp Nguyễn Nhạc đang mặc áo giáp đứng trước một tảng đá to. Với một giọng nói vang như sấm, ông ta tố cáo sự bạo ngược của phụ chánh nhà Nguyễn là Trương Phúc Loan và quy những khốn khổ của người dân cho viên quan này cùng thuộc hạ của ông ta. Bị khuất phục trước vóc dáng của Nhạc cùng những biểu hiệu quanh ông ta, người dân về theo anh em ông ta lật đổ Loan và làm nhẹ đi sự nghèo khổ của chính họ.

Người em của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Huệ cũng là nhân vật của những truyện kể dân gian kết nối ông với vũ khí thần bí. Một truyện như thế kể về một cặp rắn khổng lồ nằm chắn con đường Nguyễn Huệ dẫn quân đi qua. Quân của ông ta sợ hãi, nhưng vị chỉ huy của họ* xuống ngựa và cầu khấn với cặp rắn thần “Nếu anh em tôi và tôi có thể đảm đương đại sự này, tôi thỉnh cầu Rắn thần rời khỏi đường đi cho lính của tôi đi qua. Còn nếu số mệnh không cho phép thì xin hãy cắn tôi chết nhưng để binh sĩ của tôi sống và trở về với vợ con họ”. Ngay sau đó, cặp rắn tránh đường và hộ tống đoàn quân đi đến nơi. Chúng còn hỗ trợ nhà Tây Sơn nhiều hơn nữa bằng cách dâng cho Nguyễn Huệ một thanh “long đao” với cán làm bằng gỗ mun và lưỡi rất sắc*. Một câu chuyện khác về Nguyễn Huệ miêu tả ông có sức mạnh siêu nhân, có thể nâng và sử dụng một cây giáo bạc đặc biệt mà người thường không thể làm cho nó nhúc nhích nổi. Giống như lưỡi kiếm cắm trong đá mà chỉ một mình Nguyễn Nhạc rút ra nổi, câu chuyện này làm nổi bật một lãnh tụ Tây Sơn như đang sống bên ngoài thế giới bình thường. Điều đặc biệt là những câu chuyện truyền khẩu về vũ khí thần kỳ được củng cố bởi một tác phẩm của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX là bộ Đại Nam liệt truyện . Tác phẩm này ghi chép về người anh lớn nhất của nhà Tây Sơn rằng “trên đường xuyên qua vùng núi An Dương, Nhạc tìm thấy một thanh gươm mà ông gọi là gươm thần. Ông ta dùng nó để đánh lừa người dân, và nhiều người tin ông ta”. Điều này được miêu tả trong sử triều đình, cuộc nghiên cứu khởi sự vào nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy rằng câu chuyện này xuất hiện vào thời kỳ Tây Sơn. Hơn thế nữa, khi cho quyền lực và uy thế xuất phát từ việc sở hữu một thanh gươm thần, rất có thể các anh em Tây Sơn đã tìm cách loan truyền những câu chuyện như thế trong những năm đầu của phong trào.

Có vẻ như họ không chỉ khuyến khích việc loan truyền những câu chuyện như thế, mà còn tích cực khai thác tín ngưỡng dân gian có tính huyền bí và ma thuật để đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu của họ. Điều này được miêu tả một cách sinh động trong một truyện về Nguyễn Nhạc có thể tìm thấy trong nhiều nguồn tư liệu viết. Theo những tư liệu này, Nhạc lợi dụng thói mê tín tại địa phương quanh ngọn núi ở gần đó để thuyết phục những người ngấm ngầm ủng hộ ông về mối quan hệ của ông ta với thế giới siêu nhiên. Để làm điều này, ông ta lén mang chiêng trống lên đồi và bí mật sắp xếp làm cho chúng vang lên và kèm theo là những tia sáng lóe lên vào một đêm có lễ hội tại địa phương. Giả vờ kinh ngạc, nhưng cũng do tò mò, ông ta tập hợp một nhóm người địa phương thích mạo hiểm và dẫn đoàn người lên đồi. Trong làn sương mù trên đỉnh đồi, họ bắt gặp một ông lão da nhăn nheo, ông ta gọi tên Nhạc rồi đọc những chữ khắc trên một tấm bảng đồng “Ngọc hoàng thượng đế ban lệnh cho Nguyễn Nhạc làm hoàng đế trong nước”. Sau khi đọc xong, ông lão đưa tấm bảng đồng cho lãnh tụ Tây Sơn và biến mất trong đêm tối*. Trên thực tế, ông lão chính là thầy dạy của Nhạc tên Trương Văn Hiến, theo một vài tài liệu, là người đã tư vấn cho Nhạc sắp xếp trò biểu diễn này để làm nổi bật tính cách thần bí của người lãnh đạo cuộc nổi dậy. Không để ý đến trò lừa gạt công phu do Nhạc sắp xếp, dân làng hăm hở ủng hộ người lãnh tụ được trời phong thánh - như người thay mặt Ngọc hoàng Thượng đế, nhân vật cao tột bậc trong đền thờ các vị thần của người Việt.

Một truyện khác kể lại chi tiết trường hợp của một lãnh tụ Tây Sơn xoay chuyển số mệnh với một nghi thức do Nguyễn Huệ thực hiện gần kinh thành Phú Xuân vào cuối năm 1788. Mục đích của buổi lễ này nhằm xác định sự may rủi trong cuộc hành quân sắp diễn ra để chống lại quân Tàu đã xâm lấn miền Bắc Đại Việt từ đầu năm này. Truyện kể rằng Huệ bước lên bệ thờ và tuyên bố:

“Các tướng sĩ của ta! Ta sắp sửa mang quân ra Bắc hà (phía bắc Đại Việt) để hỏi tội quân xâm lược nhà Thanh, và vãn hồi thanh bình, hạnh phúc cho trăm họ. Nếu trời cho đại quân của chúng ta thắng trận, trời sẽ làm cho cả 200 đồng tiền này nằm ngửa mặt lên. Lưng của những đồng tiền này làm bằng đồng... Giờ thì quân ta tìm xem dấu hiệu thắng hay bại”*.

Nói xong, Huệ và các tướng cầu nguyện trước bệ thờ, sau đó, vị lãnh tụ Tây Sơn tung các đồng tiền lên không. Lúc đó, quân sĩ chạy lên phía trước, nhìn thấy tất cả các đồng tiền đều ngửa lên, và đều tin rằng chiến thắng của họ đã được báo trước. Tài liệu tiếp sau đó viết rằng Huệ đã cho đúc những đồng tiền đặc biệt có 2 mặt sau như nhau dùng để biểu diễn, vì vậy, trong khi nghi thức được vạch ra nhằm thể hiện những quan điểm chung về thực hành tôn giáo thì nó cũng có thể được xem như một cách vận dụng khác của nhà Tây Sơn đối với những biểu hiện của thần thánh.