Chương II - 6 THIẾT LẬP CÁC MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ
Tính hiệu quả, các biểu hiện siêu nhiên, việc chứng tỏ sự hào hiệp về kinh tế, và lòng quả cảm cá nhân không đủ để hình thành một địa vị chính trị của những người mới phất lên như anh em nhà Tây Sơn. Họ còn cần phải phát triển những mối quan hệ trực tiếp hơn với những cơ chế chính trị đang tồn tại, và nhất là với những cá nhân và dòng họ đang chính thức nắm quyền hành. Vì vậy, khi mà các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng loại kỹ thuật hợp pháp hóa đã được miêu tả ở trên, họ cũng tìm cách kết nối với những thế lực cầm quyền đương thời. Họ làm điều đó vừa thông qua việc thiết lập các mối quan hệ chính thức về chính trị và quân sự, vừa thông qua những toan tính hôn nhân với dòng họ những người cầm quyền. Trên cả hai phương diện, nhà Tây Sơn áp dụng chiến lược duy trì hình thức tiến thân về mặt chính trị vẫn tồn tại lâu dài ở Việt Nam. Phát triển mối quan hệ với những định chế đang tồn tại, với những nhân vật chính trị nổi bật, cùng những di sản lịch sử, là điều rất cần để củng cố một yêu cầu về quyền lực. Những quan hệ chính thức trong việc thiết lập quyền lực chính trị bao gồm một hình thức chính thống hóa quan trọng, cùng lúc với sự hình thành những mối quan hệ cá nhân và không chính thức với nhiều dòng dõi đang nắm quyền cũng là điều cốt yếu dẫn đến sự thành công của nhà Tây Sơn.
II.6.1. Tây Sơn và nhà Nguyễn (1773-1775)
Vào những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, các lãnh tụ Tây Sơn tìm cách tô vẽ hình ảnh của họ không phải như những kẻ thay thế dòng họ Nguyễn, mà là những người bảo vệ một trật tự đang tồn tại nhưng đã suy tàn. Khi đã chiếm được phủ lỵ Qui Nhơn, họ tuyên bố ủng hộ “người cai trị hợp pháp” của vương quốc - người con trai còn trẻ của vị chúa đã qua đời - người đã bị Trương Phúc Loan âm mưu truất quyền kế nghiệp*. Loan báo ý định lật đổ cả vị chúa đang nắm quyền lẫn viên quốc phó tham nhũng Trương Phúc Loan, Nguyễn Nhạc công khai tuyên bố:
“Nay viên quan Trương Phúc Loan xấu xa và tham lam đã công khai nhận hối lộ và gây ra sự rối loạn trong triều... Thế tử Dương*, con của Thái Bảo (con trai vị chúa đã cai trị lâu dài) người rất thông minh, và ta đã lập ngài lên ngôi vương để giữ yên ngôi chúa Nguyễn”.
Nói cách khác, viên quốc phó “xấu xa”, người chịu trách nhiệm về những rối loạn gây nguy hiểm cho dòng họ Nguyễn đang cầm quyền, cần phải bị thay thế bởi người kế vị hợp pháp là vị thế tử “rất thông minh” và quân đội Tây Sơn sẽ là lực lượng đứng ra thực hiện sự thay đổi này.
Các nhà lãnh đạo Tây Sơn biết rất rõ rằng chiêu bài về một người kế vị hợp pháp sẽ có tiếng vang mạnh mẽ đối với những người am hiểu chính trị còn ngờ vực hơn là mở cuộc thách thức triều đình nhà Nguyễn. Bằng cách ủng hộ vị hoàng tôn, các nhà lãnh đạo Tây Sơn cũng hi vọng sẽ thủ lợi từ sự phân hóa trong nội bộ cung đình đã nổi lên để phản ứng lại những hành động của viên quốc phó. Như tác giả Trương Bửu Lâm đã viết:
“Loan, khi làm quốc phó... đã theo đuổi việc xóa bỏ một số định chế và khối quyền lực mà nhà Nguyễn đã xây dựng trong gần 200 năm ở phương Nam. Hành động của ông ta có nghĩa là nhiều nhân sĩ bỗng nhiên cảm thấy họ bị loại ra khỏi quyền lực chính trị. Hậu quả là người dân phía nam chịu ảnh hưởng của những nhân sĩ bất mãn này đã xem Loan như một kẻ xấu xa về trật tự vật chất, xã hội và đạo đức.”.
Trong số những nhân sĩ bất mãn này có người thầy học của anh em Tây Sơn tên Trương Văn Hiến. Người anh cả của Hiến trung thành với vị chúa cuối cùng và đã bị Trương Phúc Loan sát hại khi chống lại các nỗ lực của Loan nhằm thao túng việc kế vị. Hiến cư ngụ ở Qui Nhơn, mở trường dạy học, nơi các anh em Tây Sơn theo học. Có thể rằng với tư cách người cố vấn không chính thức cho anh em Tây Sơn trong những năm đầu, Hiến đã đề xuất chiến lược ủng hộ một người kế vị hợp pháp lên ngôi, vừa có lợi về mặt chính trị, vừa là phương tiện để áp dụng biện pháp trả thù cá nhân đối với Loan*.
Khi lời tuyên bố “cứu giá” chúa Nguyễn của nhà Tây Sơn trở nên quan trọng đối với các nho sĩ bị buộc phải chọn lựa giữa những người nông dân nổi dậy “có đức” với những ông vua thối nát nhưng “hợp pháp” hoặc các chúa phục vụ họ, những lời tuyên bố như vậy cũng quan trọng đối với người nông dân ủng hộ họ. Thật vậy, không cần thiết phải nỗ lực kêu gọi cứu giúp một ông vua ở những người nông dân mà phần đông đã sung vào quân đội. Miêu tả phong trào của họ theo cách này, nhà Tây Sơn tự liên kết với truyền thống lâu đời của những người dân ủng hộ các nhà cai trị hợp pháp chống lại những người chống đối khác. Hai họ Trịnh - Nguyễn bảo vệ nhà Lê chống lại họ Mạc là ở vào truyền thống này, như các thành viên trong hoàng tộc nhà Lê vừa mới tìm cách giải thoát nhà vua khỏi sự chế ngự của họ Trịnh. Ở bất cứ trường hợp nào, bằng cách lưu ý rằng họ là những kẻ trung quân, không phải là bọn phản loạn, anh em Tây Sơn hi vọng được người dân ủng hộ mà không gặp sự khó xử về đạo đức với những ai dính líu với dòng chúa Nguyễn.
Nhà Tây Sơn đã thành công trong nỗ lực liên kết với vị đông cung thế tử và tuyên bố họ là người đấu tranh, bảo vệ ông. Một khẩu hiệu phổ biêh được tung ra vào thời điểm này vẽ lên sự khác biệt giữa hai thế lực chống chọi nhau: “Quân triều đình là quân của quốc phó- Lính huýt gió là lính của đông cung”. Quốc phó là Trương Phúc Loan, và câu “lính huýt gió” nhằm ám chỉ những tiếng huýt gió to mà quân Tây Sơn tạo ra khi di chuyển ở nông thôn. Một khẩu hiệu tương tự cũng xuất hiện cùng thời điểm trên, nêu rõ tên những nhân vật chính trị có vấn đề: “Tấn công và lật đổ Trương Phúc Loan, giúp và ủng hộ đông cung Nguyễn Phúc Dương”. Sự xuất hiện của những khẩu hiệu như thế cho thấy rằng lời kêu gọi phục hưng của anh em Tây Sơn đã âm vang trong cư dân Đàng Trong.
Để đẩy xa hơn tính chính thống của họ như những chiến sĩ bảo vệ người thừa kế hợp pháp của nhà Nguyễn, anh em Tây Sơn lấy họ mẹ là họ Nguyễn. Họ của người cha là họ Hồ, khi kết nối với dòng họ Hồ Quý Ly, nhà lãnh đạo đầy quyền lực tại miền Bắc vào cuối thế kỷ XIV, đã không tạo ra một âm hưởng nào đặc biệt trên lãnh thổ phía nam. Họ Nguyễn sẽ có nhiều thuận lợi cho họ hơn trong tiến trình thực hiện chiến dịch. Chẳng những họ này liên kết họ trong ý thức của người dân về dòng họ đang nắm quyền, tạo ra một cái vỏ bọc về tính chính thống, mà còn có thể coi như một điềm lành. Những người trung thành với chúa Nguyễn thường được phép đổi ra họ Nguyễn như một ân sủng được chúa ban cho. Điều đó có nghĩa rằng khi mang dòng họ Nguyễn hoặc là họ có liên quan đến dòng hoàng tộc, hoặc là họ được công nhận có công phục vụ xứ sở. Cuối cùng, quyết định chọn họ Nguyễn có thể là dụng ý của anh em Tây Sơn nhằm liên kết họ với một lời tiên tri khác: Phù Nguyễn trì thống (dòng họ Nguyễn sẽ bảo vệ và cai trị). Việc chọn lấy họ Nguyễn không đơn thuần là sự kết nối anh em Tây Sơn với nhà Nguyễn đương quyền, mà quan trọng không kém là sự liên kết họ với lời tiên tri xác định quyền cai trị sẽ thuộc về dòng họ Nguyễn.
Không thỏa mãn với việc chỉ sử dụng họ Nguyễn, Nguyễn Nhạc còn tìm cách tạo lập mối quan hệ gần gũi hơn nữa với nhà Nguyễn bằng việc mưu tính gả một trong những cô con gái của ông ta cho vị đông cung mà anh em Tây Sơn đang bảo vệ*. Ý nghĩa của nỗ lực nhằm tạo mối quan hệ qua hôn nhân không nên được cường điệu quá đáng. Ngay từ những ngày đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập, sự kết giao qua hôn nhân rất quan trọng, giúp các dòng họ có thế lực tại địa phương buộc chặt với nhau trên một lãnh thổ bị chia cắt. Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV, các triều Lý và Trần đã cầm quyền trên đất nước Đại Việt và kết giao với nhau qua một mạng lưới hôn nhân với những dòng dõi tự trị tại địa phương. Vào các thế kỷ sau, những sự kết giao như thế tiếp tục được sử dụng như một phương tiện kết nối các dòng dõi chính trị thuộc nhiều vị trí khác nhau, trong đó có hai họ Trịnh và Lê trong cuộc cộng sinh chính trị lâu dài của họ. Trong một vùng đất mà quan hệ họ hàng quyết định địa vị chính trị và tính chính thống, đối với những người ngoại cuộc làm chính trị như anh em Tây Sơn, một trong những cách tốt nhất để tự khẳng định mình là qua hôn nhân, trở thành thành viên của những gia đình có uy tín về chính trị. Trong lãnh vực này, việc họ sử dụng quan hệ hôn nhân cũng tương tự như dòng họ Nguyễn trước họ, vào thế kỷ XVII đã phát triển mối quan hệ hôn nhân với các nhà cai trị hai vương quốc ở sát cạnh là vương quốc Khmer và vương quốc Chăm và với những thương nhân giàu có như cách củng cố nền tảng chính trị của chính họ.
Tuy nhiên, để tạo dựng mối quan hệ hôn nhân, trước tiên Nguyễn Nhạc phải bắt được đông cung Nguyễn Phúc Dương, người trước đó đã tránh được một cuộc truy bắt của nhà Tây Sơn. Cho dù họ tuyên bố tranh đấu nhân danh đông cung thế tử, có nhiều dấu hiệu cho thấy ông không hoan nghênh lắm sự hỗ trợ này và tìm cớ duy trì một khoảng cách an toàn với những kẻ tự nhận đã cứu ông. Song, sau khi nhà Tây Sơn treo thưởng cho ai bắt được ông, cuối cùng đông cung Dương cũng bị bắt và bị giải đến cho các lãnh tụ Tây Sơn ở Hội An vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1775. Vào lúc này, Nhạc “gả con gái Thọ Hương cho đông cung như một quà tặng và nhiều lần yêu cầu đông cung lên ngôi chúa, song ông không đồng ý”. Phần lớn chứng cứ còn lưu lại kể rằng đông cung tiếp tục từ chối những đề nghị đó, cho đến ngày ông có thể thoát khỏi sự giam hãm của nhà Tây Sơn vào cuối năm 1776 và chạy vào vùng Gia Định, nơi tập trung quân của nhà Nguvễn. Tuy nhiên, về phần mình, Nguyễn Nhạc tin, hay muốn tin rằng cuộc hôn nhân là hoàn hảo, vì theo Hoàng Lê nhất thống chí, về sau, Nhạc tự giới thiệu với nhà Lê là qua cuộc hôn nhân này, ông ta đã là một thành viên của dòng họ Nguyễn từng cầm quyền*.
Với việc đông cung Dương thoát khỏi sự cầm giữ của anh em Tây Sơn, sự thuận lợi từ mối quan hệ với nhà Nguyễn tan thành mây khói. Sự ra đi của ông khiến các lãnh tụ Tây Sơn mất đi những tàn dư còn có ích của nhà Nguyễn, những người còn tồn tại của vương triều này tập hợp lại ở vùng Gia Định dưới sự chỉ huy của một ông hoàng trẻ khác là Nguyễn Ánh (cháu nội chúa Nguyễn Phúc Khoát). Vì vậy, sau khi đông cung đi thoát rồi, anh em Tây Sơn từ bỏ việc khoe khoang phục vụ cho chính nghĩa của nhà Nguyễn và năm sau đó, họ đã tàn sát gần như toàn bộ dòng dõi nhà Nguyễn trong một cuộc càn quét vùng Gia Định. Trong mọi trường hợp, nhà Tây Sơn tiếp tục duy trì khoảng cách nhất định giữa họ và những người mà họ tự cho là bảo vệ chính nghĩa của họ. Như chúng ta đã biết ở phần trên, nhà Tây Sơn đã đúc những chiếc ấn quân sự chỉ trích chúa Nguyễn trẻ tuổi như một bạo chúa. Để đẩy mạnh sự chỉ trích hơn nữa, các lãnh tụ Tây Sơn chính thức cấm sử dụng từ phúc là một phần tên của quốc phó Trương Phúc Loan, của chúa Nguyễn Phúc Thuần vừa bị sát hại, và của toàn bộ dòng dõi các chúa Nguyễn*. Mối quan hệ căng thẳng giữa họ với đông cung Dương trẻ tuổi và sự nhận biết là lời tuyên bố ủng hộ nhà Nguyễn của họ chỉ còn chút giá trị nhất định khiến họ tìm thêm những mối quan hệ chính trị khác. Họ không cần phải nhìn đâu xa, vì đại quân của họ Trịnh đã có mặt tại vùng đất phía nam rồi.
Hình 5: Bản đồ miền Trung Đàng Trong cho thấy những địa điểm then chốt có liên quan đến cuộc nổi dậy. Các địa danh trong phủ được đặt theo sự phân bố địa iý, với các ranh giới không rõ ràng.
II.6.2. Nhà Tây Sơn và họ Trịnh (1775-1786)
Trong lúc cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn gây ra nhiều thiệt hại cho các chúa Nguyễn, nó trở thành một cơ hội ngoạn mục cho chúa Trịnh ngồi ở Thăng Long quan sát những biến động đang diễn ra. Lợi dụng những rối loạn ở phía nam, chúa Trịnh Sâm ra lệnh xâm chiếm lãnh thổ của chúa Nguyễn vào mùa hè năm 1774, tuyên bố là mục đích nhằm giúp đỡ chúa Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn. Sâm huy động một đạo quân 30.000 người nhanh chóng tiến vào nam. Cuối năm 1774, quân Trịnh đến vùng đất Thuận Hóa đang suy yếu vì nạn đói và đầu năm sau vào đến Phú Xuân, một thành phố đang diễn ra cảnh rối loạn nội bộ nghiêm trọng, với một vài quan lại hỗ trự tích cực cho cuộc xâm chiếm của quân Trịnh, Sau khi chiếm kinh đô nhà Nguyễn một cách dễ dàng, quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam, qua đèo Hải Vân và đi sâu vào Quảng Nam.
Trong lúc cuộc tiến quân trước đó của họ ít gặp sự kháng cự của quân Nguyễn, và lúc ban đầu, họ cũng giành được một vài thắng lợi trước quân Tây Sơn, thì sau đó quân Trịnh sớm gặp khó khăn. Họ đã không được chuẩn bị tốt cho việc thích ứng với các điều kiện về địa lý và khí hậu ở phía nam, các đường dây tiếp tế bị căng ra quá mức chịu đựng. Những vấn đề trên kết hợp với một trận dịch quét qua toàn quân Trịnh và mặc dù lúc đầu chỉ ảnh hưởng đến binh lính (làm chết 600 người và 3.000 người khác bị nhiễm bệnh), song về sau còn làm giảm sút nghiêm trọng số người chỉ huy quân sự nữa. Trong một thời gian ngắn giữa tháng 1 và tháng 3.1775, đã có 3 trong số những tướng lĩnh quan trọng của quân Trịnh qua đời*.
Mặc dù lâm vào tình thế khó khăn, cuộc tiến công của quân Trịnh vào cuối năm 1774, đầu năm 1775 cho thấy một mối đe dọa nghiêm trọng cho vị thế của nhà Tây Sơn đang lâm nguy trước cuộc phản công do quân nhà Nguyễn tiến hành từ phía nam. Kẹt giữa hai lực lượng quân sự, và không có đủ tiềm lực chiến đấu ở cả hai mặt trận, Nguyễn Nhạc tỏ ra thực dụng khi xin đầu hàng quân Trịnh vào cuối mùa xuân 1775. Khi Nhạc bày tỏ điều này trong lá thư gửi cho tướng Trịnh, “tôi được biết đại quân đang tiến công và lấy lại lãnh thổ cũ. Tôi nghĩ ngay đến bản thân mình: tôi đang ở trên đất của nhà vua, và tôi là thần dân của vua, tôi sẽ hết lòng tuân theo mệnh lệnh của ngài”. Đang ở trong tình thế căng thẳng, các chỉ huy quân Trịnh dễ dàng thỏa thuận với lời xin đầu hàng và cử anh em Tây Sơn làm tướng trong hàng ngũ quân Trịnh. Người lớn nhất trong ba anh em Tây Sơn từng bị quân Trịnh chế nhạo một cách khinh miệt bằng cái tên “Biện Nhạc ngông cuồng" được cử làm Tây Sơn Hiệu Trưởng Tráng Tiết Tướng Quân. Lúc đầu, nhà Trịnh chỉ phong chức cho Nguyễn Nhạc, nhưng ông ta thúc giục họ làm nhiều hơn, và họ đồng ý ban cho người em của ông ta là Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu Tiền Phong Tướng Quân. Cuối cùng thì trong lúc bề ngoài Nhạc vẫn giả vờ hành động như một thuộc hạ của chúa Nguyễn, ông ta còn là một tướng trong quân đội của họ Trịnh lãnh sứ mạng lật đổ chính nhà Nguyễn.
Chẳng những ban cho anh em Tây Sơn chức chưởng trong quân đội, chúa Trịnh còn ban tượng trưng những phần thưởng bằng vật chất cho những người liên minh mới với họ. Những vật phẩm đó biểu thị cho cả quyền lực chính trị và quân sự, gồm có gươm, quân phục, cờ, và ấn tín. Chúng có một ý nghĩa chính trị to lớn và có giá trị nhiều hơn chức tước, vốn dễ yêu cầu nhưng không dễ được dẫn chứng. Sở hữu những phẩm vật phản ánh chức vụ mới và sự liên kết của họ, anh em Tây Sơn dễ dàng hơn trong việc tuyên bố nắm quyền. Có ưu thế nhất trong những phẩm vật này là chiếc ấn, biểu tượng chính thức của chức vụ chính trị hay quân sự. Chúng được sử dụng ở Đại Việt cũng như ở Trung Quốc, nhằm mang lại tính hiệu lực cho những văn kiện chính thức, nhưng quan trọng hơn là nhằm làm biểu tượng cho quyền lực và địa vị. Việc sở hữu một chiếc ấn như thế là dấu hiệu chủ yếu của quyền lực. Như đã ghi lại ở trên, một giáo sĩ đã viết vào năm 1776 rằng do Nguyễn Nhạc không sở hữu một ấn tín của triều đình, người dân nghĩ là ông ta không có được ân sủng của trời. Tầm quan trọng của ấn tín cũng được nêu rõ trong một tình tiết liên quan đến một tôi trung của nhà Nguyễn về sau đã đi đến kinh đô của Tây Sơn để làm thông dịch cho một phái bộ của người Anh do Charles Chapman dẫn đầu vào năm 1778:
“Ông quan không may tội nghiệp của chúng tôi đang ở trên boong tàu, ông ta thích ẩn mình trong một bộ trang phục của người Anh, râu cạo nhẵn, răng đánh sạch, và điều làm cho ông ta lo lắng là phải cắt bộ móng tay dài từ hơn bảy phân đến một tấc. Ông ta muốn xem tờ giấy (một chỉ dụ của Nguyễn Nhạc cho Chapman) và ông ta nói với tôi mà nước mắt quoanh tròng khi nhìn thấy dấu đóng từ ấn tín cũ của các chúa Nguyễn mà người sở hữu đê hèn đã lấy cắp nó”.
Thật vậy, tầm quan trọng của ấn tín trong thế giới biểu tượng chính trị của người Việt Nam được chứng tỏ qua việc đánh cắp ấn của một vị quan hay tự ý đúc ấn là có thể bị chém đầu.
Các lãnh tụ Tây Sơn biết rõ giá trị những vật phẩm do chúa Trịnh cấp, và cố công gìn giữ những gì mà các ân nhân của họ đã ban cho họ. Nguyễn Nhạc nhiều lần cử các phái bộ mang quà tặng cho các ông chủ ở phía bắc, dâng những phẩm vật có giá trị phản ánh sự giàu có và tài nguyên thiên nhiên của phía nam: ngựa, voi, gỗ trầm hương, đá cẩm thạch và vàng. Những phái bộ này xuất hiện đều đặn đến mức chúa Trịnh phải từ chối một số lễ vật của nhà Tây Sơn. Trong số những phái bộ mang phẩm vật có một phái bộ được Nhạc chính thức giao việc dâng cho chúa Trịnh quyền kiểm soát ba phù dưới quyền họ là Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên. Vì ba phủ này nằm ở phía nam đèo Hải Vân mà quân Trịnh đã rút khỏi, việc dâng tặng được nêu lên với nhận thức đầy đủ là món quà này sẽ không được chấp nhận. Hoặc đúng hơn là các lãnh tụ Tây Sơn tin chắc rằng ngay cả khi chúa Trịnh nhận quà tặng thì họ cũng chỉ làm việc đó theo nghi thức, vẫn cho phép Nhạc tiếp tục thực hiện quyền kiểm soát trực tiếp lãnh thổ trên thực tế.
Có trong tay chức tước mới và nhiều vật phẩm có giá trị tượng trưng, anh em Tây Sơn quay sự chú ý vào việc tấn công quân Nguyễn ở phía nam, vì lúc bấy giờ họ là tướng trong quân Trịnh, tự coi mình là đạo quân tiên phong của quân Trịnh ở phía bắc. Không còn bị đe dọa bởi quân Trịnh ở mặt bắc, quân Tây Sơn có thể tiến hành một cuộc phản công hữu hiệu chống quân Nguyễn và đẩy cuộc xung đột đi xa hơn về phía nam. Trong lúc quân Tây Sơn chống quân Nguyễn, Nguyễn Nhạc tiếp tục nuôi dưỡng những tham vọng chính trị xa hơn mà ông ta tin rằng người bảo trợ là chúa Trịnh có thể đáp ứng được. Cuối cùng, vào đầu năm 1777, Nhạc đòi hỏi chúa Trịnh thừa nhận quyền hành chính trị của ông ta (đối lại với trách nhiệm quân sự đơn thuần) trên lãnh thổ phía nam Phú Xuân. Chúa Trịnh về mặt danh nghĩa có mọi quyền hạn trên vùng đất này, đã thuận theo yêu cầu của ông ta. Chúa bổ nhiệm Nguyễn Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam và phong tước quận công, hãng thứ ba trong các tước vị triều đình. Đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Nguyễn Hoàng, người khai sáng vương quyền nhà Nguyễn ở Đàng Trong, cũng được phong chức tước này, và điều đó cho thấy chúa Trịnh xét Nhạc trên danh nghĩa tương tự*, có thêm trong tay những chức tước đó, Nhạc trở thành một viên chức chính trị ưu tú của chúa Trịnh.
Sau những thăng thưởng này, có vẻ như mối tương quan giữa Nguyễn Nhạc (và nhà Tây Sơn nói chung) với những nhà lãnh đạo ở phía bắc đã không còn như trước nữa. Các tài liệu lịch sử Việt Nam không còn viết về những mối quan hệ giữa các năm 1777 và 1786 và có lẽ những tình huống này không đáng phải ngạc nhiên. Trong thời gian các nhà lãnh đạo Tây Sơn tham gia vào một cuộc chiến đấu mãnh liệt với kẻ thù họ Nguyễn ở phía nam, họ ít có cơ hội, và cũng không cần mấy, tiếp xúc nhiều với chúa Trịnh. Khi hai bên chạm trán nhau lần nữa thì đó là vào năm 1786, lúc bấy giờ quân Tây Sơn tấn công ồ ạt vào các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị trước kia của họ.
II.6.3. Nhà Tây Sơn và các mối quan hệ chính trị địa phương: người dân vùng cao và người Chăm
Ngoài những nỗ lực ban đầu nhằm kết hợp với những trung tâm chính trị xa xôi (cho dù là hùng mạnh hơn) ở Thăng Long và Phú Xuân, nhà Tây Sơn còn thiết lập mối quan hệ với các lực lượng và tổ chức chính trị tại địa phương. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn là mối quan hệ giữa họ với nhiều bộ tộc không phải là người Việt, gồm cả những người sống ở cao nguyên và những người cư trú ở đồng bằng ven biển. Thông qua giao thiệp về thương mại, Nguyễn Nhạc đã thiết lập mối quan hệ tốt với các bộ tộc ở cao nguyên, trong đó đáng lưu ý nhất là người Bahnar. Một vài tài liệu chép rằng Nhạc đã cưới một phụ nữ Bahnar làm vợ, một điều dường như đã được xác minh trong tài liệu của người châu Âu về sau này cho rằng vợ ông ta và mấy người con có thể xuất thân từ các nhóm người vùng cao. Cùng với các bộ tộc khác, người Bahnar cung cấp binh lính, quân nhu, và sự phòng vệ trong những năm đầu của phong trào, khi nó dễ dàng bị tấn công và tiêu diệt bởi quân Nguyễn. Có thể sự dính líu của người Bahnar vào phong trào Tây Sơn là sự tiếp tục hỗ trợ cho những hành động chống nhà Nguyễn đã diễn ra vào các thập niên 1750 và 1760. Những nhóm người này tiếp tục ủng hộ nhà Tây Sơn, cho dù chúng ta sẽ thấy ở Chương IV, nhiều người khác chọn cách đứng về phía nhà Nguyễn là đối địch của Tây Sơn*.
Trong lúc những quan hệ chính trị và cá nhân diễn ra tại cao nguyên cố nhiên là có tính quan trọng, đặc biệt trong những giai đoạn đầu tiên của phong trào, khi nhà Tây Sơn mở rộng hoạt động xuống vùng đồng bằng ven biển, họ ngày càng dựa vào các tổ chức chính trị ở đồng bằng, đặc biệt nhất là các tổ chức của người Chăm. Vùng đất các anh em Tây Sơn đứng lên là trung tâm của một vùng từng được dùng làm kinh đô của vương quốc Champa hùng mạnh. Vào thế kỷ XVIII, tổ tiên của người Chăm từng kiểm soát phần lớn vùng đất miền Trung của Việt Nam ngày nay, có lúc quyền lực của họ trải dài tới Thăng Long ở phía bắc, tới Angkor ở các phía tây và nam. Champa có một lực lượng chính trị và quân sự ghê gớm đối đầu với nhà nước Việt Nam lúc ban sơ, song rồi suy yếu về chính trị và mất dần đất đai vào tay người Việt từ đầu thế kỷ XV. Đến các thế kỷ XVI và XVII, nhà nước Champa và cư dân của họ còn phải chịu đựng cảnh nhà Nguyễn bành trướng về phía nam, và vào thời kỳ Tây Sơn, vương quốc Champa đã thu nhỏ rất nhiều về đất đai và uy thế. Tuy vậy, Champa tiếp tục giữ một mức độ độc lập về chính trị nhất định, cảnh quan trong vùng vẫn còn rải rác các tháp Chăm và các bức tường thành, nhắc nhở uy lực một thời của các vua Chăm. Do sự tiếp tục tồn tại của người Chăm, khu vực trên được gọi phổ biến là xứ Chiêm hoặc các du khách châu Âu gọi đơn giản hơn là Chăm.
Nhận ra những gì họ phải chịu đựng dưới bàn tay quyền lực của các chúa Nguyễn, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng người Chăm sẵn sàng liên kết với nhà Tây Sơn. Trong số những người đầu tiên ủng hộ phong trào Tây Sơn có bà công chúa Chăm tên Thị Hỏa và các ngươi thân cận của bà. Nhà Tây Sơn không chỉ đơn thuần trông chờ vào sự ủng hộ vật chất của người Chăm, cho dù họ có tuyển mộ người Chăm vào trong quân đội của họ, họ còn coi đó là những biểu tượng chính trị, tuy không rõ ràng song cũng quan trọng không kém. Theo các sử quan triều Nguyễn vào thế kỷ XIX, các nhà lãnh đạo người Chăm đã giới thiệu với các lãnh tụ Tây Sơn nhiều vật phẩm có tính biểu tượng: “Chưởng cơ Chăm ở xứ Thuận Thành (một thuộc quốc của triều đình nhà Nguyễn), tiếp xúc với nhà Tây Sơn, mang theo tất cả biểu chương của vương quốc Chăm để dâng nộp cho họ”*. Trên thực tế, một hành động như vậy cho thấy một chuyển biến về kỳ vọng chính trị của người Chăm vào nhà Tây Sơn. Có lẽ người lãnh đạo dân tộc Chăm suy luận rằng nhà Tây Sơn có thể giúp họ duy trì sự tự trị hoặc ít nhất cho phép họ thực hiện việc trả thù nhà Nguyễn. Cũng như những lễ vật mà họ Trịnh đã dâng nộp, các đồ tạo tác cung đình của người Chăm đã giúp nhà Tây Sơn thực hiện các nghi thức trong nỗ lực hợp pháp hóa về mặt chính trị.
Về những vật phẩm cung đình được dâng nộp, một tài liệu rất khác biệt và có lẽ hạp lý hơn, là thư của một giáo sĩ Pháp tên Jean- Pierre-Joseph D’Arcet, người Pháp duy nhất sống trong lãnh địa do nhà Tây Sơn kiểm soát trong thời gian giữa thập niên 1770 và năm 1786:
“Ngày nọ, rút quân về sau một trận chiến ở Đồng Nai, (Nguyễn Nhạc) viếng một tiểu vương cư ngụ trên lộ trình của ông ta nằm giữa hai vương quốc, ông ta không gặp ai tại triều đình ngoài một thiếu niên khoảng 10 đến 12 tuổi đang ngồi trên ngai vàng. Nhạc tự xưng là cha và người anh cả của ông vua trẻ kia* và đòi xem những vật phẩm quý giá nhất trong triều. Trong những đồ vật mà ông ta được cho xem, có một cây quyền trượng bằng vàng chạm trổ đẹp, với hình 14 chiếc sừng, đánh dấu 14 thế hệ cha con đã nắm quyền kể từ khi vương quốc được thành lập. Ông ta giữ lấy tác phẩm tuyệt vời đó và nói với người đệ tử: “ta sẽ trả nó lại cho con”. [Vị tiểu vương] đã phải nhận quà tặng và cho phép người giám hộ nhân đức và giàu lòng trắc ẩn kia* cướp đoạt tài sản chốn cung đình. Người đệ tử đáng thương đó phải sẵn lòng như thế để bảo tồn sự sống còn của ông ta”.
Tài liệu đó chứng tỏ là nhà Tây Sơn đã tịch thu các biểu chương của người Chăm, thay vì người Chăm dâng hiến cho họ, và những điều này cho thấy động cơ của nhà Tây Sơn rõ hơn là nguyện vọng của người Chăm. Cho dù biểu chương của vương quốc Chăm có được dâng nộp hay bị tịch thu thì cuối cùng cũng đã nằm trong tay các lãnh tụ Tây Sơn và chắc chắn là họ sử dụng chúng với hiệu quả cao. Những vật phẩm đó có một ý nghĩa rất bí ẩn mà âm vang của chúng đã làm tăng thêm trọng lượng đáng kể cho những tuyên bố về chính trị và lễ nghi của nhà Tây Sơn.
Có lẽ mối quan hệ có ý nghĩa biểu tượng nhất của nhà Tây Sơn đối với dân tộc Chăm nằm trong việc Nguyễn Nhạc đã chọn cố đô Vijaya của người Chăm làm kinh đô của mình. Thành này có tên tiếng Việt là Chà Bàn (hay Đồ Bàn), hơi xa cảng Qui Nhơn và không được tu sửa từ nhiều thế kỷ qua. Nguyễn Nhạc nỗ lực tích cực khôi phục chúng, gia cố các bức tường thành và tái thiết một số cung điện bên trong*. Du khách Anh Charles Chapman đã đến thăm thành phố này vào năm 1778 và có để lại một tài liệu miêu tả thú vị về nó (xem bên dưới). Chà Bàn được dùng làm kinh đô của Nguyễn Nhạc từ năm 1776 cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1793, khi đó, người cháu kế nghiệp ông* tiếp tục sử dụng thành phố này như một trung tâm chính trị. Mặc dù không có một chứng cứ rõ ràng nào cho thấy nhà Tây Sơn chọn lấy khu vực này vì nó là một kinh đô cũ của người Chăm, nhưng hầu như chắc chắn rằng đây là một phần quan trọng trong các tính toán của Nguyễn Nhạc. Một nguồn tư liệu có tên Nguyễn thị Tây Sơn ký ghi chép rằng khu vực này được chọn lựa không phải vì nó báo hiệu một điềm tốt, mà vì trong bất cứ trường hợp nào, nó cần ích và tương đối dễ phòng thủ.
Mối quan hệ Tây Sơn-Chăm được thiết lập trong mấy năm đầu của cuộc nổi dậy và không phải là một mối quan hệ có thể đánh giá được. Xét cho cùng, nhà nước Chăm vẫn là một vị trí trung gian của quyền lực chính trị. Từ vị trí này, nhà Tây Sơn có thể tranh giành quyền lực với nhà Nguyễn, không phải với tư cách người kế tục trực tiếp của dòng họ Nguyễn, mà với tư cách là những người kế tục truyền thống chính trị Chăm. Có lẽ không phải hoàn toàn là điều ngẫu nhiên khi Nguyễn Huệ đến Thăng Long vào năm 1786, một số người phương Bắc đã gọi ông với cái tên Chế Bồng Nga, nhắc nhở nhà lãnh đạo Chăm nhiều quyền lực vào thế kỷ XIV, người đã tấn công kinh đô nước Đại Việt tương tự như thế. Và điều có một ý nghĩa biểu tượng là cũng như Chế Bồng Nga, như chúng ta sẽ thấy, Nguyễn Huệ cũng được kết hôn với một bà công chúa như một hành động vừa nhằm nhân nhượng vị tướng phương Nam, vừa kết nối hai vương quốc chính trị nam và bắc*. Trong lúc đế chế Chăm từng đạt đến đỉnh cao dưới triều Chế Bồng Nga, và đến thế kỷ XIX, nó trở nên rất tầm thường về mặt chính trị đến mức hầu như không còn tồn tại trên thực tế, thì với người phương Bắc, khi bị tách rời khỏi phần đất Đại Việt, dân tộc Chăm vẫn còn là một thế lực chính trị và quân sự mạnh mẽ.