← Quay lại trang sách

Chương II - 5 VỐN XÃ HỘI VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TÚY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Trong lúc những cách gọi hoa mỹ kết hợp với các tuyên bố về sự chuẩn nhận của trời và thế lực siêu nhiên là một hình thức hợp pháp hóa cần ích, các lãnh tụ Tây Sơn cũng theo đuổi những cách thức tập hợp người ủng hộ cụ thể hơn. Vốn xuất thân từ một nông thôn ở sát cạnh vùng cao nguyên, chắc chắn rằng các anh em Tây Sơn lưu ý đến sự bất bình của cả giới nông dân ở đồng bằng lẫn các bộ tộc ở vùng cao và cách mà họ có thể giải quyết những điều này (ít nhất trong một giới hạn nào đó). Như chúng ta đã thấy, đáng kể nhất trong những mối bất bình này là thuế má cao, các vấn đề tiền tệ, và tác động ngấm ngầm của sự suy yếu về ngoại thương. Mặc dù trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, nhà Tây Sơn không đặt mình vào tư thế thực hiện những cải cách quan trọng ở bất cứ lãnh vực nào, song họ vẫn thường xuyên giải quyết những bất công kinh tế.

Một trong những sáng kiến đầu tiên và quan trọng nhất của họ về phương diện này là tái phân phối tài sản khi họ đi về nông thôn, mang theo khẩu hiệu: “Lấy của người giàu cho lại người nghèo”. Theo tài liệu của người châu Âu thời kỳ này, có vẻ như quân Tây Sơn nhằm đạt được sự ủng hộ của người dân nông thôn thông qua việc tái phân phối tài sản như thế. Tuy sử dụng ngôn ngữ không được nhẹ nhàng hơn, các nguồn tư liệu của người Việt vào thế kỷ XIX cũng miêu tả hành động của họ với những từ tương tự: “Vào thời điểm đó, những kẻ nổi dậy đứng lên, cướp của người giàu chia cho người nghèo, lừa bịp họ bằng những ân sủng nhỏ nhặt để mua lòng mọi người”. Trong lúc các sáng kiến đó được xem như những phương tiện (nhằm đạt được sự ủng hộ của người dân như sử nhà Nguyễn đã ghi) hơn là cứu cánh, ý tưởng cổ xúy cho công bằng về kinh tế trở thành trung tâm điểm của phong trào lúc ban đầu. Trong bất cứ trường hợp nào, những hành động như thế mang lại cho anh em Tây Sơn danh nghĩa "kẻ cướp nhân từ” cũng như sự ủng hộ rộng rãi của người dân.

Sự tái phân tài sản không tạo ra một chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ kinh tế ở nông thôn, song những hành động như thế đã cho thấy những người nổi dậy là những kẻ bị thiệt hại về kinh tế nhiều nhất. Hơn nữa, ý tưởng tái phân tài sản, đặc biệt là thực phẩm, không chỉ đơn thuần có tính đại chúng, mà còn được chính thức công nhận và trở thành tiền lệ trong lịch sử, ít nhất ở Đàng Ngoài. Vào những lúc khủng hoảng, tại các vùng bị hạn hán hay lụt lội, triều đình cử quan lại đi trưng thu lương thực của người giàu. Trong lúc hiệu quả của việc trung thu còn hạn chế, do người giàu thường tự thu mình trong chỗ kín cổng cao tường hoặc hối lộ quan trên, thì nguyên tắc đạo đức vẫn còn tồn tại và được mọi người biết đến*. Tác giả Trương Bửu Lâm đã lập luận rằng trong nhiều trường hợp, triều đình có thể làm giảm sự căng thẳng và chống đối ở địa phương bằng cách nhượng bộ hay cứu tế dưới một hình thức nào đó. Chỉ khi nào “triều đình không cứu tế, hoặc đồ trợ cấp đến quá trễ hay ít quá, sự chống đối mới kéo dài và phát triển thành một lực lượng cần được vô hiệu hóa trên tầm mức quốc gia. Từ viễn cảnh này, các nỗ lực của nhà Tây Sơn nhằm tái phân tài sản có thể được hiểu như là một mưu tính chính đáng nhằm thực hiện những hoạt động mà chính quyền nhà Nguyễn đã không làm vì một lý do nào đó. Thật vậy, sự kiên gan và thắng lợi của cuộc nổi dậy là một cáo buộc đối với triều đình vì đã không xoa dịu được sự bất mãn của người dân, và cũng là sự chỉ báo về những hành động của chính anh em Tây Sơn.

Mặc dù có vẻ như hầu hết hành động tái phân tài sản của Tây Sơn diễn ra vào đầu phong trào, nhiều sự kiện về sau cũng nói lên bản chất những toan tính của họ nhằm sử dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích sự ủng hộ của người dân. Trong các chiến dịch diễn ra ở Đàng Ngoài năm 1786, nhà Tây Sơn từng đi vào một vùng đã bị nạn đói tàn phá nhiều năm qua. Vì vậy, khi đội quân của họ chiếm được tiền đồn ven biển của quân Trịnh ở Vị Hoàng, phía nam kinh thành Thăng Long, nơi có nhiều kho thóc quan trọng của triều đình, họ nhanh chóng cho mở kho, phân phát thực phẩm cho người dân trong vùng, về sau, khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, họ cũng mở một nhà kho của triều đình tại đây, phân phát một số vật liệu tìm được cho dân địa phương. Những hành động như thế vừa nhằm để chứng tỏ thiện chí, vừa để xoa dịu những lo lắng của dân chúng liên quan đến mục đích của họ trong thời gian họ lưu lại miền Bắc.

Ngoài việc tịch thu và phân phát lại tài sản và thực phẩm, có lần anh em Tây Sơn chiếm được Qui Nhơn vào mùa thu năm 1773 và kiểm soát có hiệu quả nhiều lãnh thổ thuộc vùng duyên hải, họ bắt đầu áp dụng những biện pháp kinh tế khác, vừa có tính tượng trưng, vừa trọng yếu. Những biện pháp đầu tiên tập trung vào vấn đề thuế má, các lãnh tụ Tây Sơn thu hút được nhiệt tình của người dân trong việc lập sổ bộ thuế. Như một nhân chứng người Tây Ban Nha đã viết:

"Trong những thôn ấp nhỏ nhất, họ lấy các giấy tờ chính thức và đốt cháy nơi công cộng, đặc biệt là bản chép cũ qui định đồ cống nạp và thuế má do nhà vua và các quan lại đặt ra. Họ ban bố lệnh bãi bỏ việc cống nạp, ngoại trừ những phong tục xưa ở miền Bắc buộc mỗi gia đình có lương thực trong nhà phải nộp một quan tiền rưỡi mỗi năm. Người dân hoan hỉ với biện pháp này, thể nghe theo và cung hiến cho những người giải phóng họ nhiều quà cáp. Họ đóng gông binh lính và quan lại mà họ bắt được, trả thù tầng lớp xã hội này”.

Chắc chắn đó là những hành động có tính toán để có một kết quả ấn tượng và công khai hủy hoại biểu tượng của một chính quyền bị căm ghét, song chúng cũng được xem như là những chỉ dấu của một nền kinh tế sắp được cải tiến. Trong một hành động mang nhiều tính tượng trưng khác, Nguyễn Nhạc ráo riết truy đuổi và cuối cùng sát hại hai quan lại hành thu thuế của triều đình đã trốn khỏi Qui Nhơn sau khi quân Tây Sơn tấn công vào phủ lỵ này. Nói rõ hơn, thuế má là vấn đề hay thay đổi trong cư dân Quảng Nam và nó đã được các lãnh tụ Tây Sơn khai thác một cách tỉ mi trong những chiến dịch ban đầu của họ.

Mối quan tâm về kinh tế khác mà anh em Tây Sơn đã giải quyết từng bước là chuyện đúc tiền. Như đã đề cập trong chương trước, vào giữa thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã bắt đầu cho đúc những đồng tiền pha kẽm để thay thế tiền đồng cũ. Dân chúng lơ là với tiền kẽm, và hình như điều này góp phần vào sự bất ổn kinh tế lan rộng vào cuối thập niên 1760, đầu thập niên 1770. Các thương nhân tích trữ lương thực và từ chối bán chúng lấy tiền mới, trong lúc những người có tiền đồng cũ ngần ngại, không muốn tham gia vào việc mua bán này. Để đáp ứng lại tình thế này, nhà Tây Sơn bắt đầu cho đúc những tiền đồng mới, có lẽ vào đầu năm 1775, nhưng chắc chắn là năm 1778, khi Nguyễn Nhạc xưng hoàng đế và lấy niên hiệu Thái Đức. Việc đúc tiền mới có một tác dụng tích cực và cụ thể trong cái nhìn của người dân về nhà Tây Sơn, vì những đồng tiền bền chắc của họ đã thay thế những đồng tiền kẽm rất không được người dân ưa chuộng. Do quyết định ban đầu về việc thay đổi đồng tiền kẽm gặp phải tình trạng thiếu đồng, cách duy nhất mà anh em Tây Sơn có thể giải quyết là nấu chảy những sản phẩm vãn hóa do con người làm ra (đồ tạo tác văn hóa) - bao gồm vạc đồng dùng trong nghi lễ, trống, chiêng, và chuông - thu giữ chẳng những từ các đền đài của nhà Nguyễn, mà còn từ các đền chùa Phật giáo. Cho dù các vật liệu này xuất phát từ đâu, tiền Tây Sơn phổ biến đến nỗi chúng tiếp tục được lưu hành rộng rãi vào thế kỷ XIX, mặc cho nhà Nguyễn nhiều lần tính đến việc bãi bỏ và thay thế chúng.

Trong một nỗ lực khác nhằm đánh bóng hình ảnh mình và củng cố tính đại chúng, anh em Tây Sơn đã tự nhận có quan hệ chặt chẽ với những người dân mà họ lãnh đạo. Điều đặc biệt là cả Huệ và Nhạc đều tự cho mình là những người bình dân, có ít của cải và không sở hữu miếng đất nào. Họ coi mình như những người áo vải - nói cách khác là họ không ăn mặc quần áo sang trọng như các quan chức. Lúc đầu, Nguyễn Nhạc dùng từ này để tự nói về mình trong một thư gửi cho các tướng của họ Trịnh vào xâm chiếm Đàng Trong năm 1776, mở đầu bằng câu: “Tôi xuất thân là người áo vải đến từ vùng Tây Sơn”. Nguyễn Huệ bắt đầu sử dụng từ này vào năm 1786, khi ông bệ kiến vua Lê lần đầu, lúc ấy, ông sử dụng trở lại câu mà Nhạc đã dùng trước đó, về sau, Huệ sử dụng lại câu này với tư cách hoàng đế Quang Trung gửi thư cho triều đình nhà Thanh vào giữa những năm 1789 và 1791. Cố nhiên, việc anh em Tây Sơn sử dụng từ này trong quan hệ với các nhà lãnh đạo chính trị cho thấy là họ không chỉ đơn thuần nhắm đến những người nông dân có thể theo họ. Trái lại, hình như nó được dùng như một hình thức tôn kính, gọi lên sự khiêm tốn và không tiềm ẩn một sự đe dọa nào, song có lẽ cũng là một biểu thị của sự trong sáng, như là họ đang tìm cách nhấn mạnh đến tính chính đáng trong hành động của họ.

Mặc dù cách nói đó được tìm thấy chủ yếu trong mối liên lạc giữa anh em Tây Sơn với các quan chức chính trị cao cấp, có vẻ như nỗ lực nhằm quảng bá hình ảnh của họ một cách rộng rãi hơn đã đạt được thành công, và câu “áo vải” đã bén rễ trong trí tưởng tượng của người dân. Nổi tiếng nhất có lẽ là công chúa Ngọc Hân, người vợ góa trẻ tuổi của hoàng đế Quang Trung, người đã sáng tác một bài thơ khóc chồng khi nhà vua thăng hà vào năm 1792, trong đó, bà đã dùng từ “áo vải” khi kể về ông. Nhưng đanh thép hơn, hai anh em Tây Sơn được một quan lại nhà Nguyễn nhắc đến theo cách này vào năm 1799, khi ông ta nhận định về những lý do dẫn đến thành công bước đầu của họ và sự lớn mạnh nhanh chóng của họ:

“Anh em Nhạc Huệ là dân áo vải, không có miếng đất cắm dùi, thế mà giơ cao tay hô một tiếng, người đi theo hàng vạn, không đầy năm sáu năm trời mà chiếm cả giang sơn”.

Một quan lại nhà Nguyễn đã ghi lại gần như nguyên văn lối nói mà anh em Tây Sơn đã sử dụng, gọi lên mức độ thành công của họ trong việc gieo rắc ý niệm đó trong trí tưởng của người dân. Thật vậy, ý niệm đó tiếp tục gây ra tiếng vang trong thời hiện đại, khi anh em nhà Tây Sơn vẫn còn được nhiều người biết đến là những anh hùng áo vải. Trong lúc một mặt, sự liên kết với người dân bình thường có vẻ như mâu thuẫn với điều họ cho là ý trời, thì rõ ràng là họ tìm thấy một động lực khiến họ phải khắc phục sự phân cách không thể không vượt qua này.