Chương II - 9 SỰ XÂM LĂNG CỦA QUÂN TÀU VÀ CÁC HẬU QUẢ
Trong lúc sự phân hóa trong nội bộ nhà Tây Sơn đang phát triển, thì lại dấy lên mối quan tâm từ bên ngoài khi Trung Quốc bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực chính trị. Năm 1787, khi Nguyễn Huệ tiến ra Bắc để loại trừ Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống chạy khỏi Thăng Long. Sau một thời gian lưu lạc trong nước và thất bại trong việc kêu gọi sự ủng hộ để ông ta trở lại ngai vàng, vua Chiêu Thống vượt qua biên giới đi vào đất Tàu, xin triều đình nhà Thanh ủng hộ. Vua Càn Long nhà Thanh được thúc giục bởi Tôn Sĩ Nghị, một tổng đốc nhiều tham vọng tại các tỉnh phía nam Trung Hoa, ở biên giới Đại Việt, đã chuẩn y đề nghị của ông ta. Tháng 11.1788, một đạo quân Trung Quốc hùng hậu bắt đầu tràn qua Đại Việt để ủng hộ vua Lê*. Viên tướng chỉ huy đạo quân Tây Sơn đóng quân ở phía bắc cho rằng thật là điên rồ và dại dột khị chống lại cuộc xâm lược qui mô lớn của đạo quân phương Bắc nên lui quân về phía nam, đóng ở các dãy núi đá vôi và các hang động ở Tam Điệp nằm giữa trung tâm Thanh Hóa.
Từ một vị trí chiếm nhiều lợi thế ở Phú Xuân, kinh đô cũ của nhà Nguyễn, Nguyễn Huệ kết luận rằng cách tốt nhất để hợp nhất lực lượng quân sự của ông với người dân nói chung nhằm tiến hành một cuộc tấn công quân nhà Thanh là tự xưng hoàng đế, cương vị mà theo ông, vua Lê đã từ bỏ khi trốn sang Tàu. Cuối cùng, vào ngày 22.12.1788, Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang tại cố đô của nhà Nguyễn, ban bố chỉ dụ tuyên xưng hoàng đế với niên hiệu Quang Trung và giải thích về quyết định lên ngôi của ông. Ông viết trong chỉ dụ: “ta khởi phục quyền lực cho triều Lê, nhưng thay vì trông nom việc nước, (nhà vua) đã chạy ra ngoài nước xin che chở. Nhân sĩ và dân chúng phương Bắc không còn quý trọng nhà Lê nữa. Họ chi tin cậy vào ta". Qua việc Huệ bước lên ngai vàng với danh nghĩa Quang Trung hoàng đế, lúc bấy giờ có đến hai vua Tây Sơn cai trị một dải đất trải dài từ ranh giới Gia Định cho đến Nghệ An*.
Vào thời điểm này, những rối rắm về quyền lực chính trị ở Đại Việt đã lên đến đỉnh điểm. Vua Lê Chiêu Thống vẫn tự coi mình là hoàng đế Đại việt, vẫn còn có một nhóm người trung thành đi theo, cũng sắp được đội quân xâm lăng hùng hậu của nhà Thanh đưa trở lại ngai vàng. Ở phía nam của vua Chiêu Thống là Nguyễn Huệ, đang cai trị với niên hiệu Quang Trung hoàng đế, đang kiểm soát về mặt chính trị phần lãnh thổ trải dài từ biên giới Việt-Trung đến phần trên của xứ Quảng Nam. Ở phía nam vùng đất của Huệ là lãnh thổ của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc, cai trị vùng đất phía nam cho đến ranh của vùng Gia Định*. Và cuối cùng, xa hơn về phía nam là dinh lũy Gia Định do Nguyễn Lữ kiểm soát đến năm 1787, đang nằm trong tay quân đội của người còn sót lại của dòng họ Nguyễn là Nguyễn Ánh. Để tỏ ra trung thành với nhà Lê, Ánh vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng của vì vua Lê quá cố trong các văn kiện chính thức ban hành*. Như vậy, trong tình hình lúc đó, có đến 4 gương mặt chính trị tự xưng (hoặc được hiểu như) hoàng đế trên một lãnh thổ mà vào năm 1778 chỉ có một.
Quân đội nhà Thanh nhanh chóng tiến vào Đại Việt lúc đó đang bị chia rẽ về mặt chính trị và vào thành Thăng Long ngày 17.12.1788, tại đây, họ đưa vua Lê Chiêu Thống trở lại ngai vàng như là hoàng đế của lãnh thổ Đại Việt. Tuy nhiên, ông vua Đại Việt này trên thực tế chỉ là một kẻ bị cầm tù trong chính cung điện của mình, bị giám sát chặt chẽ bởi tướng nhà Thanh. Ông không thể đi ra ngoài cung điện nếu không được phép, cũng không thể ban bố các chỉ dụ nhân danh mình. Quân Thanh buộc Chiêu Thống phải sử dụng niên hiệu của hoàng đế nhà Thanh trong các văn kiện do triều đình ban ra, và sự sỉ nhục này gia tăng đến mức họ nhất định buộc ông phải sử dụng đồng tiền của họ có khắc niên hiệu của hoàng đế nhà Thanh thay vì sử dụng tiền riêng của xứ sở. Song chuyện này không tồn tại lâu.
Sau khi tự xưng hoàng đế vào cuối tháng 11, Nguyễn Huệ nhanh chóng tập hợp khoảng 20.000 quân tiến thẳng ra Bắc. Ông ban bố một lời kêu gọi quân sĩ, gợi lại ký ức lịch sử về những người đi trước từng chống lại những đạo quân Tàu xâm lăng hùng hậu:
“Dưới thời Hán, có Hai Bà Trưng. Thời Tống có Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Thời Nguyên Mông có Trần Hưng Đạo. Thời Minh có Lê Thái Tổ, người sáng lập triều đại hiện nay.
Những vị anh hùng này không thể ngồi yên nhìn kẻ thù ngang nhiên dùng bạo lực và tàn ác với dân mình. Họ đã nghe theo ý nguyện của dân và giương cao lá cờ chính nghĩa”*.
Rõ ràng là vua Quang Trung tự xếp mình vào hàng ngũ những bậc anh hùng kia và ám chỉ rằng cuộc tấn công của ông vào quân Thanh cũng sẽ thắng lợi như thế. Lợi dụng lúc sắp đến ngày Tết nguyên đán, vị lãnh tụ Tây Sơn tính toán sao cho cuộc tấn công của ông trùng với ngày lễ tết. Ông suy luận chính xác rằng quân Thanh sẽ vui tết và sẽ không phòng bị trước cuộc tấn công của quân Tây Sơn, vốn đã để cho quân Thanh thấy họ rút lui trước đạo quân hùng hậu đến từ phương Bắc. Vua Quang Trung tập hợp đạo quân của mình lại và hứa với họ là việc mừng lễ tết của họ sẽ chỉ hoãn lại vài ngày và ngày mùng 7, họ sẽ vui tết trong thành Thăng Long. Vì vậy, vào những ngày đầu năm âm lịch (tháng 1-2 năm 1789), vua Quang Trung tổ chức một cuộc tấn công nhanh chóng tiêu diệt đạo quân Thanh không phòng bị. Hàng ngàn quân Thanh bị tiêu diệt trong ngày đầu của cuộc tấn công, phần lớn những kẻ còn lại bỏ chạy tán loạn, trong đó có nhiều tướng nhà Thanh. Bản thân vua Lê cũng bỏ chạy khi tin tức về cuộc tấn công đến tai ông, và ông nhanh chóng đi theo lộ trình sang Tàu. Như vị tư lệnh đã hứa, quân đội Tây Sơn vào thành Thăng Long sau chưa đầy 7 ngày.