← Quay lại trang sách

Chương II - 10 QUANG TRUNG CỦNG CỐ QUYỀN LỰC

Sau khi đã tự xưng hoàng đế trên lãnh thổ cũ của nhà Lê và đánh đuổi quân Thanh, Nguyễn Huệ đang ở vào một tư thế có thể củng cố hơn nữa quyền hạn của ông. Ông đã làm điều đó theo nhiều cách khác nhau - khôi phục mối quan hệ chặt chẽ với triều đình Trung Hoa, đặt nền tảng cho một trung tâm chính trị ở Nghệ An, và giành lấy sự ủng hộ và công nhận của giới nho sĩ có uy tín ở Bắc hà.

II.10.1. Tranh thủ sự công nhận của nhà Thanh

Một mặt, việc vua Quang Trung đánh bại quân Thanh là lời tuyên bố mạnh mẽ về tính hợp pháp về chính trị, vì sự bảo vệ đất nước chống lại quân xâm lược tạo được một tiếng vang rất lớn trong dân chúng cũng như trong các thành phần xã hội ưu tú liên quan đến việc tạo ra một thể chế chính trị. Trong lời phát biểu với đạo quân Tây Sơn trước khi mở cuộc tấn công quân Thanh, vua Quang Trung dẫn chứng hàng loạt những nhân vật anh hùng đã đi trước ông trong việc đánh bại quân phương Bắc. Một hành động như thế có lẽ là một nguồn lực mạnh mẽ nhất của sự hợp pháp hóa về mặt chính trị giúp khẳng định quyền lực ở Đại Việt. Mặt khác, và điều này có vẻ như là một sự nghịch lý, trong lúc việc đánh bại quân Thanh là một hình thức hợp pháp hóa có sức tác động mạnh mẽ trong nước, thì việc xoa dịu họ sau một thất bại như thế và nhận sự tuyên phong của triều đình Trung Hoa cũng là một hình thức công nhận về mặt chính trị không kém phần quan trọng. Đó cũng là trường hợp xảy ra từ những ngày đầu độc lập của nước Đại Cồ Việt vào thế kỷ X, sự giao hảo với triều đình phương Bắc là một điều tối cần thiết nhằm tự phòng bị trước khả năng người Trung Hoa có thể thực hiện các tham vọng quân sự mới.

Sau đợt rút quân ban đầu của người Thanh, vua Quang Trung thận trọng để không làm nhục họ một cách không cần thiết, ông đối xử tốt với những binh lính nhà Thanh bị bắt giữ và thu xếp cho họ về nước ngay, ông cũng bắt đầu trao đổi nhiều thư từ với người Trung Hoa (ông sử dụng danh sĩ Ngô Thì Nhậm như người bình bút riêng cho mình), trong đó, ông bày tỏ mong muốn khôi phục sự hòa hợp giữa hai nước và bắt đầu bình thường hóa các tương tác về ngoại giao và kinh tế*. Để đổi lại sự hợp tác của ông, vua Quang Trung yêu cầu nhà Thanh công nhận ông là vị vua hợp pháp của Đại Việt. Hoàng đế nhà Thanh có thể chọn cách tri hoãn việc ban vương hiệu cho ông và cố gắng tổ chức một cuộc xâm lăng lần thứ hai nhằm ủng hộ vua Lê. Song ông đã chọn cách đồng ý với yêu cầu của nhà vua Tây Sơn. Triều đình nhà Thanh cử một sứ bộ đến nước láng giềng phương Nam chính thức công nhận Nguyễn Huệ là người lãnh đạo nước "An Nam” - phong ông danh hiệu theo truyền thống của người Trung Hoa là An Nam Quốc Vương. Nhà Thanh sau đó còn công nhận Nguyễn Quang Toản, con trai của vua Quang Trung, là hoàng thái tử, người sẽ nối ngôi vua.

Sự công nhận này được tiến hành với sự thỏa thuận là tân vương nước Đại Việt sau đó sẽ thăm viếng triều đình Trung Hoa. Trước đây, chưa có một hoàng đế Đại Việt nào thực hiện một chuyến đi như thế, và vua Quang Trung cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, vào năm 1790, ông cử một sứ bộ sang nhà Thanh, với một người giống như ông đi thay. Hoàng đế nhà Thanh cảm thấy hài lòng với cuộc thăm viếng này, cư xử tốt với đoàn tùy tùng của Quang Trung. Mưu chước đó phản ánh nỗ lực của vua Quang Trung nhằm giữ một khoảng cách với người Trung Hoa, ngay khi ông tìm cách xoa dịu họ. Chẳng những vị hoàng đế Đại Việt không đi đến triều đình nhà Thanh, ông còn không bao giờ gặp bất cứ một sứ giả Trung Hoa nào đi đến vương quốc của ông. Thay vào đó, cử người đại diện tiếp họ, qua nhiều công văn, ông than phiền là hoàn cảnh chính trị hoặc những điều kiện di chuyển không thuận lợi trên đường từ Phú Xuân ra Thăng Long khiến cho ông không thể đích thân tiếp họ. Thật vậy, việc Quang Trung tiếp tục ở Phú Xuân là lý do thuận lợi để duy trì một khoảng cách vật chất với người Trung Hoa, ngay khi ông có thể kiểm soát lãnh thổ của mình ở khu vực miền Trung Đại Việt.

II.10.2. Xây dựng kinh đô mới: Phượng Hoàng Trung Đô

Sau khi đánh bại quân Thanh, Quang Trung là vị hoàng đế cai trị một lãnh thổ trải dài từ biên giới Trung Hoa về phía nam qua đèo Hải Vân. Điều này phù hợp với việc mở rộng chính quyền Lê-Trịnh lúc đỉnh điểm diễn ra vào năm 1775, khi cuộc tiến công của quân Trịnh được đẩy đi xa nhất*. Khi vua Quang Trung mở rộng lãnh địa của mình, ông không còn tập trung sự chú ý về phía nam - trung tâm Qui Nhơn do người anh kiểm soát - mà về toàn bộ lãnh thổ mới mẻ và phức tạp bao gồm kinh đô Thăng Long cũ của nhà Lê và cố đô Phú Xuân của nhà Nguyễn. Mặc dù ông đã bắt đầu đóng đô ở Phú Xuân, nơi ông tái thiết các đồn lũy và xây dựng cung điện riêng, ông vẫn quyết định là tốt hơn hết nên thiết lập một kinh đô hoàn toàn mới, nằm ở gần trung tâm của dải đất đang do ông kiểm soát. Nhận thức được nhu cầu tập trung căn cứ của mình, không có gì đáng ngạc nhiên khi ông chọn Nghệ An, nằm gần cách đều với hai trung tâm trên*, làm nơi xây dựng một kinh đô to lớn mới lấy tên là Phượng Hoàng Trung Đồ. Đó sẽ là kinh đô trung tâm, đưa hai kinh đô cũ của nhà Lê và nhà Nguyễn xuống hàng thứ yếu.

Nghệ An không đơn thuần là một vị trí thuận lợi về mặt địa lý, đối với nhà Tây Sơn, nó còn có sức thu hút mạnh mẽ về mặt tâm linh, vì đây chính là nơi tổ tiên của họ đã đặt chân đến từ thế kỷ XVII Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và đất Nghệ An về sau được một nho sĩ Bắc hà là Bùi Dương Lịch miêu tả như sau:

“Nhà Tây Sơn truyền đạt cho ấp Thái Lão (huyện Hưng Nguyên) dựng lên một ngôi đền thờ tổ tiên của họ để thờ cúng tại đây, bởi vì theo hồ sơ nhân khẩu, ấp Thái Lão nằm trong huyện Hưng Nguyên là quê nhà của tổ tiên của họ. Trong quá khứ, tổ tiên của họ đã đi lính ở phía nam, đóng tại Qui Nhơn. Năm đó, Nguyễn Huệ đã đánh chiếm miền Bắc, thắng trận và quay về Nghệ An”.

Vì thế, việc vua Quang Trung đóng đô ở Nghệ An sẽ được coi như ông quay về quê hương của tổ tiên. Một kinh đô ở Nghệ An sẽ tạo nên một trung tâm chính trị cũng như tinh thần của chế độ mới. Ông đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng đền miếu cho tổ tiên trong vùng, mô phỏng truyền thống thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc nhà Lê, cũng như của những dòng họ ít quyền thế hơn.

Mặc dù cái Phượng Hoàng Trung Đô do vua Quang Trung hoạch định đã không bao giờ hoàn thành, song ông cũng đã vạch ra những dự án lớn lao cho trung tâm chính trị mới của mình. Thành trì được xây dựng trên một con sông mà bên ngoài là thành phố Vinh ngày nay, với một đài chỉ huy có thể quan sát nhiều con sông và các dãy núi gần đó. Nó được thiết kế trên một qui mô rất lớn, biểu lộ quá những mảnh tường ngoài còn sót lại cao 20m và cho thấy có một cấu trúc rộng 300m và dài 450m2. Do kinh đô này chưa hoàn thành lúc sinh thời của ông, vua Quang Trung tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân, song rõ ràng là ông coi đó như trung tâm cuối cùng của triều đại của ông, vào lúc ấy cũng như trong tương lai. Được nghe kể rằng trong phút lâm chung của ông vào năm 1792, ông đã khuyên nhủ con trai là Nguyễn Quang Toản phải coi Nghệ An chứ không phải Phú Xuân là nền tảng của triều đại của ông này.

II.10.3. Quang Trung và các sĩ phu Đàng Ngoài

Một thành phần thứ ba trong tiến trình củng cố chính trị của vua Quang Trung bao gồm việc thể hiện thiện ý của ông đối với cộng đồng các sĩ phu Bắc hà. Với ông, những sĩ phu này tiêu biểu cho nhiều thứ. Trước tiên, sự ủng hộ hoặc đồng tình của họ dành cho ông sẽ là một hình thức hợp pháp hóa cần thiết đối với vị lãnh tụ Tây Sơn. Trong con mắt những nho sĩ này, tính hợp pháp rất quan trọng, bởi vì tầm cỡ của họ trong xã hội có thể giúp thuyết phục đông đảo quần chúng đi theo nhà Tây Sơn. Bằng vào mối quan hệ của họ với khu vực nông thôn, một khi các nho sĩ chịu phụng sự cho nhà Tây Sơn, người dân ở các huyện họ cư ngụ có thể cũng ủng hộ chế độ mới. Thứ đến, vị hoàng đế Tây Sơn cần những người này làm quan cai trị các lãnh địa mới được chiếm giữ và làm sứ thần sang Trung Hoa, nhất là sau khi đã đánh bại quân nhà Thanh. Cuối cùng, vua Quang Trung cần giới sĩ phu ở sự hiểu biết của họ về phương Bắc, với những vấn đề của nó, cùng cư dân trong vùng. Đây là một vùng đất mà các lãnh tụ Tây Sơn không nắm rõ, do họ đến từ vùng đất phía nam xa xôi. Như một hệ quả của nhu cầu được sự ủng hộ về nhiều mặt của giới sĩ phu, có vẻ như Nguyễn Huệ chịu nhiều ảnh hưởng của họ, thường xuyên làm theo những tri thức của họ và triết lý hiện hành.

Vua Quang Trung tuyển dụng những nho sĩ này theo nhiều cách khác nhau, trong đó có việc ban Chiếu Tìm Hiền Tài năm 1789 (?) nhắm trực tiếp vào những nho sĩ sống trong lãnh địa mới của ông. Vị hoàng đế cũng sử dụng những cách tiếp cận trực tiếp hơn nữa (và hiệu quả hơn), chẳng hạn như nhờ những người đã tham gia vào chế độ mới tuyển mộ bạn bè hay người ngang hàng với họ. Vị hoàng đế Tây Sơn nhận thấy rằng cách dễ dàng nhất để có được sự ủng hộ của kẻ sĩ Bắc hà là tranh thủ được sự hỗ trợ của vài gương mặt tiêu biểu, từ đó dẫn đến những người khác thông qua mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp của họ với nhau. Điều này chứng tỏ rất có hiệu quả vì kẻ sĩ Bắc hà đã hình thành một cộng đồng vô cùng gắn bó với nhau. Nhiều người trong số họ quan hệ với nhau qua hôn nhân, học chung trường, hoặc trở thành bè bạn khi đi thi hoặc trong lúc phục vụ các nhiệm sở khác nhau*. Trong nhóm những người kết nối chặt chẽ với nhau này, có nhiều sĩ phu Bắc hà quan trọng bậc nhất trong thế hệ của họ, là những người mà hoàng đế Tây Sơn hi vọng nhiều nhất vào việc lôi kéo họ vào guồng máy của ông. Nếu một trong những sĩ phu này bị phía đối nghịch tuyển dụng thì sẽ có nhiều khả năng những người có quan hệ với ông ta cũng bị thu phục.

Trong nhóm sĩ phu Bắc hà cốt cán, nhiều người tỏ ra đặc biệt quan trọng có thể góp phần vào nỗ lực tuyển dụng những người của vua Quang Trung. Trần Văn Kỷ(1740?-1801) là nhân vật quan trọng trong nỗ lực tuyển mộ của vua Quang Trung và sự ủng hộ của gần như toàn bộ các sĩ phu Bắc hà cốt cán có thể xuất phát từ nỗ lực trực tiếp hay gián tiếp của ông ta. Kỷ sắp xếp giới thiệu cho Nguyễn Huệ nhiều nhân sĩ nổi tiếng trong đó có Nguyễn Thiếp, một nhân sĩ được nhiều người biết tiếng nhưng sống ẩn dật ở Nghệ An, và sau đó là Ngô Thì Nhậm. Nhậm có mối quan hệ với nhiều sĩ phu Bắc hà quan trọng do có một thời gian dài ông ta phục vụ dưới trướng chúa Trịnh, thuộc dòng dõi danh tiếng, và ông có thể tuyển mộ nhiều tiến sĩ lỗi lạc cho nhà Tây Sơn bao gồm Phan Huy Ích, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Nha, Trần Bá Lãm, và Vũ Huy Tấn. Trong lúc phục vụ cho nhà Tây Sơn, Nhậm được biết đến như người chuyên soạn các chiếu chỉ cho vua Quang Trung, nỗ lực chiêu mộ các kẻ sĩ bạn của ông rất quan trọng đối với chế độ mới.

Khi lời hiệu triệu người dân hoặc những cuộc tiếp xúc cá nhân không đạt hiệu quả, vua Quang Trung chuẩn bị lực lượng. Chẳng hạn vào mùa xuân năm 1788, sau khi vua Lê trốn lánh khỏi kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ muốn hòa giải với các quan lại triều Lê để họ giúp ông điều hành các vấn đề chính trị ở phía bắc. Trong trường hợp này, ông đã tập hợp họ lại và theo một vài nguồn tư liệu, ông buộc họ ký một văn kiện thể hiện lòng trung thành với ông*. Họ đã làm điều đó, với ít nhiều tính tự nguyện, với hai ngoại lệ: nhà triết học và biên khảo Bùi Huy Bích giả ốm, không tham gia cuộc họp, và Nguyễn Huy Trạc (1733-1788), đỗ tiến sĩ năm 1769, đã uống thuốc độc tự tử. Từ thời điểm này, rõ ràng là triều đại Quang Trung đã áp đụng khá sớm mô hình cưỡng bách hợp tác đối với các nho sĩ Đàng Ngoài đang có thái độ miễn cưỡng. Trong trường hợp đặc biệt đó, cưỡng bách sự hợp tác của các nho sĩ đang cư trú tại Thăng Long tương đối dễ, họ có ít cơ hội trốn đi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, các nho sĩ còn có thái độ do dự bị lùng kiếm và bị cưỡng bách đi vào triều đình Tây Sơn. Những người được mời đến mà không đồng tình hợp tác sẽ có hai sự chọn lựa: hoặc tự sát, hoặc trốn đi. Chỉ có một nhóm nhỏ chọn cách thứ nhất, về sau, sử của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX là sách Đại Nam nhất thống chí đã vinh danh họ về quyết định họ đã chọn.

Đáp ứng với các chiếu chỉ, những lời kêu gọi cá nhân, hoặc là áp lực trực tiếp, nhiều nho sĩ Đàng Ngoài đã chọn cách phục vụ chính quyền mới của nhà Tây Sơn. Những người chọn cách tham gia vào chế độ mới đã làm thế vì nhiều lý do khác nhau, với nhiều mức độ cam kết khác nhau. Một số người đồng tình phục vụ với nhiệt tình thật sự đối với các chương trình hoạt động của nhà Tây Sơn, với kỳ vọng các chương trình này mang lại một trật tự chính trị và xã hội mới. Những người khác hợp tác với niềm tin rằng ý thức hệ Khổng giáo của họ đòi hỏi sự phục vụ vì công ích ở những người có khả năng phục vụ, ngay cả khi họ không tin chắc vào triển vọng thành công của chế độ mới*. Vẫn còn những người tham gia vào chế độ mới không vì những lý do nhân bản hay triết lý, mà vì những lý do thực dụng, ủng hộ điều mà họ xem như một quyền hành chính trị trên thực tế để tiếp tục nghề nghiệp của mình. Ý niệm thực dụng kể sau cùng có liên quan đến trường hợp Tuần huyện Trang. Sau khi phản bội chúa Trịnh là người đã trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn vào năm 1786, bất chấp việc người thầy của ông ta giao phó chúa cho ông ta chăm sóc, Trang đã giải thích hành động của ông ta bằng cách tuyên bố rằng: “Tôi không sợ thầy tôi bằng sợ những người phản loạn, và tôi không thể yêu chúa bằng yêu chính tôi”.

Tuy nhiên, phần lớn các nho sĩ Đàng Ngoài quyết định không phục vụ chế độ mới, một quyết định được thúc đẩy hoặc bởi lý do trung thành với chế độ cũ, hoặc vì những mối quan tâm thực tế hơn. Phần lớn những nho sĩ chọn con đường không phục vụ nhà Tây Sơn thường là ẩn dật, chờ tình thế thay đổi, một cách hành động phổ biến trong những thời kỳ biến động chính trị. Điều này khiến cho vua Quang Trung phải than vãn (qua bàn tay Ngô Thì Nhậm): “Than ôi, khi trời đất chẳng hanh thông, người tài đức đâu hết cả"*. Trong lúc một số nho sĩ ẩn dật hay về trí sĩ, những người khác không chấp nhận một mưu chước như vậy, cho dù vua Quang Trung kiên trì theo đuổi những trí thức nổi tiếng ở Đàng Ngoài. Một tác giả vào thời kỳ này đã miêu tả nỗ lực của hoàng đế Tây Sơn như sau: “ (Ông) cư xử với các nho sĩ mà không phân biệt người nam hay người bắc, tìm và hỏi thăm họ khắp nơi, từ hang cùng rừng thẳm đến bờ cây bụi cỏ”. Cách xác định này có lẽ không hoàn toàn mang tính ẩn dụ, mà phản ánh thực tế của việc Nguyễn Huệ tìm kiếm các nho sĩ đã giấu mình nơi rừng sâu hay hang động.

Cuối cùng, những nho sĩ tham gia vào chính quyền Tây Sơn, dù nhiệt tình hay miễn cưỡng, cũng đều rất quan trọng đối với vua Quang Trung, mang lại cho ông niềm tin rằng ông đang có được sự hỗ trợ thiết thực và khôn ngoan để cai trị vương quốc mới của mình. Ảnh hưởng của những nho sĩ này trong hoạt động chính trị của vua Quang Trung rất đáng kể. Dưới sự cố vấn của họ, đặc biệt của Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung thực hiện nhiều dự án, từ việc xét tuyển quan lại đến việc đề ra chương trình học dành cho hệ thống học đường do triều đình bảo trợ, kết hợp hài hòa cùng với một dự án lớn nhằm dịch các tác phẩm cổ điển bằng chữ Hán ra chữ Nôm. Thông qua những nho sĩ này, cũng chủ yếu từ Nhậm, vua Quang Trung ban hành các chiếu chỉ và thư từ trao đổi với triều đình Trung Quốc, Cho dù không thể thiết lập một cơ chế điều hành đầy đủ trước khi chính quyền nhà Tây Sơn bị lật đổ, giới trí thức Đàng Ngoài cũng đã định hướng nó bằng những cách thức đáng chú ý phản ánh quan điểm riêng và những mối quan tâm lâu dài của họ.