← Quay lại trang sách

Chương II - 11 TRUNG QUỐC VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ CỦA VUA QUANG TRUNG

Sau khi đã hành động một cách có hiệu quả để đảm bảo quyền lực chính trị của mình, trong đó có việc được nhà Thanh chính thức công nhận và được sự hỗ trợ của các danh sĩ tài năng, giúp ông tái lập bộ máy công vụ của chế độ cùng nhiều định chế khác, có vẻ như vua Quang Trung muốn chọn cho mình một tư thế nghỉ ngơi. Trên thực tế, từ đó về sau, ông vẫn ở kinh thành Phú Xuân, nhưng đến năm 1791, ông vẫn không ngừng vẽ ra những kế hoạch nhằm tranh thủ thêm sự nhân nhượng từ một triều đình nhà Thanh có vẻ như đang tỏ ra khiếp sợ*. Trong những nhân nhượng mà có vẻ như vua Quang Trung muốn có được từ phía Trung Quốc là trái tim của cô công chúa nhà Thanh. Cũng như mưu định của người anh trước đây từng tạo mối quan hệ hôn nhân với nhà Nguyễn* và cuộc hôn nhân sau này của chính Nguyễn Huệ với công chúa nhà Lê, một yêu cầu như thể là phương tiện để củng cố một mối quan hệ chính trị quan trọng. Nó cũng cần được xem một bước khác nữa hướng đến việc hợp pháp hóa người mới đến trong những cặp mắt hoài nghi của giới trí thức Đàng Ngoài. Cho dù việc thiết lập mối quan hệ chính trị thông qua hôn nhân là một nguyên tắc đã được biết đến từ lâu, việc vua Quang Trung xin kết hôn với công chúa nhà Thanh là chuyện chưa có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam. Có lẽ nó được xem như một chỉ dấu về việc hoàng đế Tây Sơn tin chắc rằng ông đã dọa dẫm vừa đủ để nhà Thanh phải lưu tâm đến một yêu cầu như thế*.

Táo bạo hơn nữa là kế hoạch của vua Quang Trung đòi nhà Thanh trả lại hai tỉnh lớn ở phía nam Trung Quốc là Quảng Đông và Quảng Tây. Sách Đại Nam liệt truyện chép rằng kế hoạch này xuất phát từ việc nhà Thanh không quan tâm tới sự phàn nàn của phía Đại Việt về một số quận huyện nằm ở biên giới mà họ cho rằng phía Trung Quốc đã chiếm của họ. Nếu người Trung Quốc không muốn trả lại hai tỉnh đó, vua Quang Trung hình như đã sẵn sàng lấy lại chúng bằng vũ lực. Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết rằng, thư của vua Quang Trung gửi nhà Thanh đòi hai tỉnh đơn thuần chỉ nhằm thăm dò phản ứng của người Trung Quốc, chứ không phải thực tâm muốn thế*. Tuy nhiên, hình như vị hoàng đế Tây Sơn bị lôi cuốn bởi một sự thôi thúc không mấy tầm thường, vì ông biết là phần lãnh thổ đó từng có lần thuộc về người Việt Nam và việc được nhận lại nó là một phần của sự phục hồi (hơn là mở rộng) một lãnh thổ cũ của người Việt. Như Alexander Woodside từng viết: “Nhằm khôi phục sự thống nhất ban đầu của Bách Việt, một truyền thuyết mà hai mươi thế kỷ của lịch sử chế độ quân chủ của Trung Quốc đã xóa sạch, vua Quang Trung đã đưa ra một quyết định có tính thúc ép đến mức vào khoảng thời gian trước khi ông qua đời vào năm 1792, triều Tây Sơn đã cho đóng những chiếc thuyền chiến khổng lồ để chuyển voi chiến đến Quảng Đông, như là bước đầu hướng đến việc tái chiếm Quảng Đông và Quảng Tây”.

Ở một mức độ nào đó, một cuộc tấn công của Đại Việt chống lại Trung Quốc có vẻ như là một cuộc tự sát, nếu như ta so sánh kích thước tương đối giữa hai nước và quân đội nằm trong tay họ. Logic tiềm tàng chi phối ý định của vua Quang Trung có lẽ được vạch ra từ vị thế chính trị của ông ở Đàng Ngoài. Sự tin tưởng của người xứ Đàng Ngoài vào vua Quang Trung phát xuất phần lớn từ việc ông bảo vệ đất nước Đại Việt chống lại cuộc xâm lược của quân nhà Thanh vào năm 1788. Chính hành động này, hơn bất cứ hành động nào, đã củng cố tầm vóc của ông trong con mắt của các nho sĩ Bắc hà cũng như trong quảng đại quần chúng, Chiến thắng quân Thanh của ông đã dứt khoát đưa ông vào ngôi đền của những anh hùng dân tộc - Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi - là những người đã bảo vệ đất nước chống lại người láng giềng phương Bắc. Ông gợi nhớ lại chiến công của những vị anh hùng này khi tập hợp quân đội tấn công quân Thanh và chiến công của ông rõ ràng đã kết nối thành tích của ông với thành tích của các vị anh hùng. Chỗ đứng của Quang Trung trên vũ đài quốc gia được xác định bởi chiến công của ông về mặt quân sự hơn là tầm nhìn chính trị của ông. Hình như là sau nhiều năm xa chiến trường, vua Quang Trung cần đến sự kích động và một sự tưởng thưởng hậu hĩnh từ một cuộc đối đầu quân sự khác. Thật vậy, cuộc xâm lăng có trù tính nhắm vào nhà Thanh chứng tỏ logic quân sự và chính trị được liên kết đến mức độ nào trong đầu óc của ít nhất một lãnh tụ nhà Tây Sơn. Ra đời như một mối đe dọa về quân sự đối với các nhân vật và cơ chế chính trị đương thời, trên nhiều phương diện, phong trào Tây Sơn là phản ứng về quân sự trước một tình hình đòi hỏi những giải pháp sâu rộng hơn về xã hội và chính trị.

Hình như vua Quang Trung cũng tin rằng người nhà Thanh đã tỏ ra sợ hãi trước quân đội của ông, sau khi ông đã đánh tan tác lực lượng của họ vào năm 1789. Thư của một giáo sĩ thời đó đã miêu tả tình hình lúc ấy như sau:

“Có vẻ vị hoàng đế nhà Thanh sợ hãi trước một Attila mới*, khi chỉ vài tháng sau đó, đã cử một sứ thần sang phong cho ông làm An Nam Quốc Vương, quên đi thanh danh và sự tổn thất hơn 40.000 hay 50.000 quân đã bị bạo chúa* tiêu diệt chỉ trong một trận đánh vào năm trước, một trận đánh mà quân Thanh được trang bị tận răng, nào gươm, nào súng và quân số nhiều hơn đối phương cỡ 10 chọi l*. Sự thật là trong con mắt mọi người, sứ bộ này không đáng tin tưởng đến mức người ta có lý khi nghi ngờ về những gì vị hoàng đế đã làm. Bản thân bạo chúa cũng không buồn rời Đàng Trong để được đăng quang tại kinh đô của chúng ta* và tự bằng lòng với việc cử một quan lại tầm thường thay thế mình, mặc trang phục, lấy danh nghĩa của người lãnh đạo và tự nhận là sứ thần”*.

Ngoài ra, theo sách Đại Nam thực lục , cuộc tiếp đón rất thân tình dành cho sứ bộ của vua Quang Trung vào năm 1790 càng khiến ông tin vào mối quan hệ này nhiều hơn. Có lẽ điều này dựa vào sự giải thích tình thế lúc bấy giờ là vua Quang Trung đòi nhà Thanh nhường cho hai tỉnh phía nam. Tuy nhiên, những kế hoạch lớn lao này không bao giờ thành hiện thực, vì vua Quang Trung đã qua đời vào cuối mùa hè năm 1792, ngay khi sứ bộ của ông đang trên đường đến Trung Quốc để trình bày những yêu cầu của ông. Khi các sứ giả Đại việt hay tin về cái chết của vị hoàng đế của họ, họ ngay lập tức quay về Thăng Long. Điều này đánh dấu sự kết thúc một kế hoạch táo bạo của Quang Trung, một kế hoạch chẳng bao giờ được hồi sinh dưới triều đại người kế vị ông.

Dù vị vua Tây Sơn có bị thúc đẩy bởi bất cứ yếu tố nào, kế hoạch thách thức người Trung Quốc chứng tỏ ông có tham vọng khẳng định tầm vóc chính trị của mình trong phạm vi lãnh thổ Đại Việt và trong mối quan hệ vô cùng quan trọng với Trung Quốc. Hình như ông đã rất thành công khi xác lập vị thế chính trị trong con mắt của cả người Việt lẫn người Trung Quốc, và chỉ có cái chết sớm của ông vào năm 1792, ở tuổi 40, mới làm chấm dứt ước vọng của ông muốn tạo lập cho dòng dõi của mình một triều đại mới mẻ và lâu đài. Mặc dù người con, người kế vị ông, là Quang Toản sẽ còn cai trị một thập niên nữa (một phần thời gian này có sự giám hộ của một phụ chánh), ước vọng chính trị của nhà Tây Sơn đã thực sự chết theo vua Quang Trung.