Chương III GIỚI NÔNG DÂN ĐỜI SỐNG DƯỚI CHÍNH QUYỀN TÂY SƠN
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.
-Sấm truyền của người Việt vào thế kỷ XVIII-
Những kẻ thô lỗ này xuất phát từ các dãy núi ở Đàng Trong, họ không biết gì về sự sắp đặt việc cai trị. Họ không mưu cầu việc gì khác ngoài cướp phá, và không buồn nghĩ đến những hậu quả tiếp theo. Họ lấy đi tất cả vàng bạc của vương quốc..., họ lôi nông dân ra khỏi các cánh đồng và cho đi lính; họ thiêu hủy phần lớn làng mạc, đánh thuế người dân và bắt dân làm lao dịch. Và điều gì đã xảy ra? Tất cả những điều tệ hại mà chúng tôi đã xác định nay vẫn còn tiếp diễn: nạn đói, dịch bệnh, cái chết của người và thú, và tất cả không có thuốc chữa.
Thư của giáo sĩ Pháp, 1789*.
Do các lãnh tụ Tây Sơn có mưu định hợp pháp hóa quyền lực chính trị của họ, họ bắt đầu thi thố cái quyền lực đó với những người dân mà họ đang kiểm soát. Khả năng kiểm soát những người dân này của chính quyền Tây Sơn rất cần thiết để đối phó với những mối đe dọa trước mắt mà họ phải đương đầu, từ việc tiếp tục cuộc chiến trên nhiều mặt trận đến việc di chuyển người dân ở những nơi mà sản xuất nông nghiệp bị thất thu nhiều. Chính quyền nhà Tây Sơn thường xuyên đưa ra nhũng yêu cầu nặng nề cho người dân sống trong lãnh thổ do họ kiểm soát, những yêu cầu phát sinh do chiến tranh tiếp diễn không ngừng, do sự phá hoại và những chi phí phải đài thọ. Trước hết là nhu cầu về nhân lực để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Thứ đến, do các lãnh tụ Tây Sơn thiết lập nhà nước riêng của họ, họ cần sức lao động để xây dựng những trung tâm chính trị mới và nhiều loại công trình công cộng. Cuối cùng, những người lãnh đạo chính quyền cần có các nguồn tài chánh để trả lương cho lính và thực hiện các chương trình khác của chính quyền, vì vậy họ cần bòn rút những khoản thuế do người dân đóng góp, cả hiện kim lẫn hiện vật.
Hậu quả của những yêu cầu này rất nặng nề, vì chúng thường gây ra sự gián đoạn các chu kỳ gieo hạt giống, cấy mạ và thu hoạch vụ mùa. Sự cưỡng bách quân sự, vốn chỉ áp dụng cho đàn ông, đã đẩy nhiều nông dân ra khỏi ruộng đồng của họ. Yêu cầu lao dịch nặng nhọc rơi cả vào đàn ông lẫn đàn bà. Trong lúc những lao dịch như thế thường chỉ đáp ứng yêu cầu của địa phương, cho phép mọi người vẫn còn được ở lại nông trại của họ, thời gian dành cho việc làm đường mới, xây dựng thành lũy mới, hoặc sửa chữa đê điều, hoặc thực hiện các dạng hạ tầng cơ sở nông thôn khác, tất nhiên là họ sẽ không còn thời gian cần thiết để cấy cày, trồng trọt. Chiến tranh kéo theo sự di chuyển của nhiều đạo quân dọc theo chiều dài đất nước phá hủy mùa màng, và cũng thường phá hủy những đường đê, những bờ ruộng lúa khi quân lính đi qua những khu vực không có đường đi hay đường đi còn thô sơ. Việc luân phiên vào quân đội hay bị trưng dụng làm lao dịch đã vượt ra ngoài khuôn khổ. Tất nhiên đối với vấn đề năng suất nông nghiệp, vào quân đội hay làm lao dịch đều có cùng một hậu quả như nhau, đó là những cánh đồng không có người chăm sóc, gìn giữ.
Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với giới nông dân thường xuyên gây ra sự đối chọi giữa những đòi hỏi của các lãnh tụ cuộc nổi dậy với nhu cầu của giới nông dân. Trong một thời gian dài, đặc biệt trong thời loạn lạc, mối quan hệ giữa những người cai trị và những người bị trị là một mối quan hệ phức tạp, một cuộc đấu tranh giữa một bên nhằm kiểm soát con người và tài nguyên thiên nhiên và một bên nhàm hạn chế những gì chính quyền có thể làm được. Mối quan hệ này càng phức tạp hơn khi thời tiết thất thường, khi xảy ra chiến tranh và với việc làm tệ hại của chính quyền. Lúc ban đầu, các lãnh tụ Tây Sơn chỉ hi vọng mở rộng số người để hình thành một đạo quân đủ chống lại nhà Nguyễn và tranh thủ thiện cảm của những người không thích đi lính. Một khi lực lượng quân nổi dậy bắt đầu chuyển thành một đạo quân chính qui vào năm 1775 - nó cần được thay đổi. Nó đòi hỏi một sự kiểm soát có hệ thống những người dân dưới quyền của mình. Để kiểm soát có hiệu quả, các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên kiểm tra dân số và phân loại những người dân của họ, áp đặt trật tự trong một xã hội mà nhiều nơi đã bắt đầu trượt khỏi tầm kiểm soát của chính quyền, về sau, các lãnh tụ cuộc nổi dậy đã có thể lợi dụng những người dân này để đưa họ vào quân đội hay làm lao dịch cũng như đóng thuế bằng tiền hay hiện vật.
Cho dù áp lực của hoạt động quân sự kéo dài trong thời Tây Sơn đã làm gia tăng một vài sự căng thẳng giữa người cai trị và người bị trị, có vẻ như những mô hình quan hệ như thế khá phổ biến vào nhiều thời kỳ trong lịch sử Việt Nam. Mục đích của tôi ở đây là sử dụng kinh nghiệm của nhà Tây Sơn để vạch ra những đặc điểm của thời kỳ phức tạp này, nhưng cũng nhằm gợi lên những loại động lực nào đã gây ra tai họa cho mối quan hệ giữa vua chúa và thần dân của họ xuyên qua lịch sử Việt Nam. Trong lúc nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo Tây Sơn và giới nông dân có tính cách đặc biệt hoặc khác thường, tác động chung của phong trào lên người nông dân là một phần của một mô hình cũ hơn nhiều. Cho dù phong trào có những biểu hiện bề ngoài như thế nào, thì từ cái nhìn tầm thường của người nông dân Việt Nam, thời kỳ Tây Sơn chỉ có tệ hại, đôi lúc tệ hại hơn rất nhiều.
Trong lúc về mặt vật chất, người nông dân có thể chống, và đã chống lại chính quyền mói bằng nhiều cách, thì họ cũng có thể sử dụng các phương tiện chống đối ít trực tiếp hơn, bao gồm các hình thức về mặt tâm lý. Do nhà Tây Sơn là một trong những kẻ thách thức các quyền lực chính trị vào cuối thế kỷ XVIII, sự hiện diện của nhiều người muốn nắm lấy quyền lực và sự thành bại của các chiến dịch quân sự cho thấy trên thực tế, người nông dân vẫn còn níu giữ hi vọng được cứu thoát khỏi cảnh ngộ khốn khổ của họ. Song không may cho họ, niềm hi vọng thường bị tiêu tan khi họ khám phá ra rằng những người mà họ nóng lòng mong đợi như các đấng cứu tinh cũng không khá hơn những chính quyền mà họ đã thay thế. Sau cùng, từ cái nhìn của giới nông dân, có vẻ như có ít cơ sở để phân biệt giữa chính quyền nhà Tây Sơn với các chính quyền Trịnh-Nguyễn.
Mối quan hệ phức tạp và thường có tính thù địch giữa người dân Đại Việt với các lãnh tụ Tây Sơn không giống bao nhiêu với cái nhìn lý tưởng hóa đối với nhà Tây Sơn thường thấy trong tác phẩm của các nhà viết sử Việt Nam đương đại. Việc thường xuyên nhắc lại cụm từ vô định hình “phong trào Tây Sơn” trong ngữ cảnh này là điều cần bàn lại. Chương này tách bạch chữ “Tây Sơn” - được sử dụng một cách quá rộng rãi - và nhận thấy là nó che giấu một sự phân hóa sâu sắc. Tôi rút ra kết luận rằng các chiến dịch quân sự nhiều và tàn bạo trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đáp ứng rất ít nguyện vọng của người nông dân hoặc những mục tiêu đặt ra so với những gì thuộc về tham vọng chính trị của các lãnh tụ phong trào. Người nông dân thời kỳ Tây Sơn là những kẻ lót đường* cho quân đội, là đối tượng của sự lao dịch, là nguồn tiếp tế và nguồn lợi tức cho phong trào. Những người đàn ông và đàn bà đó có thể nuôi ước vọng về một cuộc sống tốt hơn, điều này phản ánh trong sự ủng hộ đầy vẻ lạc quan của họ khi nhìn thấy những biểu hiện sớm sủa của cuộc nổi dậy, song những ước vọng đó sớm nhường chỗ cho một thực tế đầy thất vọng và theo những chứng cứ khả dĩ nhất, ít có người nông dân nào nhìn thấy một sự cải tiến đáng kể trong đời sống của họ phát xuất từ hành động của nhà Tây Sơn.
Khi tôi nhắc đến người nông dân trong chương này, tôi muốn nói đến trước tiên những người mà cuộc sống của họ tập trung vào sản xuất nông nghiệp trên một qui mô nhỏ (gia đình hay gia đình mở rộng); họ tiêu biểu cho đại đa số những người dân sống trên lãnh thổ Đại Việt vào thế kỷ XVIII. Để được thuận tiện, thành phần này cũng bao gồm những người có liên kết với nền kinh tế nông thôn tập trung vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nó không bao gồm những người mà nghề nghiệp có liên quan đến lãnh vực thương mại. Các nhà buôn ở nông thôn cũng như ở vùng duyên hải có những hoạt động rộng rãi, trong lúc kết nối với nhịp sống của khu vực thương mại, họ cũng bị tác động ngay lập tức của những yếu tố ngoài địa phương hay ngoài khu vực. Rõ ràng là có nhiều thành phần kinh tế nằm trong tầng lớp “nông dân” - như chính các lãnh tụ Tây Sơn đã miêu tả, song không may là nguồn tư liệu hạn chế hiếm khỉ cho phép chúng ta có được một sự phân biệt rõ ràng như thế.