← Quay lại trang sách

Chương III - 1 KIỂM SOÁT NGƯỜI DÂN

Mỗi khi các lãnh tụ Tây Sơn thiết lập một chế độ chính trị mới - vào năm 1775 ở Đàng Trong và năm 1788 ở Đàng Ngoài - họ tìm cách khẳng định quyền kiểm soát cư dân sống trên những lãnh thổ nằm dưới quyền hành chính trị của họ. Những nỗ lực này phản ánh nhu cầu quân sự và thuế khóa trước mắt, song chúng cũng là một phản ứng lại sự dịch chuyển của người dân và những xáo động do cuộc xung đột quân sự và sự rối loạn xã hội gây nên. Chiến lược kiểm soát dân chúng bắt đầu với việc điều tra dân số giúp chính quyền mới có được một số ý niệm về dân số và sự phân bố dân cư trên những lãnh thổ họ làm chủ. Một khi dân chúng đã được kiểm kê, cả hai chế độ của nhà Tây Sơn* thiết lập các hệ thống nhằm phân loại cư dân dựa vào tuổi tác hay tình trạng kinh tế để tính toán việc bắt lính, làm lao dịch, và các nghĩa vụ về thuế. Cuối cùng, ở Đàng Ngoài, vua Quang Trung khai triển một hệ thống thẻ căn cước duy nhất giúp nhà nước có thể theo dõi người dân khi họ đi ra khỏi làng mạc. Bằng những phương cách mà phần lớn đã được các vua chúa từng áp dụng, các lãnh tụ Tây Sơn toan tính kiểm soát những cư dân đã rời bỏ chỗ ở, không chỉ trong một thời gian ngắn ở Đàng Trong, do hậu quả cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà còn trong hơn một phần tư thế kỷ ở Đàng Ngoài, nơi những cuộc nổi loạn của dân, lụt lội và nạn đói kém đã đưa hàng chục ngàn người ra khỏi nhà cửa của họ.

III.1.1.Điều tra dân số

Phương tiện chủ yếu được các nhà lãnh đạo Tây Sơn sử dụng để kiểm soát dân chúng là sổ hộ khẩu. Thông tin thu thập được theo cách này rất cần cho việc hành thu thuế, xác định trách nhiệm lao dịch, và thông thường hơn nữa là để có một nhận thức về nhân khẩu trong địa hạt. Như Phan Huy Chú đã nhận định vào đầu thế kỷ XIX: "Để được lợi từ ba cõi (Thiên, Địa, Nhân), người ta phải hiểu có bao nhiêu người sẵn sàng phục vụ cho xứ sở để không phải lo không đủ người”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của những thông tin như thế, các vua chúa Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra dân số từ ít nhất vào giữa thế kỷ XI, khi mới vừa lấy lại nền độc lập. Cho dù họ thường xuyên tiến hành việc kiểm tra này, quãng cách giữa các lần kiểm tra và tính hiệu quả của chúng thay đổi qua nhiều thế kỷ, phản ánh hoàn cảnh chính trị và xã hội cùng sức mạnh tương đối của một vua chúa nào đó.

Ở Đàng Ngoài, vua Lê-chúa Trịnh tiến hành định kỳ việc kiểm tra dân số, đôi lúc không có hệ thống, song cuộc kiểm tra cuối cùng tương đối chính xác được tiến hành vào năm 1658. Các biến động vào thế kỷ XVIII, trong đó có tình trạng rối ren của nửa thế kỷ bất ổn trong dân chúng, hậu quả của những năm đói kém và chết chóc tràn lan, đã khiến cho sổ bộ dân còn sống do các viên chức làng xã hoặc chính quyền trung ương làm ra trở nên sai lạc rất nhiều. Vì thế, vào năm 1773, sau khi cuộc nổi dậy quan trọng cuối cùng của người dân đã bị đàn áp, chúa Trịnh muốn xem lại và cập nhật hóa các số liệu kiểm tra. Kế hoạch đó bị thất bại hoàn toàn khi gặp phải sự chống đối bền bỉ và rộng khắp buộc triều đình phải ngưng nỗ lực này. Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng thực hiện những cuộc kiểm tra định kỳ tương tự nhằm mục tiêu thuế khóa và bắt lính, tình trạng hệ thống quản lý hồ sơ khá tốt. Một cuộc điều tra dân số có hệ thống vào năm 1769 là một phần nỗ lực của chính quyền nhằm tăng thu thuế và, như chúng ta đã nhận thấy trước đấy, đó là nguồn gốc chủ yếu gây ra sự bất mãn trong dân chúng. Chỉ được cập nhật hai năm trước khi nổ ra cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, nên số liệu về dân số thời Nguyễn cũng chỉ được xác định vào ngày tháng khi cuộc nổi dậy mới bắt đầu.

Mặc dù chưa rõ cuộc kiểm tra dân số đầu tiên của nhà Tây Sơn diễn ra vào lúc nào, lời tuyên bố của Nguyễn Nhạc vào năm 1775, rằng cứ 5 dân làng thì phải có một người sung vào lính, cho thấy là nhà lãnh đạo Tây Sơn đã nắm đươc các sổ sách hành chánh hiện hành của nhà Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục còn chép rằng vào năm sau, Nhạc buộc người dân sung vào quân đội dựa vào danh tánh được ghi trong sổ bộ (hào) ở các làng mạc quanh Qui Nhơn, chứng tỏ rằng ông ta kiểm soát được ít nhất một số sổ bộ về dân số. Tuy nhiên, phải chờ đến năm 1784, chúng ta mới có được báo cáo đầu tiên về kiểm tra dân số do chính quyền của Nguyễn Nhạc tiến hành. Giám mục Pháp Pigneau de Béhaine đã viết vào tháng 3.1785 rằng khi ông rời Đàng Trong vào tháng 8.1784, nhà Tây Sơn đang tiến hành một cuộc kiểm kê dân số nghiêm ngặt, và nhiều người dân đã trốn khỏi làng mạc để tránh bị kiểm kê. Năm sau, Nguyễn Nhạc ra lệnh tiến hành một cuộc kiểm tra khác, ít bao quát hơn. Lần kiểm kê này đặc biệt nhắm vào người Việt theo Cơ Đốc giáo. Với mối quan tâm về lòng trung thành chính trị của người Cơ Đốc giáo trên lãnh thổ của mình, Nhạc ra lệnh ghi danh họ để hoặc đánh thuế họ hoặc buộc họ phải bỏ đạo. Trong lúc việc kiểm kê này chỉ bao gồm một phần dân số Đàng Trong là những người Việt theo Cơ Đốc giáo, đối tượng của nó là một thành phần dân chúng rất dễ bị tổn thương và dễ dàng bị khai thác về mặt tài chánh hay lao động.

Tiếp theo cuộc đánh chiếm lãnh thổ phía bắc vào năm 1786, nhà Tây Sơn mở rộng việc áp dụng những phương cách như thế ở vùng này. Những năm 1787 hoặc 1788, có vài thời điểm nhà Tây Sơn bắt đầu lập danh sách người dân sống ở phía bắc Đàng Trong, tức lãnh thổ cũ của nhà Nguyễn mà họ đã lấy lại từ tay họ Trịnh vào năm 1786. Rồi khi Nguyễn Huệ đã nắm lấy quyền bính từ tay nhà Lê vào cuối năm 1788, nỗ lực này được đẩy ra Đàng Ngoài. Nhà lãnh đạo Tây Sơn hi vọng phục hồi trật tự và ổn định ở Đàng Ngoài bằng cách biến những người dân di trú thành những người sống yên một chỗ, và làm như thế để phục hồi nền kinh tế nông nghiệp đã bị gián đoạn một thời gian dài. Với mục tiêu này trong đầu, vào tháng tư năm Kỷ Dậu (tháng 4-5, năm 1789), vua Quang Trung “cho điều chỉnh các sổ bộ về tình trạng pháp lý” của dân chúng như là bước khởi đầu của một cuộc kiểm kê dân số rộng lớn hơn. Đầu năm sau, ông ban bố một chỉ dụ trong đó có đoạn sau “Trong tất cả các trấn từ phía bắc sông Linh Giang, các phủ, huyện phải nỗ lực ghi chép số dân làng phân theo hạng”. Trong cùng năm này, ông ban bố một chỉ dụ khác liên quan đến việc đánh thuế, phân loại dân chúng, và chi tiêu của các làng xã, theo đó, trách nhiệm gìn giữ các sổ bộ được giao cho các làng xã. Làng xã tiếp tục trả thuế dựa vào sổ bộ hiện có, thuế suất chỉ giảm nếu xã trưởng chính thức xác nhận cư dân đã qua đời.

Có lẽ vào khoảng thời gian trên, vua Quang Trung ban hành một chỉ dụ - dù không được xác định ngày tháng - nhắm trực tiếp vào cuộc khủng hoảng nông nghiệp. Với văn kiện này, ông mô tả những vấn đề phát sinh do cuộc sống rày đây mai đó của người dân trong những năm xáo động, dẫn đến sự sa sút của sản lượng nông nghiệp và gia tăng nỗi lo đói kém. Vị hoàng đế ước tính rằng có lẽ chỉ 40% đến 50% dân số được ghi sổ là còn ở tại chỗ, và chỉ có một tỷ lệ tương tự đất nông nghiệp là đang được canh tác. Chỉ dụ kêu gọi các xã trưởng, trưởng thôn ấp tiến hành cuộc điều tra về nhân khẩu và đất đai và ghi số liệu vào sổ bộ làng rồi trình cho các quan lại nhà Tây Sơn xem xét. Cuối cùng, chỉ dụ yêu cầu mọi người dân đã rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn hãy quay lại làng mạc và tiếp tục lại công việc đồng áng. Mục tiêu của chính sách này rõ ràng là có hai phần: phục hồi sản lượng nông nghiệp để hỗ trợ cư dân Bắc hà, và đưa dân chúng trở về làng quê, nơi họ có thể được kiểm kê và nhà nước có thể kiểm soát họ một cách hữu hiệu. Cho dù theo quan điểm của người nông dân, sự gia tăng mức độ kiểm soát của chính quyền được coi như một bước thụt lùi, song chỉ dụ đã có hiệu quả tức thì khi nhắm vào việc cải tiến sự ổn định xã hội, giúp khôi phục hoạt động nông nghiệp.

Năm 1792, một thời gian ngắn trước khi qua đời, vua Quang Trung ban lệnh thực hiện một cuộc điều tra dân số có tính hệ thống hơn, lưu ý rằng những nỗ lực trước đây đã hoặc không thành công, hoặc không đầy đủ. Tác giả Bùi Dương Lịch đã mô tả những vấn đề về sổ bộ dân số vào thời đó như sau:

“Sổ đinh lập từ năm Nhâm Dần (1722) đời Lê cũ đến nay đã sáu bảy mươi năm, hộ khẩu nơi đông thêm, nơi hao hụt, khác nhau rất nhiều, nên thuế khóa, sai dịch không đều. Đến năm Quý Tỵ (1773), ban chỉ làm lại, nhưng dân thì cương ngạnh, quan thì ăn hối lộ, không làm xong được, sau đó lại phải theo sổ cũ. Đến bấy giờ, Tây Sơn hạ lệnh cho dân xã các nơi phải mở sổ của thôn ấp"

Khi mệnh lệnh của nhà Tây Sơn được ban bố, một cuộc điều tra dân số diễn ra và một giáo sĩ đã mô tả là việc này được tiến hành nghiêm túc nhất, trùng khớp với mọi người dân trong độ tuổi từ 9 đến 70 tuổi. Các số liệu kiểm tra sau đó được dùng áp dụng cho cả việc thu thuế lẫn nghĩa vụ quân sự.

Cuộc điều tra dân số cuối cùng của nhà Tây Sơn mà chúng tôi có được chứng cứ đã diễn ra vào năm 1801, dưới triều Nguyễn Quang Toản, là con, cũng là người kế vị vua Quang Trung. Việc kiểm kê này là một phần trong công cuộc tái cơ cấu rộng lớn hơn đang được nhà Tây Sơn tiến hành. Nỗ lực này khởi đầu vào năm 1800 với việc thay thế niên hiệu Cảnh Thịnh bằng niên hiệu Bảo Hưng, một sự thay đổi được dự liệu nhằm làm trẻ lại một chế độ đang sa sút trước những cuộc tấn công của chúa Nguyễn* và đang có nguy cơ thất thủ kinh thành Phú Xuân. Đó cũng là thời kỳ mà sự bất bình của dân chúng đối với nhà Tây Sơn đang tăng cao ở những trấn phía bắc, số vụ nổi loạn qui mô nhỏ cũng nhiều hơn, do chúng được khích lệ bởi hi vọng lực lượng của chúa Nguyễn sắp ra tới. Không rõ là cuộc điều tra dân số mới của nhà Tây Sơn có phải là một cuộc đổi mới chính quyền của họ hay không. Có điều rõ ràng là cuộc điều tra đó được phác họa trong điều kiện ngay cả việc kiểm kê dân số cũng không ghi nhận được ai đã đi khỏi làng xã của họ. Căn cứ vào cuộc điều tra này, những ai không có tên trong sổ bộ làng được coi là thuộc thành phần các phong trào chống Tây Sơn.

Dù có thể gặp nguy hiểm, song các làng xã vẫn tìm cách ngăn trở các nỗ lực của chính quyền (Tây Sơn) muốn có một dân số chính xác. Dân làng và các viên chức làng xã biết rất rõ rằng họ sẽ có lợi nhất khi ghi dân số (trong làng) ở mức thấp nhất để bảo vệ họ trước những yêu sách của chính quyền. Do mỗi làng có trách nhiệm chung phải đáp ứng yêu cầu về thuế má và bắt lính do chính quyền Tây Sơn đề ra, cư dân của họ sẽ có lợi khi lừa dối chính quyền trung ương. Vì thế, nhiều làng mạc ở phía bắc tìm cách giảm thiểu nghĩa vụ quân sự và thuế má bằng cách khai ít đi số cư dân của họ*. Giữa cuộc điều tra dân số năm 1801, một giáo sĩ Pháp ghi rằng những ngôi làng có thể báo cáo ít hơn dân số thật của họ cần phải có một lập trường vững chắc để có thể tồn tại trước những yêu sách của chính quyền. Từ sự miêu tả của giáo sĩ trên, rõ ràng tiến trình này không chỉ đơn thuần là một kiểu lừa bịp về dân số mà đúng hơn là sự báo cáo hạ thấp dân số thật. Chẳng hạn như ngôi làng nơi ông ta ở có dân số thực gần 300 người nhưng chỉ được báo cáo có 10% con số này. Rõ ràng là nếu một làng xã có thể báo cáo một con số vô cùng sai lạc như vậy, cư dân của họ sẽ ở vào một vị thế tốt hơn nhiều so với nhà nước. Điều không thể nghi ngờ là chính quyền nhà Tây Sơn cũng cảnh giác trước những dối gạt như vậy và đã thận trọng ngăn ngừa chúng, nhưng trong phần lớn những trường hợp như vậy, họ không có nhiều thẩm quyền buộc làng xã đưa ra những con số chính xác, một việc đòi hỏi phải có sự hợp tác của địa phương.

III.1.2. Phân loại dân chúng

Như người nông dân được kiểm kê dưới chính quyền Tây Sơn, dân chúng cũng được phân loại, tiếp tục một việc làm mà các triều đại trước đã thực hiện. Chẳng hạn như triều Lê-Trịnh đã áp dụng cơ chế phân loại, theo đó các loại hạng được thiết lập tạo nên thứ bậc của người dân thường trong làng xã. Hệ thống này được vua Lê Thánh Tông đưa ra năm 1470, chi tiết được giải thích rõ ràng trong bộ luật Hồng Đức. Theo bộ luật này, dân làng khi đến tuổi 18 sẽ được ghi tên vào sổ bộ làng và phân loại nhằm vào mục đích đánh thuế và bắt lính. Những ai không chịu ghi tên có thể bị trừng phạt bằng cách sung vào lính. Dân làng được phân chia hạng, loại như dưới đây:

Tráng hạng: thanh niên và người trưởng thành, đối tượng của nghĩa vụ quân sự.

Quân hạng : thanh niên và người trưởng thành, đối tượng của binh lính dự bị.

Dân hạng: dân chúng nói chung.

Lão hạng: người từ 50 đến 60 tuổi.

Cố hạng: người lao động ăn lương không có đất.

Cùng hạng: người bần cùng.

Nhà Nguyễn cũng phân loại dân của họ tương tự như thế, dù họ có bổ sung hai hạng dân là tàng tật và đào*. Các hạng này áp dụng trong các khu vực hay làng xã đặc biệt, nhấn mạnh vào hai hạng đầu tiên, trong đó con số thanh niên cố định được đánh dấu cho nghĩa vụ quân sự tại ngũ hay dự bị. Việc phân loại, hạng những người cá biệt có khác nhau, tùy thuộc vào tình hình địa phương ở một làng xã nào đó hoặc tùy vào từng địa điểm*. Ngoài ra, về mặt lý thuyết, luật lệ của nhà Nguyễn quy định rằng những số liệu cần được cập nhật thường xuyên, mỗi ba năm một lần thường thức và mỗi sáu năm một lần bao quát hơn.

Chính quyền Tây Sơn cũng phân loại dân dựa vào tuổi tác, rõ ràng là dựa vào cách làm của nhà Nguyễn và họ Trịnh trước đó. Có những chỉ dấu cho thấy hoàng đế Thái Đức sử dụng cùng một hệ thống, vì lịch sử nhà Nguyễn thế kỷ XIX cho biết là sổ bộ về dân số của nhà Tây Sơn trong lãnh địa của họ đã sử dụng ít nhất các hạng lão hạng và lão nhiêu là hai hạng cuối cùng dựa vào tuổi tác. Điều này cho thấy rằng vua Thái Đức tiếp tục sử dụng sổ bộ làng xã cũ mà ông ta đã tịch thu được, trong đó có hệ thống phân loại của nhà Nguyễn mà các sổ bộ đó đã áp dụng. Đáng tiếc là không có thông tin nào về việc vua Thái Đức sử dụng cơ chế này và trong điều kiện tốt nhất, có thể phỏng đoán rằng ông tiếp tục sử dụng hệ thống hiện hành của nhà Nguyễn dưới một hình thái không thay đổi.

Chúng ta có nhiều chi tiết hơn liên quan đến việc vua Quang Trung thực hiện cơ chế này trong lãnh địa phía bắc của ông. Ở vùng đó, dân chúng được phân loại theo cách dưới đây:

Vị cập: những người từ 9 đến 17 tuổi.

Tráng hạng: những người từ 18 đến 55 tuổi.

Lão hạng những người từ 56 đến 60 tuổi.

Lão nhiêu: những người từ 61 tuổi trở lên.

Nhiều yếu tố trong sự sắp xếp phân loại này rõ ràng là khởi đầu từ phương thức của hai họ Trịnh-Nguyễn. Điều hiển nhiên nhất là hệ thống mới này được hợp lý hóa, làm giảm số hạng còn có bốn. Thứ đến, hệ thống phân loại được đơn giản hóa này đã triệt tiêu cách xếp hạng dựa vào tình trạng không có ruộng đất và những biểu hiện khác của sự nghèo đói, mà chỉ nhắm chủ yếu vào tuổi tác. Một điều cũng đáng ghi nhận nữa là trong kế hoạch của nhà Tây Sơn, có một thành phần mới được bổ sung dành cho những người dưới 18 tuổi. Trong những cách phân loại trước đây, người dân chỉ được ghi tên vào sổ bộ khi được 18 tuổi. Nay một nỗ lực đã được thực hiện để ghi tên những người mới lên 9. Có thể đây là mưu định nhằm ngăn chặn tình trạng người dân thoát khỏi sự kiểm soát của nhà nước, bằng cách ghi tên họ vào sổ bộ từ rất sớm. Nhưng rõ ràng điều này cũng được thúc đẩy bởi ý định mở rộng số người mà chính quyền mới có thể gọi họ sung vào lính hay làm lao dịch. Vì vậy, trên thực tế, mọi người nằm trong độ tuổi 9 và 55 tuổi đều là những đối tượng tiềm năng của nghĩa vụ quân sự, qui định cứ ba người thì có một người tại ngũ và cứ 7 dân làng thì có một người đủ tiêu chuẩn đi lính*. Hình như nhà Tây Sơn coi những người trẻ là một nguồn lực quan trọng, và chúng ta sẽ thấy rằng họ định kỳ được sử dụng trong quân ngũ và trong những dự án lao động khổ sai*.

III. 1.3. Thẻ căn cước

Một khi dân chúng đã được kiểm kê và phân loại xong, chính quyền Tây Sơn tìm cách kiểm soát các hoạt động của họ và cột chặt họ vào gia đình hơn. Bước đầu tiên hướng đến những biện pháp như vậy ở Đàng Ngoài được một giáo sĩ Pháp đề cập đến vào năm 1788. Ông ta viết rằng tất cả du khách đều được yêu cầu phải có một thẻ căn cước nếu họ muốn đi khắp cả nước. Thêm vào đó, mỗi làng được lệnh xây dựng hai hay ba văn phòng để ghi tên khách bộ hành đi ngang qua, từ đó tạo ra một phương cách giúp qui định việc đi lại trong nước cũng như thu thập các số liệu về dân số. Hệ thống này không được nói đến trong các nguồn tài liệu khác, có vẻ như đã không được thiết lập một cách rộng rãi.

Ngay sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi Quang Trung hoàng đế, và cùng với một trong những cuộc điều tra dân số theo lệnh của ông, ông thực hiện một nỗ lực có tính hệ thống và mạnh mẽ hơn nhằm áp đặt sự kiểm soát lên mọi người. Giống như hệ thống có trước, hệ thống này nhằm sử dụng thẻ căn cước cá nhân do hoàng đế Tây Sơn thực hiện như một phương tiện theo dõi và kiểm soát hoạt động của dân chúng và dễ dàng nhận biết những làng xã mà họ thống thuộc. Những tài liệu này được gọi một cách thông tục là tín bài, do câu chữ ghi trên đó là thiên hạ đại tín. Một nguồn tư liệu về sau đã miêu tả hữu ích về những thẻ này và cách vận hành của hệ thống:

“Mỗi người sẽ có một thẻ, trên đó khắc mấy chữ ‘Thiên hạ Đại tín’ và một con dấu chính thức. Trên 4 cạnh của thẻ, người ta ghi tên, họ, lai lịch người đeo và dấu chỉ tay ngón cái bàn tay trái... Khi đi ra ngoài, người dân phải luôn mang theo thẻ, và nếu xảy ra trường hợp xét hỏi, họ phải lấy ra trình. Thẻ đó được gọi là ‘tín bài’ Và nếu một người không có thẻ thì... người dân được phép xem và hiểu điều đó. Sự kiện này được báo cáo và người không có thẻ sẽ bị bắt giữ và sung vào quân đội”.

Hệ thống thẻ căn cước là một sự đổi mới về phía nhà Tây Sơn: có vẻ như nó chưa có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam. Nó là một phần trong kế hoạch có tính hệ thống nhằm áp đặt sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước lên cá nhân người dân hơn là sự thực hành có tính qui ước quyền lực của nhà nước diễn ra một cách rộng rãi ở cấp làng xã. Chính thể mới nhấn mạnh rằng mọi người dân đăng ký với nhà nước và mang thẻ đăng ký, và qui định rằng ai không có một thẻ như thế và không xuất trình khi được yêu cầu sẽ lập tức bị bắt vào quân đội Tây Sơn.

Sách Hoàng Lê nhất thống chí đưa ra giả thuyết rằng những thẻ đó là một phần trong sự chuẩn bị kế hoạch xâm lược Trung Quốc của vua Quang Trung*. Tuy nhiên, một tài liệu khác là sách Tây Sơn thuật lược cho là chính sách thẻ tín bài đã được phác họa bởi Ngô Thì Nhậm, một danh sĩ và là cố vấn của vua Quang Trung. Nếu điều này đúng thì nó cho thấy rằng chính sách đó là một công cụ dùng để kiểm soát dân chúng hơn là một phương cách tăng cường việc bắt lính. Trong lúc không có một chỉ dấu nào cho thấy Nhậm có một tham vọng quân sự, ông rất quan tâm đến những người sống lang thang, một vấn đề mà ông đã kiến nghị với chúa Trịnh vào thập niên 1770. Một hệ thống như thế sẽ giúp hoàn thành mong muốn của ông đặt người dân dưới sự kiểm soát. Thật vậy, nếu hệ thống thẻ căn cước là một sáng tạo của Nhậm thì có thể ông đã được gợi ý từ sách Chu Lễ, một tác phẩm có từ thời tiền đế chế Trung Hoa mô tả những hệ thống các tư liệu nhận dạng để kiểm soát hoạt động của người dân.

Dù xuất phát từ đâu hay mục tiêu ban đầu như thế nào, rõ ràng là những thẻ nhận dạng như thế có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, ngay cả khi tác dụng đáng lưu ý nhất của nó là nhằm dọa dẫm cư dân Bắc hà. Bất kể mục tiêu của chúng là gì, thẻ căn cước rất không được dân chúng ưa thích và họ chỉ mang theo một cách rất miễn cưỡng. Như một tài liệu có miêu tả, chỉ có nỗi sự hãi mới khiến người ta bằng lòng mang theo thẻ: “Lúc ấy nhân dân sợ oai dữ của Huệ, cùng đưa nhau ra lãnh [thẻ] tín bài”. Một giáo sĩ Pháp viết rằng hệ thống này có tác dụng khiến người dân không muốn rời khỏi làng xã của họ vì sợ bị hỏi thẻ căn cước và có thể bị bắt đi lính. Sách Hoàng Lê nhất thống chí mô tả một phản ứng đối nghịch: dân chúng rời bỏ làng mạc và trốn vào vùng đồi núi để tránh phải mang thẻ và trình thẻ khi bị hỏi đến. Một nhân chứng khác cho biết dân chúng phẫn uất vì thẻ căn cước đến nỗi nhiều lần họ đứng lên làm loạn và bị lực lượng hùng mạnh của nhà Tây Sơn đập tan. Sự thù nghịch đó là điều không khó hiểu, vì hệ thống này, ít nhất về mặt lý thuyết, có một ảnh hưởng rất rộng, đạt đến một trạng thái mới, khiến người dân dễ bị nguy hiểm trước chính quyền và không dễ gì che giấu trước các quan lại. Sự thù nghịch kéo dài của người dân đối với hệ thống thẻ tín bài đã khiến cho chính quyền Tây Sơn xét lại và một thời gian ngắn sau cái chết của vua Quang Trung vào năm 1792, hệ thống thẻ tín bài bị bãi bỏ bởi tân quân là vua Cảnh Thịnh, ông cũng ngưng hẳn việc bố ráp những kẻ sống lang thang.*