← Quay lại trang sách

Chương III - 4 CÁC HÌNH THỨC PHẢN KHÁNG CỦA DÂN CHÚNG: XEM CÁC LỜI TIÊN TRI, CÁC ĐIỀM BÁO, VÀ CÁC CỨU TINH

Mặc dù lúc đầu các lãnh tụ nổi dậy của nhà Tây Sơn mô tả phong trào của họ như một hành động phản kháng ồ ạt chống lại các mô hình chính trị và kinh tế đang phát triển ở Đàng Trong, song việc phong trào hướng về một chính quyền chính thống, cùng với những đòi hỏi lớn lao và phiền hà gây ra cho người dân sống dưới sự kiểm soát của họ, cuối cùng lại kích động sự phản kháng chống lại chính các lãnh đạo nhà Tây Sơn. Các hình thức phản kháng thay đổi rất nhiều và có mức độ phức tạp khác nhau. Các tài liệu còn lưu hành chỉ cho phép chúng ta có một cái nhìn hạn chế về sự phản kháng bằng bạo lực. Tôi có dịp viết về sự đào ngũ trong quân đội Tây Sơn và trong các nhóm lao dịch, cũng như sự vận dụng thuế khóa và sổ bộ dân cư và mấy cuộc nổi dậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, cùng sự chôn giấu các vật thiêng liêng. Cũng có nhiều bản tường thuật về những làng xã ở Đàng Ngoài dựng chướng ngại vật lên để chống lại các lực lượng từ bên ngoài, khẳng định tính tự trị theo truyền thống xưa, mặc cho nhà nước bòn rút lợi lộc cùng những khoản đóng góp khác*. Những trường hợp này cho thấy người nông dân mưu toan chống lại nhà Tây Sơn theo nhiều cách, cho dù hiệu quả của chúng thay đổi rất nhiều.

Ngoài việc công khai phản kháng, người nông dân (và những người ưu tú trong xã hội) Việt Nam cũng có thể làm điều được gọi là sự thách thức tâm lý. Sự thách thức này bao gồm việc nhắc đến những lời tiên tri và những điềm báo tự nhiên, nhưng cũng bao gồm những hình thức ám chỉ khác hay phản kháng bằng lời nói. Những dạng thách thức này tạo nên một địa hạt tư tưởng độc lập giúp cho người nông dân - và một số lượng đáng kể những người ưu tú trong xã hội - tự kiểm soát được phần nào trước những thế lực áp chế đời sống của họ và chia sẻ với những khó khăn của chính quyền Tây Sơn. Nỗ lực sử dụng các lời tiên tri hay điềm báo để xác định những việc sẽ xảy ra trong tương lai thường đưa đến kết quả với nhiều cách giải thích khác nhau, đặc biệt với những lời tiên tri. Song đây mới đúng là vấn đề: con người có nhận thức về những gì xảy ra quanh mình và thường thay đổi cách đọc các dấu hiệu để phản ánh đúng sự biến đổi của hoàn cảnh. Sự tồn tại của những dấu hiệu, những lời tiên tri, những điềm báo này không phải là những phương tiện giúp hiểu được diễn biến cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà là cách để hiểu trạng thái tâm lý của người dân trong một thời đại có quá nhiều bất ổn.

Có một vấn đề cố hữu khi coi các dấu hiệu hay lời tiên tri như là chứng cứ hiển nhiên về sự sáng suốt của những người giải thích chúng. Cuối cùng, nhiều tài liệu ghi chép lại những lời tiên tri đó để lùi ngày tháng xảy ra sự việc đã được đoán hay lường trước. Cố nhiên, những tiên đoán chính xác (hay nói đúng hơn là sự giải thích chính xác những lời tiên đoán đó) được ghi nhận trong những tài liệu biên niên của tư nhân hay nhà nước. Chúng tôi không nghe nói về những lời giải thích khác, những lời giải thích tồn tại bên cạnh những giải thích này và chưa từng xảy đến. Dù cho có sự báo trước, những bài viết về nỗ lực tìm hiểu các dấu hiệu siêu nhiên quan trọng cho thấy con người vào thời kỳ này đã hiểu về thế giới của họ như thế nào. Nhiều nguồn tư liệu miêu tả những dấu hiệu và lời tiên tri này ra đời vào cuối đời Tây Sơn và những năm đầu triều Nguyễn, có thể chúng được lưu hành vào thời Tây Sơn. Một số lời tiên tri được ghi nhận trong thư của các giáo sĩ đương thời, là chứng cứ xa hơn cho thấy rằng những ý niệm như thế là phần cốt lõi của sự hiểu biết của cả giới nông dân lẫn những người ưu tú trong xã hội về thế giới của họ.

III.4.1. Nhà tiên tri và lời tiên tri

Khi chiến tranh cuốn xoáy quanh họ vào cuối thế kỷ XVIII, người dân Đại Việt thường tìm hiểu về thời đại của họ bằng cách nhìn vào dấu hiệu những gì sẽ chứa đựng trong tương lai. Cách đó phổ biến ở tất cả vị trí trong xã hội Đại Việt vào thời kỳ này, và người dân thuộc mọi tầng lớp thường hướng về những ai có thể trả lời cho họ về những gì sẽ đến. Một nhà quan sát châu Âu thế kỷ XVIII đã viết: “những kẻ lừa đảo này hiện diện rất nhiều ở Đàng Ngoài; những ông thầy bói, thầy pháp không chỉ xuất hiện ở các thị trấn hay làng mạc, mà quyền năng của họ tác động từ những người thấp kém nhất cho đến bậc vua chúa, kiểm soát cả những việc làm mang tính nguyên tắc của nhà vua”*.

Ngoài những nhà tiên tri tự phong, những kẻ gọi là lừa đảo, còn có một số cá nhân được tôn xưng rộng rãi nhờ tài tiên tri của họ. Vào những thế kỷ trước, danh sĩ Đàng Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nổi tiếng là một nhà tiên tri, và những lời tiên đoán của ông lôi cuốn sự chú ý của mọi người ngay cả sau khi ông đã qua đời. Cuối thế kỷ XVIII, vị ẩn sĩ lừng danh Nguyên Thiếp đã giữ vai trò này. Cây bút Bùi Dương Lịch đã viết về ông: “Mọi người nói rằng ông biết hết mọi việc trước khi chúng xảy ra”. Chính từ sự nổi danh này đã khiến Nguyễn Huệ thỉnh ý kiến Nguyễn Thiếp vào cuối năm 1788 khi ông tìm cách xác định kết quả trận chiến sắp xảy đến với quân xâm lược nhà Thanh.

Ngoài việc hỏi ý kiến những nhân vật như Nguyễn Thiếp, người dân thời Tây Sơn ghi chép lại những lời tiên tri còn tồn tại, cố kết nối chúng với những biến động hay những nhân vật sống trong thời của họ. Thêm vào đó, những nhân vật chính trị vào thời kỳ này hành động dựa vào những lời tiên tri, sử dụng chúng để biện minh cho hành động của họ và khuyến khích người dân tin vào sự giải thích của họ về những lời tiên tri đó. Như một giáo sĩ hoạt động ở Đàng Ngoài vào thập niên 1780 đã nhận xét: “Người ngoại giáo ở vương quốc này có những lời tiên tri mà họ gọi là sấm ký, đúng và dễ hiểu như lời tiên tri của Nostradamus*. Theo giải thích của những người ngoại giáo, những lời tiên tri này loan báo rằng dòng họ của chúa Trịnh sẽ kết thúc trong thời đại này. Sự tin tưởng vào các điềm báo và những dấu hiệu về diễn biến trong tương lai đã liên kết chặt chẽ với thế giới văn hóa của người bình dân và người ưu tú trong xã hội và mở rộng đến cả các bậc vua chúa. Lời tiên tri không dễ dàng bị gạt bỏ bởi thành phần ưu tú về chính trị bởi vì họ có một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quần chúng và vì thế, có khả năng tác động lên niềm tin và hành động của họ.

Một minh chứng đáng chú ý về tác động của lời tiên tri đối với thành phần ưu tú về chính trị xảy ra vào giữa thế kỷ XVIII và đoán trước tình trạng bất an cùng cực trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Một lời tiên tri được truyền tụng vào thời điểm trên nhằm tiên đoán sự chuyển qua chính thể của nhà Nguyễn: “Sau 8 đời, giờ là lúc quay về kinh đô trung tâm”. Một câu khác trau chuốt hơn viết rằng: “Khi đã có 8 chúa rồi mà không có thêm một chúa nữa; khi núi biến thành đồi; khi cảng biển đóng lại; khi những người sinh ra cùng một nhà bị phân tán; khi người mới xuất hiện, là khi vương quốc sẽ rơi vào tay những người xa lạ và bị họ cai trị”. Vào thời điểm đó, Nguyễn Phúc Khoát là chúa Nguyễn đời thứ 8, và lời tiên tri này được phổ biến rộng rãi lúc đó, có vẻ như để tiên đoán rằng thế hệ lãnh đạo của ông là thế hệ cuối cùng và việc quay về “kinh đô trung tâm” - được hiểu là kinh đô Thăng Long của triều Lê-Trịnh - sẽ diễn ra.

Để tránh hậu quả này, năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tiến hành một số cải cách ở phủ chúa và sau đó đã tuyên bố quyền tự trị đối với vương quốc Đàng Ngoài. Bên cạnh việc thay đổi niên hiệu và vị trí của phủ chúa, ông còn ban lệnh thay đổi những qui định liên quan đến kiểu trang phục. Ông lệnh cho mọi người thay đổi quần áo theo kiểu trang phục mà người dân dưới thời nhà Minh, Trung Quốc, đã mặc. Lý do chính đằng sau việc làm này là qua sự thay đổi vẻ bề ngoài của thần dân của mình, chúa có thể chuyển Phú Xuân thành một loại “kinh đô trung tâm”. Sự kiện một bậc vua chúa có thể đánh giá nghiêm túc một lời tiên tri và hưởng ứng trực tiếp với nó cho thấy mãnh lực của những ý tưởng như thế trong xã hội Đại Việt thời kỳ này.

Học giả Pháp Léopold Cadière, người đã ghi chép câu chuyện về các hành động của chúa Nguyễn Phúc Khoát, kết luận bài nghiên cứu của ông bằng cách cho rằng lời tiên tri chẳng những báo trước sự nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà còn cổ vũ các nhà lãnh đạo của phong trào:

"Không ai biết được liệu cuộc khởi nghĩa này - cuộc khởi nghĩa đã ghi dấu sự trỗi dậy của triều Nguyễn - có ăn sâu vào tâm trí của người dân thời đó như chúng ta đã nhìn thấy hay không; cũng không ai biết được liệu những kẻ nổi loạn này, trong phạm vi hạn hẹp nào đó, có nhìn thấy được sức mạnh của họ hay có khẳng định được sứ mạng mà họ đã tuyên bố hay không, song những tin đồn mơ hồ, nhưng mãnh liệt, trong âm thanh của những tai họa siêu nhiên và của sự đổ vỡ toàn diện, đã làm rối loạn triều đình và dân chúng từ nhiều năm qua”.

Cho dù câu hỏi do Léopold Cadière đặt ra không thể trả lời trực tiếp, hình như một vài yếu tố trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn có thể được truy nguyên từ sự rối loạn nổ ra vào thời kỳ này. Chúng ta đã thấy rằng nguồn gốc của cuộc nổi dậy được chỉ ra từ một lời tiên tri tồn tại lâu dài ở địa phương. Vả lại, chúng ta biết rằng lời tiên tri đã gây sự rúng động khiến chúa Nguyễn để cho nó được lưu hành rộng rãi vào những năm sau của phong trào Tây Sơn. Trong một tuyên cáo đưa ra trong chiến dịch ở Nghệ An vào năm 1786, tướng Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh đã công bố rằng “mọi người đều biết là ngôi chúa (chúa Nguyễn) chỉ có 7 đời”. Chỉnh nhắc đến câu nói gọi lên rằng dân chúng nhận thức được lời tiên tri này và dù cho hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, nó vẫn còn là một phần trong ý thức của người dân. Lê Quý Đôn chép rằng nơi xuất phát của lời tiên tri là Nghệ An, và cho rằng việc nhắc đến nó trong vùng này đã tạo ra một âm vang đặc biệt.

Thậm chí sau năm 1786, những lời tiên tri tiếp tục là một yếu tố đầy ý nghĩa trong ý thức của người dân. Đặc biệt, Nguyễn Hữu Chỉnh, người từng nhắc đến lời tiên tri về sự sụp đổ của nhà Nguyễn vào năm 1786, đã triển khai các lời tiên tri theo chiến lược nhằm nâng cao quyền lợi chính trị của chính ông ta. Người ta cho rằng Chỉnh có được sự tin tưởng nhờ một câu nói xưa: "Con cọp đến từ rừng núi phía tây; con rồng đến từ biển phía đông". Theo lời giải thích của Chỉnh về câu này, con cọp đến từ rừng núi phía tây rõ ràng là nhằm nói đến quân Tây Sơn, trong khi con rồng đến từ biển đông (đông hải) là nhằm nói đến Nguyễn Hữu Chỉnh, vì quê quán của ông ta là vùng Đông hải. Một thư giáo sĩ năm 1787 đưa ra nhận xét rằng những lời tiên tri như thế “mang lại dũng cảm to lớn cho Cống Chỉnh, người đang lợi dụng những người dân mù quáng đáng thương không biết gì về cách sắp đặt của mệnh trời”. Tín ngưỡng dân gian về sự tiên tri rõ ràng là đã hình thành nên một cái nhìn bao quát về tinh thần vào cuối thế kỷ XVIII và những người khát khao về chính trị như Chỉnh sẽ hoặc vận dụng những tín ngưỡng đó, hoặc đơn giản là tìm thấy sự can đảm từ chúng.

III.4.2. Đọc những điềm báo về thay đổi chính trị

Hơn cả sự tiên tri vốn tối nghĩa và mơ hồ trong việc đính ra thời gian thực hiện, người dân hương về những điềm báo trong thế giới tự nhiên quanh mình. Những dấu hiệu này có khuynh hướng gần gũi hơn trong các mối quan hệ của chúng và có thể được hiểu như sự phê phán trực tiếp về một thế lực thống trị này hay khác. Ở mức độ rõ ràng nhất, con người giải thích những tai họa thiên nhiên xảy ra liên tục như lụt lội, đói kém, hạn hán và giông bão như là dấu hiệu cho thấy một ông vua đã không còn được trời phù hộ. Cả chính sử và ngoại sử đều có ghi chép những thảm họa về khí hậu và các loại hiện tượng bất thường của tự nhiên. Chúng cũng ghi nhận những điềm báo trên bầu trời; các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, vị trí các vì sao, sao băng, và hàng loạt các sự kiện không dễ gì phân loại. Đó là những sự cố bất bình thường - giông bão dữ dội, sao chổi sáng, nhật thực và nguyệt thực kéo dài bất thường - lôi cuốn sự quan tâm và chú ý của hầu hết mọi người. Cũng thế, trong khi ông Trời có thể ghi thông điệp lên bầu trời thì nước và núi non cũng ghi lên chúng những thông điệp có tính cảnh báo hoặc về một số mệnh đã định sẵn. Những dấu hiệu đó bao gồm việc nước sông đổi màu, nước hồ sôi sục, bến tàu đầy những đá, và đỉnh núi bị sạt lở. Tất cả những dấu hiệu này có thể được con ngươi hiểu như là chỉ dấu của sự tốt, xấu, gọi lên những sự kiện trong tương lai hoặc phán xét về một phe phái chính trị hay quân sự này khác.

Điều không có gì đáng ngạc nhiên là với một cuộc nổi dậy thường xuyên gây ra những rối loạn chính trị, thời kỳ Tây Sơn là thời kỳ mà dấu hiệu về những chuyển biến sắp xảy đến của thế giới tự nhiên hay siêu nhiên thường được quan sát và ghi lại. Trong số những hiện tượng được quan sát có hiện tượng về sau được xem là dấu hiệu một cuộc nổi lên nắm lấy quyền lực chắc chắn sẽ xảy đến của nhà Tây Sơn. Lê Quý Đôn đã viết về một trường hợp như thế mà ông đã nhìn thấy được khi nghiên cứu về sự suy tàn của nhà Nguyễn vào đầu thập kỷ 1770: “Năm Kỷ Sửu (1769), sao Chổi xuất hiện, và Nguyễn Quang Tiền đã nói với người thời đó rằng, ‘ở trấn Quảng Nam, trong không quá 5 hay 6 năm, chắc chắn sẽ cố một cuộc nổi dậy... và rồi số phận của nhà Nguyễn sẽ đi đến hồi kết thúc'”. Nguyễn Quang Tiền là một quan lại nhà Nguyễn và hình như ông đã tiên đoán sự nổi dậy của nhà Tây Sơn vào giữa thập niên 1770.

Những điềm báo xa hơn về cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng được ghi chép trong sử biên niên thời đó. Năm 1771, vào tháng 12 âm lịch, trên núi Thạch Bi ở phủ Phú Yên (khu vực duyên hải miền Trung), một tiếng sấm bỗng nổi lên vang rền và vào lúc đó, những tảng đá màu đen bỗng nhiên chuyển thành màu trắng. Từ đàng xa, ngọn núi giờ đã trắng như vôi, có dáng vẻ như một tấm bia dựng đứng. Ý nghĩa của hiện tượng này được tôn lên bởi đây chính là nơi vua Lê Thánh Tông đã đặt một bảng chỉ dấu biên giới vào năm 1470, khi thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch chống lại vương quốc Chăm ở phía nam. Tấm bảng đánh dấu việc thiết lập ranh giới mới giữa lãnh thổ Việt và Chăm. Mặc dù người soạn bản văn không giải thích sự kiện này, song hình như nó gợi lên tình trạng bất ổn xuất hiện trở lại trên đất Chăm (nơi xuất phát của nhà Tây Sơn) và sự chuyển đổi quyền lực đánh dấu sự cáo chung của nhà Lê.*

Trong lúc có nhiều dấu hiệu liên quan đến cuộc nổi dậy và những năm đầu của nhà Tây Sơn, nhiều điềm báo hơn nữa xuất hiện trong thời gian sắp diễn ra việc nhà Tây Sơn tấn công họ Trịnh ở Đàng Ngoài vào năm 1786. Những điềm báo này xuất hiện lần đầu vào năm 1782, liền sau cái chết của chúa Trịnh Sâm và cuộc lật đổ tại phủ chúa diễn ra tiếp theo đó. Cuối năm 1782, người ta kể rằng thình lình có những âm thanh như tiếng súng nổ vang dội giữa bầu trời, một hiện tượng kéo dài trong 25 phút đồng hồ. Không lâu sau đó, vào đầu năm 1783, người ta lại kể rằng những đỉnh của rặng núi phía bắc bỗng nhiên sụp đổ*. Cũng cùng năm đó, dường như một thiên thạch rơi xuống một chiếc hồ ở kinh thành Thăng Long khi một cuộc thi đình đang diễn ra. Điều này được tâu lên vua cùng với lời bàn đáng ngại rằng sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ 30 năm trong đó “các nho sĩ phải cúi mình trong nhục nhã.*

Có lẽ sự kiện có điềm gở nhất vào thời kỳ này là vào năm 1786 khi một con vật hay một đồ vật sáng lấp lánh nổi lên trên mặt hồ Hoàn Kiếm ở Thăng Long. Cái hồ này được dân chúng tôn sùng như là nơi vào đầu thế kỷ XV, một con rùa thần đã dâng cho Lê Lợi thanh gươm giúp ông đánh bại quân nhà Minh. Cũng tại hồ này, ông trả lại thanh gươm khi sứ mạng đã hoàn thành. Câu chuyện năm 1786 kể về một vật hay một con vật kỳ bí đã bay về bờ phía nam của hồ rồi biến mất. Khi điều này xảy ra, nước trong hồ bỗng nhiên nổi sóng đục ngầu, và ngày hôm sau, mặt hồ phủ đầy tôm chết. Những chuyện khác kể rằng một hiện tượng tương tự đã diễn ra ở phủ chúa vào khoảng thời điểm đó. Dân gian đã giải thích hiện tượng đó rằng vật kỳ bí được nhìn thấy ở hồ là chiếc gươm thần của Lê Lợi. Rõ ràng là câu chuyện có ngụ ý là chiếc gươm sau khi đã được sử dụng để giúp lập nên triều Lê vào thế kỷ XV, nay đã bỏ rơi nhà Lê, cho thấy sự sụp đổ tất yếu của nó.

Những điềm báo xuất hiện ở Đàng Ngoài vào đầu thập niên 1780 có thể được sử dụng như loại tiên tri đủ ý nghĩa, vì chúng có vẻ cổ vũ cho tham vọng chính trị cá nhân của Nguyễn Hữu Chỉnh. Như chúng ta đã thấy, Chỉnh đặc biệt chú ý đến những lời tiên tri và dùng chúng một cách rất có hiệu quả để leo lên chiếc ghế quyền lực. Hai tác phẩm ngay sau đó là Hoàng Lê nhất thống chí và Lịch triều tạp kỷ có kể lại một cuộc nói chuyện được cho là đã diễn ra tại Đàng Trong vào đầu năm 1786 giữa Chỉnh và một người cháu từ phía bắc vào thăm. Sách viết rằng Chỉnh thảo luận tình hình xứ bắc với người đến thăm, hỏi xem có thiên tai hay điềm báo vừa xảy ra không, Người cháu trả lời bằng cách nhắc chi tiết một đoạn kinh cầu nguyện dài kể về một hiện tượng xảy ra vào năm 1782, năm mà chúa Trịnh Sâm qua đời và Chỉnh buộc phải trốn đi trong một biến động tiếp theo:

“Ngày 15 tháng 11 năm Nhân Dần (1782) trong khoảng không trung bỗng có một tiếng nổ lớn rung động cả trời đất, kéo dài độ hơn một khắc, không biết là tiếng gì.

Lại nữa, tháng 2 năm Quý Mão (1783), núi Hùng Sơn sụt xuống đến hơn 20 trượng. Tháng 6 năm ấy, sông Thiên Đức cạn nước đến một ngày một đêm.

Đêm mồng một tháng 10 năm Giáp Thìn (1784), trong hồ Thủy Quân ở kinh đô có tiếng kêu như sấm, nước hồ sục sôi, sáng hôm sau thấy tôm cá (trong hồ) đều chết hết.

Và trong phủ chúa thường có hàng vạn quạ đen bay lượn trên cây, ngày đêm quàng quạc kêu ở cửa Các môn trước phủ đường.

Lại nữa, móng thành kinh đô vô cớ sụt lở đến hơn mười trượng”.*

Các bài viết tiếp tục lưu ý rằng danh sách dài những điềm báo đầy tính bất an khiến Chỉnh thêm tin tưởng vào kế hoạch tấn công Đàng Ngoài vào mùa hè. Vì thế, chúng ta thấy rằng các điềm báo không chỉ đơn thuần được dùng như là dấu hiệu một sự thay đổi quyền lực không thể tránh khỏi, mà còn là sự phấn khởi cho những ai coi chúng là cơ hội để hành động chống lại những kẻ đương quyền. Sau hết, có một người nào đó là sứ giả nhà trời biến những điềm báo đó thành hiện thực. Chỉnh tự thấy mình là một người như thế, cũng như Nguyên Nhạc trước đó tự thấy ông ta là người hoàn thành lời tiên tri đã dẫn dắt phong trào của ông ta trong những năm đầu tiên.

III.4.3. Ý tại ngôn ngoại (tìm hiểu ẩn ý của các câu nói)

Một phương pháp cuối cùng mà người Việt thời kỳ này thường dùng để nhìn thấy tương lai là phân tích các câu, chữ. Giới nho sĩ, và có thể cả những dân làng có học, nhìn vào chữ Hán, phân tích ngữ pháp để tìm những ý nghĩa được ẩn giấu bên trong hoặc chỉ dấu của sự tiên tri. Chữ Hán giúp họ đi sâu vào những phân tích thú vị, theo đó, các con chữ được tách ra thành nhiều thành phần và lời tiên báo được nhìn thấy trong đó. Vì chữ Hán thường được cấu thành bởi những phần nhỏ hơn nên chúng có những ý nghĩa riêng biệt, những phần nhỏ hơn có thể được “đọc” tách riêng ra theo một cách phù hợp với mục đích của người giải thích chúng. Ngoài ra, các thông điệp có thể được ẩn giấu trong những câu viết hay câu nói xem ra có vẻ vô hại. Một ví dụ khá hay về cách làm này có từ thời kỳ đầu của nhà Tây Sơn và được ghi chép trong sách Lịch triều tạp kỷ. Trường hợp được nêu diễn tả một bài thơ ngắn được viết như một lời phẩm bình quanh co về tình hình chính trị của thời kỳ đó (năm 1780): Tổ tư vân gian nguyệt, hoàng hoa nhật diệu hương (trái đất sẽ truyền đi lời nguyền không thật chống lại đóa hoàng hoa mà mặt trời đã làm cho hương tỏa ngát)*. Những từ tổ và tư kết hợp thành từ anh (em) rể*, nhắc đến Hoàng Tố Lý, một người thân thuộc của chúa Trịnh, trong khi các chữ hoa và nhật tạo thành chữ việp, nhằm nhắc đến danh hiệu cao quý của vị tướng quan trọng của chúa Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc. Chữ diệu * nhằm nhắc đến năm sinh của cả hai. Toàn bộ câu này được giải nghĩa là muốn nói đến hai người đàn ông đang mưu chống lại chúa Trịnh.*

Những hình thức chơi chữ như thế, có tác dụng hoặc là tiên đoán hoặc là phẩm bình chính trị kín đáo, chúng tiếp tục diễn ra và tăng lên nhiều trong thời kỳ Tây Sơn. Đặc biệt có nhiều toan tính phân biệt số phận của nhà Tây Sơn và các nhà lãnh đạo chính trị khác bằng cách sử dụng những chữ tạo thành niên hiệu của họ. Trong những phản ứng của người dân đối với việc Nguyễn Nhạc tự tuyên xưng là Thái Đức hoàng đế, có sự khảo sát hai chữ này để tìm ra những điềm báo. Những phân tích sau đó kết luận rằng triều đại của Nguyễn Nhạc sẽ kết thúc trong 14 năm. “Những người có hiểu biết giải thích rằng hai chữ Thái Đức có nghĩa là “Ba ngườỉ chiến đấu trên mặt nước, và trong 14 năm, họ sẽ thất bại”. Những chữ đó gợi một lời tiên đoán phức tạp. Chữ Thái chứa đựng chữ “ba” và chữ “nước”*, chữ sau đồng âm với chữ “nước” (đất nước); chữ Đức chứa đựng trong nó chữ “mười bốn” và chữ “mất”*. Và thật vậy, như Bùi Dưong Lịch, một nho sĩ đã đưa ra phân tích này, triều đại Thái Đức kéo dài trong 14 năm, từ năm 1778 đến năm 1793.

Các phân tích tương tự được áp dụng cho những nhân vật chính trị quan trọng khác ở cuối thế kỷ XVIII. Một sự khảo sát tỉ mỉ như thế về các chữ dành cho vua Lê là Lê Chiêu Thống, được cho là đã tiên đoán sự thoái vị chắc chắn sắp xảy ra của ông:

"Việc chiết tự hai chữ Chiêu và Thống* cho ra nghĩa như sau: 'mặt trời che phủ con dao nằm trên miệng và cắt đứt sợi dây quan hệ gia đình của người anh thứ hai'. Sau đó, nhà vua trốn khỏi xứ bắc và Nguyễn Chỉnh bị giết, và tất cả diễn ra đúng như những từ ngữ đã nói lên”.*

Cho dù còn mù mờ, sự giải thích này được cho là đã tiên đoán những sự kiện diễn ra trong tương lai. Giống như ví dụ trước, cái vẻ chính xác của sự tiên đoán này chỉ được ghi nhận sau khi nó xảy ra, và vì thế, chúng ta không thể xác định có đúng là tiến trình phân tích chữ nghĩa đã diễn ra trước khi nhà vua bị phế truất hay không. Tuy nhiên, có vẻ như những nỗ lực nhằm xác định tương lai của vua Lê đã được thực hiện vào thời điểm đó. Sau này, kỹ thuật tương tự được áp dụng cho chữ tên của hai vua Tây Sơn ở phía bắc là Quang Trung và Cảnh Thịnh. Tên của hai vì vua này được phân tích rồi mổ xẻ thành những câu thơ trong dân gian, với kết quả như sau:

Đầu cha ta lấy làm chân con,

Trong 14 năm tròn, sẽ đạt đến con số cuối cùng.

Người cha có một cái đầu nhỏ, và người con một cái chân nhỏ,

Đến năm Nhâm Tuất , họ sẽ không còn nữa.

Bài thơ này mô tả sự kiện mỗi chữ Quang và Cảnh đều có chữ "thiểu” trong đó. Chữ Quang ở trên, chữ Cảnh ở dưới. Như câu cách ngôn ngắn này đã tiên đoán, sau 14 năm trị vì kể từ năm 1788, năm cuối cùng của nhà Tây Sơn là năm Nhâm Tuất -1802.

Cuối cùng, trong lúc kết quả sự phân tích chữ nghĩa có thể chuyển thành thơ, những câu tục ngữ khác có thể dùng chữ Hán để ám chỉ một cách kín đáo số phận của nhiều nhân vật khác nhau. Một bài hát ngắn được cho biết là đồng thời với phong trào Tây Sơn cũng có các vần điệu về những nhân vật quan trọng trong chính quyền Tây Sơn ở phía bắc nhằm phẩm bình về số phận được đoán trước (hay hi vọng như thế) của họ:

Mời người mang nước lên thuyền.

Quang đổ vỡ, Chỉnh bị tiêu diệt,

còn Gánh rơi ngay xuống nước.*

Chữ quang là đôi gióng dùng để kề vai gánh bình nước, nhằm ám chỉ Quang Trung, và cái chết của ông, chữ chỉnh hay chĩnh, là vại nước, nhằm ám chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh, người đã bị nhà Tây Sơn đánh bại. Và chữ gánh, nghe gần đồng âm với chữ cảnh, nhằm nhắc đến vua cuối cùng của Tây Sơn là Cảnh Thịnh.

III.4.4. Đợi cứu thoát: Trông chờ một sự thay thế về chính trị

Ngoài cố gắng nhìn thấy diễn biến của những sự kiện trong tương lai, người thường dân và giới trí thức Đại Việt cũng biểu lộ sự phản kháng trước những nhà cai trị của họ bằng cách nói lên sự ưa thích những người thay thế về chính trị. Chẳng hạn những người dưới chính quyền họ Trịnh thường bày tỏ niềm hi vọng nhà Nguyễn đến để giải thoát họ. Tương tự như thế, một số người sống dưới chế độ Tây Sơn ở Đàng Ngoài mong đợi sự cứu thoát trước hết của quân Thanh sang để hỗ trợ vua Lê bị phế truất vào năm 1788, và sau đó của nhà Nguyễn, khi cuộc xâm lăng của quân Thanh bị thất bại. Cuối cùng, những người dưới chế độ nhà Nguyễn vào những thập niên 1780, 1790 và đầu thế kỷ XIX thường biểu lộ nỗi ước muốn được cứu thoát bởi quân Tây Sơn. Vào những thời điểm khó khăn, thông thường người dân hi vọng vào những nhà cai trị mới, có lẽ đó tin rằng người thay thế sẽ khá hơn kẻ áp bức hiện tại. Nét đặc biệt của việc tìm kiếm một người thay thế về mặt chính trị trong thời kỳ Tây Sơn thể hiện ở điểm người dân Đại Việt có thể chờ đợi ở nhiều người thay thế chân thật.

Trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ XVIII, giới nông dân (và những thành phần khác) đã lựa chọn nhiều thế lực chính trị để bày tỏ lòng trung thành, đổi lại việc họ được giúp thoát khỏi nỗi khổ đau của họ. Nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn (và trong một mức độ nào đó là nhà Lê-Trịnh), đã tranh đấu với nhau chẳng những trên chiến trường, mà còn trên đấu trường tranh thủ lòng dân. Trong lúc những đề xuất về chính trị của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn có thể không hoàn toàn khác biệt nhau theo một nghĩa tuyệt đối, thì theo cái nhìn của người nông dân, thế lực nào không áp bức họ lúc đó có thể được họ mong chờ đến cứu họ, cho dù đó có thể là một hi vọng hão huyền. Thật vậy, rất có thể tiếng tốt của nhà Tây Sơn phát triển trong ký ức dân gian đến tận thế kỷ XIX một phần xuất phát từ việc họ “không phải là nhà Nguyễn”. Ở một mức độ nào đó, chính quyền nhà Tây Sơn đại diện cho một thời đại lý tưởng hóa (tuy nhiên nhớ nhầm) đến trước thời kỳ của những đòi hỏi lao động nặng nhọc và những khó khăn khác đã kích động sự nổi dậy ồ ạt của giới nông dân vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Ý niệm người dân chờ đợi sự giải thoát được khai triển sớm vào thời kỳ Tây Sơn, khởi đầu vào năm 1774, khi quân Trịnh xâm chiếm lãnh thổ của nhà Nguyễn. Chúa Trịnh và các võ tướng của ông miêu tả hành động của họ phần nào như một sứ mạng giải cứu nhân dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam. Người dân ở những vùng này được cho là đã chịu đựng các quan chức tham nhũng, sưu cao thuế nặng, cùng những cuộc đột kích thường xuyên của dân vùng cao. Tóm lại, cuộc xâm lăng của quân Trịnh nhằm giải thoát những người dân từng phải chịu đựng đau khổ “từ hơn một trăm năm qua”. Lê Quý Đôn cũng viết về những bức thư được nhiều nho sĩ ở Đàng Trong gửi cho ông, trong đó, họ bày tỏ nỗi vui mừng lớn lao khi thấy quân triều đình đến và trước khả năng thống nhất lãnh thổ Đại Việt mà họ đã chờ đợi rất lâu. Cho dù tình cảm đó có thể chưa có tính tiêu biểu rộng rãi, song những gì chúng thể hiện trong những lá thư này phản ánh cảm nhận là sự đến nơi của quân Trịnh có thể giải tỏa những nỗi khó khăn mà họ đã trải qua.

Song tất cả nhiệt tình trước sự hiện diện của quân Trịnh cũng sớm nhường chỗ cho sự vỡ mộng, và người dân ở Thuận Hóa cảm thấy bực mình dưới quyền lực của những người mà họ coi như là cứu tinh và hi vọng được cứu vớt. Sách Đại Nam thực lục viết rằng vào năm 1776, các quan lại của chúa Trịnh đã quấy rối dân chúng ở Thuận Hóa khiến họ đâm ra oán giận, giận về điều này cũng như về những nỗi khổ khác đè lên vai họ. Mấy năm sau, vào năm 1779, một giáo sĩ sống trong vùng do chúa Trịnh kiểm soát đã viết rằng “Đàng Trong (ở đây muốn nói đến phần phía bắc của Đàng Trong đang do quân Trịnh chiếm giữ) luôn hi vọng nhìn thấy đức vua của họ (chúa Nguyễn) dẫn đầu đoàn quân đến nơi giải thoát họ khỏi cảnh sống nô lệ nhục nhằn gây ra bởi những người ở Đàng Ngoài”. Tình hình tiếp tục xấu hơn, đặc biệt khó khăn dưới sự cai trị của viên trấn thủ cuối cùng của chúa Trịnh ở Thuận Hóa. Phạm Ngô Cầu hành động “tàn ác, thô lỗ và tham lam, quấy nhiễu dân chúng và đẩy khu vực ấy vào cảnh đói nghèo, khốn khổ”. Như một giáo sĩ đã viết vào giữa năm 1786, một thời gian ngắn trước khi nhà Tây Sơn đánh chiếm Đàng Ngoài: “Tất cả nông dân ở những vùng này biểu lộ nỗi căm ghét không nguôi đối với mọi người ở Đàng Ngoài, không trừ một ai”. Thật vậy, sự kiện quan chức Trịnh thăm viếng trại Tây Sơn vào đầu năm 1786 khiến Nguyễn Hữu Chỉnh mở một cuộc tấn công đã phản ánh mức độ không hài lòng của những người dân ở đây.

Khi sự thù nghịch đối với dòng họ Trịnh ở những người dân mà họ đã “giải thoát” tại vùng thượng Đàng Trong, danh tiếng của họ ở Đàng Ngoài cũng nhanh chóng sụt giảm. Trong nhiều tình huống khác nhau, điều này biểu lộ qua việc người dân bày tỏ sự ủng hộ những người thay thế về chính trị. Cuối cùng, tình hình trên dẫn đến sự kiện vào năm 1779, một giáo sĩ châu Âu đã viết về thái độ của người dân đối với một cuộc nổi dậy gần Thăng Long: “Mọi người ủng hộ những kẻ nổi dậy, và rất ít người theo nhà vua. Người ta thích thấy họ chiến thắng với hi vọng tìm thấy dưới một chính quyền mới, sự kết thúc của vô số điều tệ hại mà họ phải khuất phục trong nhiều năm”.

Trong lúc ấy, sự bất ổn đã khuấy động ngay bên trong trại Tây Sơn. Mặc dù anh em Tây Sơn đã đứng lên một phần để giải thoát dân chúng Đàng Trong khỏi sự hà khắc về chính trị, khi cuộc nổi dậy của họ chuyển thành một chế độ chính thức, họ nhanh chóng đặt gánh nặng lên vai những người này. Viết trong tác phẩm Phủ biên tạp lục vào năm 1776, chỉ ba năm sau khi lực lượng Tây Sơn đã chuyển cuộc nổi dậy của họ xuống vùng đồng bằng đông dân, Lê Quý Đôn nhận định rằng: “dân chúng vùng Quảng Nam vào thời đó đã trải qua nhiều gian khổ. Tất cả đều trông chờ quân đội của triều đình (triều Lê-Trịnh) đến để giải thoát và cứu vãn họ”. Hai năm sau, Charles Chapman cũng ghi nhận sự bất mãn của người dân tương tự như thế đối với sự cai trị ngày càng phiền hà của Nguyễn Nhạc. Dựa vào những cuộc nói chuyện với người Việt trong thời gian một tháng lưu lại lãnh thổ của nhà Tây Sơn, trong đó có việc đi thăm kinh đô Chà Bàn của Nhạc, Chapman viết về tình hình lúc đó như sau:

“Chính quyền của Nhạc được điều hành trong sự ghê tởm cùng cực... Nhiều người trong quân lính của ông và hầu hết những người dân tôi gặp đều công khai nói với tôi và những người đi với tôi là họ đã phải cam chịu như thế nào và bày tỏ mong ước là người Anh hãy bảo vệ họ, đảm bảo với chúng tôi rằng chỉ cần sự xuất hiện của một lực lượng tối thiểu là cả nước sẽ chạy đi gặp họ”*.

Điều này cho thấy rằng nhiều người dân sống dưới chính quyền Tây Sơn đã bắt đầu nghĩ tới người thay thế chính trị. Trong khi có ít cơ hội để người Anh có thể dính líu vào điều mà Chapman coi là công việc nội bộ, cảm nghĩ do ông diễn tả phản ánh niềm hi vọng chung là sẽ xuất hiện những người thay thế về chính trị.

Cuối cùng vào tháng 6.1786, khi nhà Tây Sơn chiếm lấy những phần đất cũ của các chúa Nguyễn đang nằm trong tay quân Trịnh, người dân đã sẵn sàng trả thù những người cai trị hà khắc và đón chào quân Tây Sơn như những nhà giải phóng. Khi quân Trịnh chạy khỏi Phú Xuân trước sức tấn công của quân nổi dậy, một số người dân địa phương đã bắt giữ những người từng hành hạ họ và mang đến trước lực lượng Tây Sơn, và có trường hợp, quân Tây Sơn ném 200 quân Trịnh xuống biển. Trong những trường hợp khác, người ta kể rằng dân địa phương đã tự tay tàn sát quân Trịnh. Sự đáp trả đầy nhiệt tình mà quân đội Tây Sơn nhận được từ dân chúng trong cuộc xâm chiếm vùng thượng Đàng Trong có lẽ đã phản ánh tình cảm của người dân cảm thấy họ bị chiếm đóng trong hơn một thập kỷ bởi những người mà họ coi như là quân đội "nước ngoài”, và họ đã phải trải qua những gian khổ to tát vào thời kỳ này. Với họ, quân Tây Sơn là biểu hiệu của sự cứu vớt. Điều đó không chứng tỏ rằng người dân ở Phú Xuân và ở vùng phía bắc nhất thiết cảm thấy một mối quan hệ thân thiết về chính trị và văn hóa với những đội quân xuất phát từ ngọn núi Tây Sơn, mà đúng hơn là họ chào đón những người này như là “những người khác” so với những lãnh chúa họ Trịnh vừa qua.

Sự đồng thuận ban đầu đối với chính quyền Tây Sơn ở Đàng Ngoài phần lớn là phản ứng trước những khó khăn trong đời sống trước đây dưới sự kiểm soát của quân Trịnh, kết hợp với sự gian khổ do nhiều năm đói kém gây ra. Như một giáo sĩ đã viết: “Người dân rất mệt mỏi dưới sự thống trị bạo tàn của dòng họ Trịnh, và thậm chí họ còn bị kiệt quệ vì những điều phiền toái do quân lính gây ra mà họ phải chịu đựng từ lúc chúa khởi sự nắm quyền”. Cũng vì thế, dù cho lúc ban đầu người dân không dám tin chắc vào ảnh hưởng của quân Tây Sơn, đạo quân xâm lấn này được lệnh của cấp chỉ huy không được quấy nhiễu người dân ở kinh thành Thăng Long. Đạo quân phía nam rất tuân thủ lệnh này, một sự kiềm chế chắc chắn đã mang lại sự khuây khỏa cho dân chúng ở Thăng Long. Cuối cùng, có lẽ người dân phía bắc đã đáp ứng lại lời tuyên bố của nhà Tây Sơn rằng họ đang phục hồi quyền lực cho triều Lê. Trong trí tưởng của người dân, sự phục hồi này thể hiện một hình thức cứu vãn về chính trị, cho dù hoàng tộc triều Lê chỉ còn là một cái bóng của chính họ. Người ta có thể nói rằng người dân Đàng Ngoài tập hợp lại không phải vì nhà Tây Sơn hoặc thậm chí vì vua Lê đã được phục hồi ngôi vị, mà đúng hơn vì triều đại nhà Lê đã được lý tưởng hóa từ thế kỷ XV, và sự phục hồi này đã được ngầm hứa hẹn bởi nhà Tây Sơn.

Sự kiên nhẫn ban đầu của nhà Tây Sơn vào mùa hè năm 1786 thay đổi về cơ bản khi họ quay lại Thăng Long, như chúng ta đã thấy. Sự cướp phá lan rộng và sự ngược đãi người dân địa phương đã cho thấy sự kết thúc thời kỳ ngắn ngủi mà nhà Tây Sơn đã được người dân phía bắc yêu mến*. Theo thư của các giáo sĩ, năm 1788, dân miền Bắc bắt đầu biểu lộ công khai lòng căm hờn đối với những lãnh chúa mới của nhà Tây Sơn và một ước muốn được giải thoát khỏi tay họ*. Mấy năm sau, một nhân chứng khác kể rằng “không có gì ngoài thuế má và lao dịch, chúng đẩy người dân vào cuộc khủng hoảng và điều này khiến họ mơ ước được giải thoát".*

Kết quả của sự bất mãn gia tăng đối với nhà Tây Sơn là người Việt sống ở vùng thượng Đàng Trong và Đàng Ngoài bắt đầu ngóng về phương Nam và sức mạnh đang đâm chồi nẩy lộc của quân Nguyễn, để giải thoát họ. Do việc áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ trên biên giới giữa lãnh thổ do Tây Sơn kiểm soát và khu vực nằm trong tay chúa Nguyễn, người dân ở phía bắc khó nhận được thông tin chi tiết về những biến động ở phía nam. Họ dựa vào sự suy đoán vài mẩu tin đi theo tàu thuyền vòng qua ngả Macao. Thông tin nhận được đủ để người dân phía bắc biết được sự tồn tại của nhà Nguyễn và sức mạnh đang lên của họ. Họ không có thông tin về tình hình chính xác của chúa Nguyễn ở vùng Gia Định, song họ nuôi hi vọng rằng chúa Nguyễn có thể thể hiện một hình thức cứu vãn, như trước đây họ đã đặt hi vọng vào nhà Tây Sơn chưa được biết đến bao nhiêu. Thật vậy, có vẻ như một sự lý tưởng hóa cuộc sống dưới chế độ nhà Nguyễn đã bắt đầu diễn ra ở những nơi mà các chúa Nguyễn từng thống trị và chính sự lý tưởng hóa này kết hợp với những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền Tây Sơn đã kích thích trí tưởng của người dân quay nhìn về phía sau.

Sử biên niên của nhà Nguyễn vào năm 1791 (cho dù không phải là không có thiên kiến) đã chép rằng “dân Thuận (Hóa) và Quảng (Nam) đã căm ghét chính sách tàn bạo của nhà Tây Sơn trong một thời gian dài, và chờ đợi quân của triều đình từng ngày một. Vì vậy, cứ mỗi lần nghe gió nồm thổi là họ cùng nói ‘chúa cũ của chúng ta đã đến'”. Sử năm sau cũng miêu tả việc người dân sống trong những huyện dưới quyền Tây Sơn ở Phú Yên và Khánh Thuận mang cả vợ con chạy về những vùng do chúa Nguyễn* kiểm soát ở xa về phía nam*. Sách Tây Sơn thuật lược chép tương tự: “Ở Bắc kỳ thì dân trí thức đều chán ghét triều Tây Sơn, mong được vị chân chúa. Từ sau khi Gia Định đã dẹp yên rồi, mỗi lần gió nồm thổi, thì người người đều nói rằng đó là gió của ông Chủng (Gia Long) vậy”*. Vào thập niên 1790, người dân tiếp tục mong chờ chúa Nguyễn đến, ngay cả khi niềm hi vọng của những người sống dưới sự kiểm soát của nhà Tây Sơn liên tục dâng lên rồi tiêu tán. Một thư giáo sĩ viết vào tháng 5.1792 nhắc đến “vị chúa vùng Hạ Đàng Trong, người mà tất cả dân Đàng Ngoài đều trông đợi với sự nôn nóng tột bực”. Những lời đồn đại có vẻ hợp lý cho biết là lực lượng của chúa Nguyễn sắp đến nơi, như trong năm 1794, khi có tin đồn loan truyền còn không lâu nữa quân Nguyễn sẽ đến, sau khi đã phá hủy thủy quân Tây Sơn neo đậu ở Qui Nhơn vào năm trước. Nhưng bằng cách này hay cách khác việc quân chúa Nguyễn đến luôn được đoán trước, hoặc bởi thời tiết, hoặc do chiến thuật quân sự cẩn trọng của chúa Nguyễn Ánh.

Giữa thập niên 1790, người dân phía bắc bắt đầu suy đoán khi nào, hay trừ khi nào, quân Nguyễn cập bờ biển của họ. Một thư giáo sĩ viết vào tháng 8.1794 với ý đoán trước là việc đó đã lan truyền ở Đàng Ngoài. “Người ta tiếp tục chờ đợi vị chúa hợp pháp ở Đàng Trong sẽ đến, nhưng khi nào thì ông đến?" Pierre Eyot đặt ra câu hỏi như trên trong một bức thư đề ngày 6.8.1794. Vài tuần sau, một giáo sĩ ở vùng Hạ Đàng Ngoài là Charles La Mothe đã viết rằng sự phục hồi vương quốc bởi vị chúa Đàng Trong đã bị truất ngôi là “điều mà mọi người nhiệt tình hi vọng và mơ ước”. Hơn nữa, dân chúng ở Đàng Ngoài chẳng những suy đoán là chắc chắn chúa Nguyễn sẽ đến nơi, mà còn bắt đầu vạch kế hoạch đứng lên ủng hộ sự tiến công của quân Nguyễn. Năm 1794, một người đàn ông ở Thanh Hóa tiếp xúc với Nguyễn Ánh và được bảo đi tuyển mộ lính để nổi dậy chống nhà Tây Sơn. Năm 1797, một giáo sĩ viết rằng “ [nhà Tây Sơn] phải biết sợ người dân Đàng Ngoài, những người không ủng hộ ách áp bức của họ, không giúp đỡ họ và quay lưng lại với họ. Nhiều lần họ đã đứng lên, nhưng không thành công... Họ chờ đợi vị chúa ở Đồng Nai như là người giải thoát cho họ”.*

Khi người dân phía bắc bắt đầu nghe nhiều tin đồn hơn về việc chúa Nguyễn sắp đến nơi vào những năm 1800 và 1801, họ tăng cường kế hoạch thách thức nhà Tây Sơn, khi mà quyền lực của phong trào này ngày càng không thể chịu đựng nổi, và chế độ này đang đối mặt với một cuộc chiến đấu vô vọng với chúa Nguyễn. Một thư giáo sĩ năm 1801 đã tóm lược tình hình dân chúng ở Đàng Ngoài:

"Về phần thường dân, tinh thần của họ bị khích động mãnh liệt. Khắp nơi trên cả nước, người Cơ Đốc giáo và người lương đang bị nghiền nát dưới ách nô lệ tàn bạo của những kẻ nổi loạn Tây Sơn, rất nhiệt tình mong ước sự đến nơi của vị chúa Đàng Trong; nhiều tin đồn các loại, đến nỗi người ta không biết tin vào đâu, vài người nói rằng một số nhóm khởi nghĩa được thành lập khắp nơi, sẵn sàng đứng lên chống lại những người nổi loạn Tây Sơn ngay khi vị chúa hợp pháp vừa xuất hiện".

Trong một trường hợp, vị lãnh đạo một nhóm có kế hoạch nổi dậy chống Tây Sơn bí mật đi về phía nam, tại đây ông ta nhận các tài liệu từ chúa Nguyễn Ánh cho phép ông ta tổ chức cuộc nổi dậy và sắp đặt việc giúp ông ta tuyển mộ người đi theo. Cuộc nổi dậy đã bị nhà Tây Sơn nghiền nát. Sự thất bại của những cuộc nổi dậy như thế có thể do sự kết hợp của tổ chức kém, số người ít (hiếm khi quá một trăm người), và điều kiện quân sự hóa của nhà Tây Sơn cho phép họ huy động quân nhanh chóng để đàn áp những cuộc khởi nghĩa của người dân như thế. Tuy nhiên, các cuộc nổi dậy và những cảm nghĩ phổ biến của người dân được các giáo sĩ châu Âu đề cập đến cũng cho thấy một vài dấu hiệu về sự thù nghịch dai dẳng và lớn mạnh đối với chính quyền nhà Tây Sơn.

Điều trớ trêu là ngay vào lúc dân chúng ở Đàng Ngoài ngày càng biểu lộ niềm hi vọng rằng chúa Nguyễn sẽ sớm giải thoát họ khỏi tay nhà Tây Sơn, thì những người đã sống dưới sự kiểm soát chính trị của lực lượng nhà Nguyễn ở vùng cực nam lại hi vọng được cứu khỏi tay họ. Không có nhân vật nào hơn Giám mục Bá Đa Lộc, người châu Âu ủng hộ Nguyễn Ánh nhiệt tình nhất, người đã mô tả những cảm nghĩ rõ rệt của người dân khi ông viết vào năm 1791 về một tình hình đang ngày càng khó chịu đối với những người Việt Nam sống dưới sự kiểm soát của chúa Nguyễn: "(Nguyễn Ánh) chất lên vai người dân của ông gánh nặng thuế má và những dự án lao động, và vào lúc này, người dân khốn khổ bị giày vò bởi nạn đói, đến nỗi họ mong nhà Tây Sơn đến”. Hai năm sau, vào năm 1793, tình trạng những người sống dưới quyền của chúa Nguyễn cũng không có vẻ cải thiện. Trong khoảng thời gian từ khi có sự chỉ trích của vị Giám mục, một giáo sĩ Pháp khác viết rằng "hai năm cuối cùng đó, mọi người phải đi làm việc công, và họ không bận tâm đến điều gì khác ngoài việc tìm những phương cách để sống sót, sự nghèo khổ đã đến độ cùng cực”. Cố nhiên, những đòi hỏi của chúa Nguyễn, cũng như của nhà Tây Sơn, đã khiến cho người dân căm phẫn và làm phát sinh nỗi ước muốn của họ được một tổ chức khác cứu vớt.

Vào giữa thập niên 1790, tình hình ở phía nam vẫn không thể chịu đựng nổi đối với nhiều người và ngay cả khi sử nhà Nguyễn viết rằng vào năm 1795, nhiều người dân trốn khỏi các trại đồn điền được thiết lập trên lãnh thổ do chúa Nguyễn kiểm soát. Lời tường thuật trong một thư giáo sĩ cùng năm trên nói rõ hơn nỗi gian khổ mà những người sống dưới sự cai trị của Nguyễn Ánh phải đối mặt và chỉ rõ rằng một số người vẫn tiếp tục coi nhà Tây Sơn là sự thay thế nhà Nguyễn tốt hơn:

“Điều bất hạnh lớn nhất của chúa Nguyễn Ánh là ông đã làm cho lòng dân giận ghét ông, có lúc vì cách hành xử đầy kiêu hãnh của ông, có lúc là một số hành vi điên rồ, như mong muốn xây dựng một ngôi đền lộng lẫy thờ Khổng tử, và tái thiết thành phố Sài Gòn* v.v... Những dự án đó được ban ra vào thời điểm người dân đã bị tràn ngập bởi [những đòi hỏi] lao dịch và đóng góp cho cuộc chiến tranh mà người dân ghê tởm, họ mong ước được những người nổi dậy mang đi, hi vọng rồi cuối cùng họ cũng được làm dịu bớt những nỗi bực mình”.

Sự kiện vào năm 1795, nhà Tây Sơn tiếp tục xuất hiện như một người thay thế chính trị đáng ao ước, cho thấy cả hai phía phải đương đầu với những khó khăn nghiêm trọng như thế nào trong việc củng cố sự ủng hộ của người dân. Để kề nhau chứng cứ từ những vùng đất do chúa Nguyễn kiểm soát với niềm hi vọng mà người phương Bắc ấp ủ để được cứu vãn bởi bàn tay nhà Nguyễn một lần nữa cho thấy rằng niềm hi vọng đó không nằm trong sự hiểu biết cụ thể về chính sách của một nhà cai trị đặc biệt. Đúng hơn, nó xuất phát từ niềm tin rằng bất cứ nhà cai trị nào cũng có thể đạt được tiến bộ hơn một người đương quyền.

Năm 1802, đạo quân được chờ đợi từ lâu của chúa Nguyễn tiến ra Đàng Ngoài, cuối cùng đã “giải thoát” những cư dân đó khỏi tay nhà Tây Sơn. Rồi người dân ở phía bắc cũng sớm phát hiện ra rằng hi vọng của họ chỉ là ảo vọng. Trước khi chiếm lấy Thăng Long vào tháng 7.1802, quân của chúa Nguyễn đã bắt đầu gây khó cho dân Đàng Ngoài. Người ta kể rằng trong các chiến dịch ở phía bắc, quân chúa Nguyễn đã buộc người dân phải nộp ngựa, yên ngựa, và các vũ khí được trang trí. Trong một vài trường hợp, khi các làng mạc không thể cung ứng những vật phẩm mà họ đòi hỏi, họ đòi phải đóng góp bằng tiền. Giáo sĩ Pierre-Jacques de la Bissachère đã ghi: “Điều đó là sự khởi đầu nỗi bất mãn đối với chính quyền mới”.

Ác cảm đối với nhà Nguyễn gia tăng đều đặn trong những năm đầu của triều đại mới. Chỉ vài năm sau bản tường thuật ban đầu, de la Bissachère viết rằng: “vương (Ánh) bị người dân căm ghét rất nhiều, đặc biệt khi ông tự xưng hoàng đế, do những lao dịch quá đáng mà ông áp đặt cho người dân để xây dựng các pháo đài và thành phố. Ông ta kết luận “Người Đàng Ngoài kêu gọi ông vua đang tại vị giúp họ tiêu diệt nhà Tây Sơn, nhưng nay ông cai trị họ chưa đầy sáu năm, họ nguyền rủa ông mỗi ngày vì ông bắt họ lao dịch tệ hại gấp hai lần so với thời Tây Sơn; họ nuôi ý định nổi dậy, nhưng họ không có đủ sức lực (để làm thế) và thiếu một nhà lãnh đạo có thể kích thích họ hành động”. Sự giận dữ của người dân phía bắc đã kết hợp với sự kiện nhà Nguyễn không giữ lời hứa khôi phục nhà Lê. Như de la Bissachère đã nhận định vào đầu thế kỷ XIX:

“Người dân phía bắc... nôn nóng chờ đợi ông (Nguyễn Ánh) giải thoát họ khỏi sự tàn bạo của những kẻ nổi loạn Tây Sơn và tái lập ngai vàng của dòng vua cũ, nhưng trong sự mong chờ của họ, những người Bắc hà này thất vọng ê chề, bởi vì vị chúa này mới vừa chiếm lấy Bắc hà, nơi người ta trông ông như trông một người giải thoát, thì ông đã tự xưng vương và đón nhận sự tuyên phong chính trị của hoàng đế Trung Quốc”.

Hoặc như tác giả Đặng Phương Nghi nhận định trong nghiên cứu của bà về Việt Nam thế kỷ XVIII:

“Bị kiệt quệ bởi họ Trịnh, dân chúng hoan nghênh cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn; tuy nhiên, điều đó không kéo dài trước khi họ thấy rằng quyền lực của Tây Sơn là một sự áp bức ghê tởm, và cầu mong chúa Nguyễn Ánh đến nơi; khi vua Gia Long ngồi lên ngai vàng, họ lại kêu rên và coi nhà cai trị mới như một bạo chúa man rợ”.

Xét chung, chứng cứ khả tín cho thấy rằng cuộc sống không nhất thiết tốt hơn hay xấu hơn dưới bất cứ một lực lượng chính trị-quân sự đặc biệt nào trong những năm dưới chính quyền Tây Sơn. Mỗi bên đều đặt ra những đòi hỏi lớn lao cho những người sống dưới quyền lực của họ để tái thiết, xây dựng phòng tuyến, bòn rút tài nguyên và các mưu đồ quân sự. Với người dân, bên khác, dù là gì đi nữa, đều có thể là bên cứu vớt họ. Chẳng hạn như cùng lúc với việc dân chúng phía nam mong được nhà Tây Sơn cứu giúp thì những người sống ở phía bắc lại mong được cứu thoát khỏi tay nhà Tây Sơn. Thật vậy, họ luôn mang niềm hi vọng chung rằng người cai trị sắp tới hoặc một người thay thế nào đó, sẽ tốt hơn và ít có những đòi hỏi hơn. Như những sự kiện thời Tây Sơn đã chỉ rõ, sự cứu giúp hằng mong đợi đã không bao giờ đến. Những người sống dưới sự thống trị của họ Trịnh và được nhà Tây Sơn giải thoát lại nuôi hi vọng sớm được chúa Nguyễn giải thoát cho họ. Những người ở vùng cực nam được chúa Nguyễn giải thoát khỏi bàn tay nhà Tây Sơn lại sớm mong mỏi sự trở lại của người lãnh đạo chính trị cũ của họ. Và những người sống dưới chính quyền họ Trịnh, những người lúc đầu được nhà Tây Sơn giải thoát rồi lại được chúa Nguyễn giải thoát, cũng sớm mong mỏi lật đổ được ách thống trị của nhà Nguyễn.