← Quay lại trang sách

Chương III - 3 BÒN RÚT TÀI NGUYÊN: CƯỚP PHÁ, ĐÁNH THUẾ VÀ NHŨNG LẠM

Quân vụ và lao dịch cưỡng bách những người dân miễn cưỡng thi hành chỉ thể hiện một khía cạnh của áp lực của nhà Tây Sơn lên những người sống dưới sự kiểm soát của họ. Mặc dù những việc như thế đáp ứng nhiều nhu cầu cấp bách, song các lãnh tụ quân nổi dậy và những nhà lãnh đạo đất nước sau đó còn cần đến những đóng góp rõ ràng hơn. Vì thế, trong suốt thời kỳ Tây Sơn, người dân Đại Việt bị buộc phải thường xuyên cung ứng cho chính quyền các sản phẩm vật chất. Những đóng góp này đôi lúc dưới hình thức tiền bạc, song thường xuyên hơn gồm hàng hóa các loại, từ sản vật, thú nuôi đến những đồ quý giá khác. Hình thức của những sự bòn rút này thay đổi, phản ánh mục tiêu và sức mạnh của những người thực hiện chúng. Sự cướp phá đơn thuần do binh lính thực hiện, phổ biến trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, vẫn là thành phần trung tâm trong chiến lược bòn rút của nhà Tây Sơn. Thứ đến, những thành phần có tổ chức hơn trong chính quyền Tây Sơn thu lợi bằng hiện vật hay tiền bạc qua việc thu thuế theo qui định thông thường hoặc sử dụng quân đội để cưỡng bách dân chúng phải đóng góp. Cuối cùng, các quan lại hoặc viên chức chính quyền địa phương thối nát sẽ ép buộc người dân sống dưới sự kiểm soát của họ phải đóng góp tài nguyên hay tiền bạc. Ở một mức độ nào đó, đối với người nông dân Việt trung bình, cơ chế đặc biệt dùng bòn rút lợi lộc không thích đáng, vì kết quả cuối cùng chắc chắn là không như nhau.

III.3.1. Sự cướp bóc (Sự “tái phân phối của cải”)

Việc tịch thu sản vật và đồ quân dụng, hoặc với mục đích tái phân phối, hoặc giữ lại chúng cho quân đội là một thành phần quan trọng trong việc tiếp cận quyền lực của các cấp lãnh đạo thực dụng của nhà Tây Sơn. Một mặt, lúc ban đầu, cuộc nổi dậy được dẫn dắt và hỗ trợ bởi những vụ tịch thu như thế, vốn được các nhà quan sát đương thời gọi là “sự trộm cắp từ thiện", các sử gia nhà Nguyễn thế kỷ XIX thì gọi là “cướp bóc”, còn các học giả hiện nay thì gọi là “phân phối lại của cải". Chứng cứ từ những ngày đầu tiên của phong trào cho thấy rằng quân đội Tây Sơn tái phân phối của cải như một cách hữu hiệu giúp giành được sự ủng hộ của dân chúng và tăng cường đội ngũ của họ. Trong lúc chắc chắn là những người nông dân nghèo hơn được hưởng lợi từ một số hành vi ban đầu của nhà Tây Sơn nhằm phân phối lại tài sản, thì khi những đạo quân của họ lớn mạnh hơn, việc tịch thu sản vật trở nên bừa bãi hơn.

Tài liệu miêu tả này xuất hiện năm 1774:

“Trước khi bỏ đi, quân nổi dậy tàn phá toàn vùng, không để sống sót một con gà... Họ tịch thu 82 khẩu súng đại bác bằng đồng do người Hà Lan và người Anh tặng cho chúa Nguyễn để bảo vệ thủ phủ của trấn này*, ở đó có cảng Tourane*; quân nổi dậy cũng bắt đi 45 con voi, nhiều vũ khí, trống và cờ cùng một lượng đồ vật khác. Mỗi quan chức rời đi cùng với hơn 12 chiếc thuyền lớn chở đầy của cải, đi bằng đường biển về địa phương nơi họ đóng quân”.

Những hành động đó đưa đến kết quả là người dân trở thành nạn nhân hơn là người được hưởng lợi từ những chiến dịch quân sự được gia tăng một cách đột ngột của nhà Tây Sơn. Vì thế, vị giáo sĩ Tây Ban Nha miêu tả cuộc tấn công có sức tàn phá của nhà Tây Sơn đã tiếp tục nhận xét rằng: “về phần dân chúng, họ tập hợp lại trong hàng ngũ của chúa Nguyễn*, bởi vì những kẻ nổi loạn đã lấy hết những gì họ có, sau khi đã cướp phá toàn thị trấn; vì vậy mà quân của chúa Nguyễn không gặp khó khăn gì khi chiếm lại thị trấn, khiến cho đối phương phải bỏ chạy”. Lời dẫn giải cho thấy rằng lợi ích về mặt chính trị của sự cướp phá chỉ là sự may mắn nhất thời và những hành động như thế thường làm cho người dân xa lánh hơn là lôi kéo họ về phía quân nổi dậy*. Dù vậy, hình như quân Tây Sơn vẫn tiếp tục việc cướp phá trong các chiến dịch quân sự trải dài suốt thời gian còn lại của thập niên 1770. Khi Charles Chapman thăm vùng duyên hải Đàng Trong vào năm 1778, ông đã gặp những dân làng đói rét bị quân Tây Sơn cướp bóc những tài sản ít ỏi của họ khi đạo quân này đi qua địa phương giữa lúc nạn đói đang diễn ra. Những cuộc cướp bóc như thế vẫn tiếp tục trong những lần tấn công sau đó của quân Tây Sơn vào Gia Định giữa những năm 1782-1785.

Mức độ cướp bóc của quân Tây Sơn gia tăng khi những kho báu của Đàng Ngoài nằm trong tầm tay của họ vào năm 1786. Mặc dù Nguyễn Huệ tìm cách áp đặt kỷ luật lên quân đội của ông trong những giai đoạn đầu tiên của chiến dịch đánh ra bắc, họ vẫn lấy đi nhiều vàng bạc trong phủ chúa Trịnh ở Thăng Long, cùng với tất cả vũ khí và quân dụng cất giữ tại kinh thành. Như một quan sát viên đã diễn tả: "quân Đàng Trong* cướp lấy mọi thứ vàng, bạc, súng lớn, súng nhỏ, đồ gia dụng, voi, ngựa; họ để lại đàng sau không có gì ngoài các bức tường của phủ chúa Trịnh”. Trên đường rút lui, quân Tây Sơn tiếp tục việc cướp bóc kéo dài của họ, chuyển sự chú ý của họ vào những làng mạc trên đường họ đi. Nhiều giáo sĩ châu Âu có dịp quan sát quân đội Tây Sơn đã viết rằng cuộc xâm chiếm đất bắc của họ được tiến hành chủ yếu như một hành trình cướp bóc kéo dài và biểu dương lực lượng, chứ không nhằm mục đích như một nỗ lực chính trị bền vững.

Như đã đề cập trong chương trước, việc cướp bóc trong chiến dịch đánh ra bắc vào năm 1786 đã gây ra sự căng thẳng phát sinh giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Khi hai anh em từ Đàng Ngoài trở về, Nhạc giành lấy cho riêng mình phần lớn hay tất cả những gì cướp được ở kinh thành Thăng Long. Để trả đũa, vào đầu nám 1787, Huệ tấn công Nhạc ở Qui Nhơn, nhưng rồi sau đó cũng cho phép (hoặc có thể cử đi) một số đơn vị quân đội của ông trở ra đất bắc để cướp bóc thêm, bù vào những của cướp được mà ông đã mất vào tay người anh.

“Khi quân Tây Sơn tích lũy đủ đồ dự trữ, cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn tiền bạc, họ bí mật mang chúng đến tổng kho ở Xứ Thanh. Ở đó, sự moi tiền và bạo lực tiếp tục về phía nhà Tây Sơn và quân đội của họ cho đến giữa tháng ba, khi ít nhất là phần lớn những kẻ cướp bóc đó quay về Phú Xuân. Họ trở về với vô số đồ cướp được, lần này tất cả dành cho Đức ông (Nguyễn Huệ), để bù vào phần mất mát mà bạo chúa Nhạc đã thu giữ hoàn toàn trong năm trước”.

Như bức thư đã nêu rõ, chắc chắn những ngôi làng của người Việt và cư dân của chúng đã chịu ảnh hưởng của quân Tây Sơn khi họ sục tìm của cải ở vùng quê, hoặc cho bản thân họ, hoặc cho người lãnh đạo của họ.

Với cuộc tấn công qui mô lớn của nhà Tây Sơn ra phía bắc vào những năm 1787, 1788 và 1789, các vùng Nghệ An và Thanh Hóa nằm giữa Phú Xuân và Thăng Long bị ảnh hưởng nặng nề. Chúng thường xuyên nằm dưới quyền của những đạo quân hùng mạnh, dù thỉnh thoảng cũng được cấp chỉ huy ra lệnh kìm chế, chắc chắn rằng họ cũng gây nhiều thiệt hại cho dân địa phương. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1789 cho thấy một vài ý nghĩa về ảnh hưởng của quân Tây Sơn ở Đàng Ngoài:

“Kẻ địch đi vào các nhà, xem xét và lấy đi những gì họ thích. Đó là khu vực của những ngôi làng nghèo, không có điều kiện cống nộp. Người dân Đàng Ngoài bất hạnh vẫn phải chịu đựng trước lòng tham vô độ của kẻ thù, và của những người Đàng Ngoài chạy theo lính Đàng Trong”*.

Những bức thư khác vào thời kỳ này mô tả những vụ cướp bóc đều đặn, trong đó quân lính lấy cả những thứ tầm thường nhất. Một bài viết năm 1787 kể về chuyện lực lượng Tây Sơn bỏ lại các cơ sở truyền giáo tại địa phương không còn gì hết ngoài mấy cái lọ. Một tài liệu khác của giới giáo sĩ cho biết đã nhìn thấy các ngôi làng bị đốt cháy (có thể đã bị cướp phá) bởi quân Tây Sơn, ba hoặc bốn lần trong khoảng thời gian giữa những năm 1786 và 1792.

Dù cho những vụ cướp phá diễn ra để làm thỏa mãn tính tham lam của quân lính, các tướng lãnh hoặc các nhà lãnh đạo chính trị, chúng thường được thúc đẩy bởi những mối lợi thiết thực hơn. Một hậu quả của cuộc chiến kéo dài vào thời kỳ này là nhu cầu cung cấp đủ đạn dược cho lực lượng của các bên. Để thỏa mãn nhu cầu này, quân đội thường quay sang kho tàng của cộng đồng địa phương, và thường nhất là các điện thờ, đền thờ. Lính thì tịch thu các chuông đồng, trống và các đồ tạo tác khác rồi đem nấu chảy để làm thành đạn đại bác cho các đơn vị pháo binh. Trong những cuộc tấn công đầu tiên vào trung tâm chính trị của nhà Nguyễn, quân Tây Sơn cũng đã lấy đi những đồ tế lễ của triều đình, gồm 9 cái vạc đồng, biểu tượng của tổ tiên của dòng họ Nguyễn. Những đồ vật này có thể được dùng để chế tạo vũ khí và đạn dược, nhưng chúng cũng có thể, và đã được dùng để đúc tiền của chính quyền mới hoặc thậm chí giúp vào việc xây dựng và trang hoàng các trung tâm chính trị của họ. Sự cướp phá của Tây Sơn đưa đến hậu quả là một lượng rất lớn những đồ vật có giá trị bị lấy đi và nấu chảy, cho dù trong một số trường hợp, người nông dân áp dụng các biện pháp để bảo vệ món đồ có giá trị của địa phương. Trước khi quân Tây Sơn động binh, người ta loan truyền tin tức về việc đồ tạo tác trong chùa có thể bị tước đoạt, nhiều làng xã đã áp dụng biện pháp đơn giản là đem chôn giấu các đồ tạo tác cho đến khi mối đe đọa qua đi. Thư của các giáo sĩ mô tả cái cách mà người nông dân dùng để bảo vệ các kho tàng ở địa phương, song những chứng cứ rõ ràng hơn cho thấy những dòng sản phẩm tạo tác như thế đã được khai quật bởi các nhà khảo cổ học đương đại.*

III.3.2. Đánh thuế bằng tiền và hiện vật

Các nhà lãnh đạo chính quyền Tây Sơn cũng có mưu định tiến hành việc bòn rút các khoản hoa lợi dưới hình thức thu thuế. Đây là một công việc phức tạp hơn, đòi hỏi một hạ tầng kiến trúc về thể chế mà nhà Tây Sơn đã khai triển rất chậm. Thêm vào đó, có vẻ như trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, sự cướp bóc và cưỡng đoạt được sử dụng như một biện pháp thay cho việc đánh thuế trực tiếp và có hệ thống. Phải chờ đến năm 1786, chúng ta mới có chứng cứ đầu tiên về nỗ lực thu thuế của nhà Tây Sơn, ở một khu vực và trong những hoàn cảnh mà những nỗ lực này tỏ ra vô cùng khó khăn. Biến động xã hội và chính trị ở Đàng Ngoài khiến cho vùng này dễ bị quân Tây Sơn tấn công và việc hành thu thuế hàng ngày gần như là điều bất khả. Tuy nhiên, điều này không ngăn được việc Nguyễn Huệ bắt đầu bòn rút hoa lợi trong vùng, đặc biệt ở Nghệ An. Có những bài tường thuật cho biết là vào mùa hè năm 1787, Nguyễn Huệ đã sẵn sàng “đánh thuế rất cao bằng lúa và bạc”. Những loại thuế này không hẳn là có tính hệ thống, nhưng chúng được các quan chức Tây Sơn đặt ra ở những nơi mà họ có khả năng buộc người dân phải nộp.

Mặc dù lúc khẳng định quyền lực, chính quyền Tây Sơn gặp không ít khó khăn và bị chống đối, song khi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung vào cuối năm 1788 và đe dọa triều đình nhà Thanh, ông cố gắng bắt đầu việc đánh thuế và thu thuế một cách có hệ thống. Trong một chỉ dụ vào năm 1790, vị tân hoàng đế giải thích nghĩa vụ đóng thuế áp dụng cho các làng xã theo cách phân loại cư dân ở đó. Chỉ dụ cũng nhắm vào các loại thuế đánh trên mùa vụ, dựa vào chất lượng khác nhau của đất trồng và quy định cách hành thu thuế và các loại thuế được cất giữ như thế nào. Rõ ràng là từ văn kiện trên mà nhà Tây Sơn đã xếp đặt lại trật tự của cơ cấu thuế má và hệ thống hóa những gì còn hỗn độn, đặc biệt ở phía bắc vào thập niên 1780. Tuy nhiên, có điều là trước khi vua Quang Trung qua đời vào năm 1792, không rõ việc hành thu thuế đã diễn ra một cách đều đặn như thế nào. Có những tài liệu đơn lẻ viết về gánh nặng thuế khóa, trong đó có Nghệ An, từ vùng này, danh sĩ Nguyễn Thiếp* viết thư cho vua Quang Trung phiền trách ông về việc tăng cao gánh nặng thuế má và những đóng góp bằng sự cưỡng bách*. Trong bất cứ tình huống nào, hệ thống thuế khóa cũng bị phá vỡ vào cuối triều đại, khi những cuộc khủng hoảng quân sự và chính trị trở nên gay gắt.

Ngay cả khi đã khớp lại những nghĩa vụ thuế khóa được chuẩn hóa, chính quyền Tây Sơn vẫn tiếp tục đưa ra những đòi hỏi bổ sung và bất thường để tài trợ các nghi lễ tốn kém của triều đình. Khi người vợ đầu tiên qua đời vào mùa xuân năm 1791, vị hoàng đế Tây Sơn tổ chức một lễ tang rất công phu cùng với thời gian chịu tang tiếp sau, và "những chi phí to tát giáng xuống đầu những người bần cùng. Qua năm tiếp theo, sau cái chết của vua Quang Trung, những sắp đặt hoang phí lại diễn ra ở khu vực quanh kinh thành Phú Xuân để đón nhận sự công nhận chính thức của nhà Thanh cho tân vương là vua Cảnh Thịnh. Những sự chuẩn bị này được một nhà quan sát châu Âu mô tả như là "một kế hoạch được trù liệu nhằm thu thuế từ người dân dưới dạng kim loại bạc và động vật”*. Thật vậy, những sự chuẩn bị này đã không được sứ bộ Tàu đón nhận, mà đơn thuần chỉ là một cuộc diễu hành theo nghi thức để chuyển bản sắc phong đến kinh thành Phú Xuân của nhà Tây Sơn, Dù mục tiêu của những nghi lễ như thế có là gì đi nữa, dân chúng nói chung lại một lần nữa bị buộc phải chịu đựng gánh nặng tài chánh về chuyện này. Những yêu cầu như thế tạo nên một hình thức đánh thuế bất thường, áp đặt thêm một tầng nấc bất ổn lên những người nông dân vốn đang gắng sức với việc lính tráng và lao dịch, thường xuyên và tốn kém thì giờ.

Phổ biến hơn nghĩa vụ thuế má bằng tiền là sự bắt buộc đóng góp hàng hóa và sản vật. Đó là cách thức có từ lâu ở Đại Việt, nhưng đặc biệt ở Đàng Trong, nơi nhiều vùng muốn được nộp một vài loại thuế dưới dạng sản phẩm địa phương, xếp loại từ sáp ong, tổ yến, đến các loại gỗ quý. Nhà Tây Sơn tiếp tục cách làm này trong thời kỳ trị vì của họ. Chẳng hạn như năm 1789, một tài liệu của giới giáo sĩ ở phía bắc Đàng Trong đã viết rằng: “những người Cơ Đốc giáo của chúng ta bị buộc phải đóng góp 10.000 miếng đồng để đúc súng đại bác, và những người Hoa sống ở Việt Nam cũng không được miễn trừ khoản tiền bất công đó". Hai năm sau, cũng từ vùng này, một giáo sĩ khác mô tả những đòi hỏi đặt ra cho những ai sống ở địa phương của ông:

“Chỉ trong cái huyện Bố Chính đơn độc và nhỏ bé, nơi tôi đã ở 15 ngày qua, người dân được lệnh phải đóng hơn 100 thuyền nhỏ: những con người khốn khổ đó và tất cả những tín đồ Cơ Đốc giáo bất hạnh của chúng ta đã không thể thu hoạch vụ mùa liên tục vào tháng 10 và tháng 5 năm sau và có lẽ cũng mất luôn cả những gì tiếp sau tháng 10. Trước đây, họ chưa bao giờ chịu đựng một gánh nặng lấn lao đến thế: số ván mà họ phải có trong nỗ lực này là 2.500 tấm... Ngoài những tấm ván này, mọi người phải tìm ra mọi thứ để làm ra sản phẩm”.

Rõ ràng là từ tài liệu miêu tả này, khu vực đặc biệt đó bị buộc phải đóng góp những tài nguyên có giá trị của địa phương, và vì thế, huyện Bố Chính, một khu rừng núi cây cối rậm rạp ở phía bắc Phú Xuân, đã được yêu cầu cung cấp gỗ để đóng thuyền. Cũng như đã mô tả trước đây, những người bị buộc phải lao dịch tại kinh đô mới của vua Quang Trung ở Nghệ An không chỉ đóng góp công sức mà còn phải đóng góp cả vật chất và tiền bạc để hoàn thành các dự án xây dựng. Những tài liệu này cũng cho thấy mức độ của những đòi hỏi như thế đối với các nhóm người đặc biệt trong xã hội, như người Cơ Đốc giáo, một chủ đề quan trọng sẽ được trình bày chi tiết hơn ở chương sau.

III.3.3. Tham nhũng: Những hạn chế của chính quyền Tây Sơn

Hình thức bòn rút tài nguyên cuối cùng, và là một trong những hình thức rộng khắp, đó là tình trạng tham nhũng của những quan chức phục vụ cho chính quyền Tây Sơn. Tham nhũng là một phạm trù rộng rãi, được xếp từ những chuyện nhỏ nhặt như việc lợi dụng sự ủy nhiệm thu thuế của nhà nước đến những việc moi tiền triệt để hơn. Tham nhũng xuất phát từ một chính quyền trung ương yếu ớt và là một đề tài kéo dài trong lịch sử Việt Nam. Người ta tìm thấy tham nhũng ở cả những triều đại suy tàn lẫn những chính quyền tân lập đang tìm cách khẳng định quyền lực và cơ cấu lại chính quyền của họ. Cố nhiên là chính quyền Tây Sơn đã gặp phải nhiều trở lực ngăn cản họ chặn đứng nạn tham nhũng ngay từ lúc khởi đầu cuộc nổi dậy. Sự rối loạn trật tự xã hội lớn lao và những dịch chuyển ở khắp các vùng trong nước khiến cho công việc của họ đặc biệt khó khăn, nhưng sự thiếu thốn những quan chức được đào luyện, sự tiếp tục tin tưởng vào những người ủng hộ chỉ có một kỹ năng hành chánh hạn chế, chiến tranh tiếp diễn và sự thiếu vắng một cơ cấu tư pháp vận hành tốt, tất cả kết hợp thành những vấn đề mà chính quyền Tây Sơn phải đương đầu. Hậu quả là tình trạng tham nhũng không ngừng, lần hồi mang lại sự oán giận cho những người dân mà các lãnh đạo Tây Sơn vẫn tuyên bố là đang ủng hộ họ, và tiếp tục khuấy động nồi bất bình của dân chúng, làm dấy lên sự mong muốn có một sự cải tiến nào đó.

Sự thất bại của chính quyền Tây Sơn trong việc kiểm soát nạn tham nhũng có thể qui cho tính cấp bách của cuộc chiến đang tiếp diễn, cách làm việc quan liêu của các lãnh tụ cuộc nổi dậy cùng những người phụ tá thân cận của họ, cả hai đã tạo ra một cơ cấu hành chánh có tính đối phó ở nhiều nơi. Như Charles Chapman đã nhận xét về chính quyền Tây Sơn mà ông đã gặp trong chuyến viếng thăm triều đình của Nguyễn Nhạc tại Chà Bàn vào năm 1778:

“Nguyễn Nhạc tự cho mình có nhiều thẩm quyền, nhưng đó là những thẩm quyền được thi hành kém bởi những quan chức cai trị dưới quyền ông. Họ toàn là những người ít học được chọn lựa trong số những cư dân ở làng sinh quán Tây Sơn của ông, một khi nắm quyền hành thì chỉ được biết đến nhiều qua tính xảo trá, sự hung bạo và hành vi moi tiền, và nếu ở xa, họ không dễ dàng thừa nhận sự lệ thuộc vào những bàn tay đã nâng đỡ họ”.

Nói tóm lại, nhà nước Tây Sơn buổi đầu được xem như được cai trị bởi những quan chức không học vấn, hung bạo và tham nhũng, không mấy quan tâm đến các chỉ thị từ chính quyền trung ương. Ngoài ra, đây là mô hình kéo dài suốt thời kỳ Tây Sơn và về thực chất không khác với chính quyền do Nguyễn Huệ thiết lập ở Đàng Ngoài. Một giáo sĩ Pháp mô tả chính quyền này vào năm 1789 đã lặp lại phần nhiều nhận định của Chapman vào năm 1778 về chính quyền của Nguyễn Nhạc “những kẻ mọi rợ này xuất phát từ những dãy núi ở Đàng Trong và chẳng biết sắp xếp việc cai trị là gì”. Mặc dù có những nơi mà cơ cấu hành chánh phát triển đầy đủ hơn - bao gồm khu vực quanh Thăng Long dưới triều Quang Trung và người kế tục ông - nhiều nơi khác ít may mắn hơn do khí chất những quan chức phục vụ ở đó.

Hình 8: Quan lại Tây Sơn, 1793. Tranh vẽ của William Alexander, người đã tháp tùng phái bộ Huân tước McCartney trong lần viếng thăm cung điện của vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân năm 1793. (Sưu tập của tác giả.)

Sự tham nhũng có tính hệ thống trong chính thể nhà Tây Sơn được khuyến khích bởi sự yếu kém trong thể chế của họ và sự bất lực của các nhà lãnh đạo trong việc tạo ra một hệ thống tư pháp, không bắt được mọi người tuân thủ một cách hữu hiệu. Có những dấu hiệu cho thấy một bộ luật mới đã được soạn thảo vào thời điểm sau khi vua Quang Trung nắm lấy quyền bính, nhưng nó đã không bao giờ được phổ biến chính thức*. Sự thiếu vắng một cơ cấu luật pháp khả thi có nghĩa rằng sẽ rất khó mà kiểm soát nạn tham nhũng trong bộ máy công quyền. Sách Tây Sơn thuật lược nhận xét về chính quyền Quang Trung là: “Không lập pháp lịnh điều ước, việc thưa kiện đều do miệng ngài phân xử, tội tù thì phần nhiều dùng đòn mà đánh để trừng trị”. Năm 1789, thư của các giáo sĩ cũng viết rằng hệ thống tư pháp hoặc không còn tồn tại, hoặc ở hình thức sơ khai, được thi hành bởi những người có năng lực hạn chế, nhiều người trong số họ không biết đọc, cũng chẳng biết viết. Một thập niên sau, tình hình cũng không khá hơn, điều này được phản ánh trong một tài liệu miêu tả của giới giáo sĩ về cơ cấu luật pháp vô cùng mục nát: “Tất cả quan lại tìm cách làm giàu cho bản thân mình bằng tiền của của dân nghèo. Công lý được tính bằng cân lượng của vàng và cán cân luôn nghiêng về những ai cống nộp nhiều tiền”.

Đặc biệt ở Đàng Ngoài, có nhiều bài tường thuật về những việc làm sai trái vào thời kỳ Tây Sơn (1786-1802), và những bình luận thường xuyên của các quan sát viên cả người Việt lẫn người nước ngoài đều đưa ra nhận xét là các quan chức địa phương được huấn luyện rất kém và thường là dễ hối lộ. Một vài sáng kiến cai trị của nhà Tây Sơn chỉ làm tình hình thêm nghiêm trọng và không ở đâu tệ hại hơn ở Nghệ An. Cuối năm 1789, Nguyễn Thiếp trình bày trực tiếp với vua Quang Trung những vấn đề liên quan đến các quan chức địa phương làm việc ở trấn này: “Quan càng nhiều thì dân càng bị nhiễu. Quyền nghi, công việc bất nhất; tướng, hiệu, quan, lại không có kiềm thúc”. Những vấn đề này phát xuất một phần từ quyết định của nhà Tây Sơn chia Nghệ An ra 12 huyện. Nguyễn Thiếp thấy rõ mối quan hệ giữa một cơ cấu quan liêu rộng lớn và sự áp bức ngày càng gia tăng mà người dân nói chung đang phải gánh chịu. Những vấn đề này càng phức tạp hơn khi Nghệ An nằm trên đường đi trực tiếp của các chiến dịch quân sự lớn của nhà Tây Sơn giữa những năm 1786 và 1789. Trong thời kỳ này, quân Tây Sơn đi qua Nghệ An 8 lần, mỗi lần một gây ra nhiều khó khăn hơn cho cư dân địa phương.

Có thể để đáp lại thư của Nguyễn Thiếp, hoặc có lẽ do nghe được những thông tin này, triều Quang Trung ra lệnh điều tra sâu rộng chuyện tham nhũng của quan chức ở trấn này. Cây bút Bùi Dương Lịch miêu tả như sau về phản ứng của nhà Tây Sơn đối với những vấn đề này, bắt đầu vào những tháng 6, 7 năm 1790:

"Trước đó, những quan chức cao cấp nhất đã tự tay thảo một chỉ dụ với những nét chữ bằng mực son bí mật ra lệnh cho tất cả các quan trấn thủ phải kiềm chế nạn tham nhũng. Tất cả quan lại trong trấn ra lệnh cho quan chức ba ty trong vùng phải đi ra ngoài để thăm hỏi cư dân ở các thôn ấp để mọi người có thể chỉ ra những ty sở nào ăn hối lộ. Các quan lại bí mật điều tra, thu thập các kiến nghị, lời thỉnh cầu rồi mang trở về cho các quan ở trấn. Tất cả các quan ở trấn lại gửi về cho các quan huyện để sắp xếp các nơi cần tiến hành điều tra”.

Từ văn kiện này, hình như chính quyền Tây Sơn dưới triều Quang Trung đã tích cực tìm cách giải quyết vấn đề tham nhũng, đặc biệt tại Nghệ An. Cách đáp ứng của nhà Tây Sơn cố nhiên là phát xuất từ sự trân trọng của vua Quang Trung đối với lời khuyên của Nguyễn Thiếp, cũng như tình trạng của Nghệ An như là kinh đô trung tâm trong tương lai của ông vậy. Đây là một khu vực mà dân chúng rất cần có một đời sống ổn định.

Cho dù có những cuộc điều tra này, tình hình cũng không cải thiện. Nguyễn Thiếp gửi thêm một kiến nghị thứ hai cho vua Quang Trung vào năm 1791, trong đó lặp lại ngôn ngữ mà ông đã sử dụng trong thư viết năm 1789, ông viết rằng dân chúng vẫn còn phải chịu đựng hai gánh nặng quân vụ và sự cưỡng bách trưng dụng vào quân đội Tây Sơn. Nỗi khốn khổ của họ tiếp tục được tăng lên qua những cơn hạn hán làm hư hại mùa màng. Nguyễn Thiếp chỉ trích chính quyền Tây Sơn đã không đáp ứng thích đáng nhữngyêu cầu của người dân. Chính quyền đã không hỗ trợ những người nông dân bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc không tiến hành các bước hạ giảm thuế má. Nguyễn Thiếp cũng thúc giục vua Quang Trung giảm nhẹ mức đóng góp bắt buộc tỷ lệ với những khó khăn mà mỗi người dân phải gánh chịu. Cuối cùng thì tình hình trong trấn khó khăn đến mức dân chúng đã đứng lên làm loạn, chống lại một viên quan đặc biệt tham nhũng của nhà Tây Sơn vào năm 1791*. Đây là một hành động hiếm hoi nói lên sự thách thức công khai của người dân đối với chính quyền nhà Tây Sơn, vì người dân chỉ biết nhiều về nhà nước quân phiệt mà họ đang sống. Cuộc nổi loạn cho thấy tình hình khó khăn đến mức nào đối với cư dân sống tại địa phương. Năm 1797, các bản tường thuật vẫn còn cho thấy rằng dân chúng tiếp tục sống trong gian khổ vì các quan chức địa phương của nhà Tây Sơn chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của họ.*