Chương 4 BỒ ĐÀO NHA
Ngoài chuyến đi tới đảo Chio, Colombo đã thực hiện nhiều chuyến đi khác trong Địa Trung Hải. Qua những bản viết của ông, chúng ta biết ông đã biết tất cả bờ biển phía tây Genova tới tận Catalogna. Ông cũng đã biết Corsica, Sardegna, Napoli và Sicilia và bờ biển Barberia. Ông không bao giờ nói về Roma, và do đó chúng ta tin rằng ông không bao giờ có dịp lên bờ tại Civitavecchia (Si-ví-ta-vếc-ki-a), hoặc trên bờ sông Tevere.
Cuốn Lịch sử mà người ta cho là do con trai ông, Don Ferdnando, viết, nói về một cuộc tấn công do Renato d’Angiò (Rê-na-tô Đan-giô) ra lệnh chống một chiếc tàu trong vịnh Tunisie, nhưng một số người bảo lưu sự kiện này. Mặc dù có thể có sự nói quá hay huênh hoang đã xuyên tạc sự kiện, nhưng không có lý do để sự kiện đó không thể xẩy ra. Từ 1470 đến 1480, Genova thưòng xuyên có chiến tranh với Aragon và liên minh với Angiò. Bằng cách phục vụ Angiò, Colombo đi theo chính sách của thành phố Angiò và phái của cha ông này.
Mùa hè năm 1476, Colombo rời Địa Trung Hải lần đầu tiên, đi vào Đại Tây Dương. Một cuộc khảo sát thương mại đến nước Anh đã được tổ chúc tại Genova vào mùa xuân; có một đoàn tàu nhỏ, gồm một tàu ga-lê thuộc Gioffredo Spinola (Giốp-phò-re-đô Xpi-nô-la), một tàu săn cá voi thuộc Nicoiò Spinola, một tàu ga-lê thuộc Teramo Squarciafico (Tê-ra-mô Xquac-si-a-phi-cô), và tàu ga-lê Bettinella (Bét-ti-nen-la) do Gian Antonio Di Negro chỉ huy. Cũng có một chiếc tàu nguồn gốc Flandres, gọi là chiếc Bechalla, được trang bị tại vịnh Noli, thuyền viên chủ yếu là những thủy thủ Savona, do Cristoforo Salvago chiỉ huy.
Ta có thể tưởng tượng sự xúc động của Colombo khi tàu qua eo Gibralta trong chuyến đi đầu tiên của ông vào Đại Tây Dương. Biển khơi nằm ở bên kia, không phải là một trong những đại dương mà chỉ là Đại Dương - vì ba đại dương kia, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương, chưa được biết đến- Đại Dương mà Colombo một ngày kia trở thành Đô Đốc. Những chiếc tàu đi theo hướng tây bắc đến mũi St. Vincent, mũi cực nam của Bồ Đào Nha. Đó là ngày 13 tháng 8 năm 1476.
Giữa mũi Santa Maria và mũi St.Vincent bất ngờ đoàn tàu bị một đội tàu của hải tặc Pháp tấn công. Genova vẫn hòa bình với Bồ Đào Nha và Pháp, nhưng hoặc vì họ hiểu nhầm ý định của đoàn tàu Genova, hay đơn thuần bị lôi cuốn bởi một phần thưởng có giá trị, nên người Pháp đã khai chiến. Những người Genova đã chống cự một cách kiên quyết. Khi màn đêm buông xuống, trận chiến đã kết thúc một cách thê thảm cho cả đôi bên. Trong số năm tàu của Genova chỉ có hai chiếc trốn được đến Cadice (Ca-đi-sê) ở Castiglia; ba chiếc kia bị cháy và chìm và nhiều người trong đoàn thủy thủ bị chết đuối. Bốn chiếc tàu của đoàn tàu hải tặc (theo một tài liệu khác là năm chiếc) bị chìm và hàng trăm người bị chết.
Một số người trên tàu bị nạn trong đó có Colombo, đã được những ngư dân từ làng Lagos của Bồ Đào Nha cứu. Sau này trong một bức thư gửi vua Ferdinando của Tây Ban Nha tháng 5 năm 1505, Colombo đã viết về việc ông may mắn đến bờ biển Bồ Đào Nha: ‘‘Chúa đã đưa tôi đến đây một cách kỳ diệu để tôi có thể phục vụ Bệ Hạ; tôi nói kỳ diệu, vì tôi đã đổ bộ lên bờ biển Bồ Đào Nha’’. Kỳ diệu và đổ bộ - chữ thứ nhất dùng hai lần - nói rõ ràng và không thể nhầm lẫn việc viên Đô đốc tương lai đã đến bờ biển Bồ Đào Nha một cách bất ngờ trong hoàn cảnh may mắn như thế nào. Như vậy, ngày 13 tháng 8 năm 1476 là một ngày đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Colombo.
Người tín ngưởng thấy bàn tay của Chúa Thánh Thần trong tai nạn tàu biển của nhà thủy thủ Genova trên bờ biển Lagos. Người hoài nghi thấy trong tai nạn ấy vai trò đáng ngạc nhiên và có một không hai của sự tình cờ trong lịch sử. Lagos là một làng đánh cá tại cửa một con sông nhỏ. Ngu dân cột thuyền của họ ở sông, nước sông chảy nhẹ nhàng vào vịnh. Những ngôi nhà thì nghèo nàn, như những ngôi nhà của những làng chài khác trên bờ Địa Trung Hải. Vịnh rộng và yên tĩnh. Có vẻ vịnh không mở vào đại dương, nhưng vịnh đã bị cột vào lịch sử của Đại Tây Dương: từ đây đã xuất phát nhiều cuộc khảo sát do Henry, Nhà đi Biển, tổ chức.
Henry, Nhà đi biển, Hoàng tử Henry của Bồ Đào Nha - Colombo có biết gì về ông ta hay không? Colombo có thể đã biết về ông, vì những thủy thủ của Đại Tây Dương đã nói về ông. Henry là một phần của lịch sử và hơn nữa, ông ta là của huyền thoại và truyền thuyết. Nhưng nếu Colombo chưa biết gì về ông trước đó, chắc chắn ông đã nghe thấy tên Henry và những câu chuyện về những công việc của Henry từ miệng ngư dân Lagos. Không quá mười lăm dặm cách làng Lagos là Sagres và mũi Vincent, nơi đây Henry đã sống nhiều năm cuộc đời mình và đã thiết lập trụ sở để tiến hành nghiên cứu và tổ chức những cuộc phát kiến của ông.
Cuộc đời và những công trình của Henry, Nhà đi biển, phản ánh sự nghiệp của ông và lịch sử của Bồ Đào Nha. Ông đã tập hợp những hoa tiêu, những thuyền trưởng đi biển, những nhà chuyên vẽ bản đồ, những nhà thiên văn và những thủy thủ thuộc mọi nguồn gốc: Bồ Đào Nha, Catalogua, Genova, Venezia, người Do Thái và người Saracen. Ông có những thông tín viên từ những nơi xa như Abissinia (A-bit-xi-ni-a) và vịnh Ba-tư. Triều đình của ông trở thành một trung tâm phát triển hàng hải và kinh nghiệm thuộc địa.
Mặc dù không phải là nhà hàng hải hay nhà thám hiểm, Henry đã nổi tiếng vì đã đưa ra một loại tàu mới, loại tàu nhỏ; loại tàu này nhẹ và nhanh, thích hợp cho việc đi biển khơi. Ông cũng là người đầu tiên lập ra và hệ thống hóa những phương pháp thương mại thực dân hóa mới, thay cho những phương pháp phong kiến: đồn trú, chuyển nhượng, công ty và độc quyền. Henry đã cho những nhà vẽ bản đồ một phương hướng mới, một thích thú mới về những bờ biển châu Phi mé Đại Tây Dương.
Vào cuối thời Trung cổ, những người Amalfia, Pisa, Venezia và Genova và sau này những người Firenze đã dốc tâm trí vào việc vẽ bản đồ. Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, những người Genova là những người đi đầu trong khoa vẽ bản đồ. Những nhà vẽ bản đồ người Do Thái của Maiorca đã học tập và phổ biến nghệ thuật của họ từ Genova. Trường phái Genova cũng làm nảy sinh ra trường phái Catalan của Barcelona, trường phái Bồ Đào Nha của Lisbon, trường phái Á-rập, và sau này trường phái Flandres.
Tôi đã nói rằng không phải ngẫu nhiên mà nhà phát kiến vĩ đại trong lịch sử đã sinh ra và lớn lên tại Genova, vì Genova đã là thủ đô của khoa vẽ bản đồ và khoa vũ trụ học từ đầu thời Trung cổ. Và không phải chỉ là sự trùng hợp mà chúng ta thấy người anh em của Colombo, Bartolomeo, cùng với ông tại Lisbon. Nghệ thuật vũ trụ học và nghệ thuật vẽ bản đồ hàng hải đã hình thành một mối quan hệ chặt chẽ giữa Genova và Bồ Đào Nha, quan trọng hơn mới quan hệ do thương mại và tài chính tạo ra. Henry còn làm cho mối quan hệ này chặt chẽ hơn nữa; mối quan hệ ấy lên tới đỉnh cao nhất trong việc thai nghén sự nghiệp vĩ đại của Colombo: điều chắc chắn là ở bên kia sa mạc, ở bên kia vùng khô nóng là vùng đất phì nhiêu, có thể ở được và biển có thể đi lại được bằng tàu biển.
Không may trong nhiều thế kỷ, những người ngoài giới học giả đã nghĩ rằng Colombo là người đầu tiên, hay trong số những người đầu tiên, cảm thấy quả đất tròn. Lòng tin đó là sai. Những nhà địa lý học cổ điển biết hoàn toàn rõ ràng, rằng quả đất tròn. Trong thời Trung cổ, khái niệm đó đã bị bỏ quên, nhưng vào giữa thế kỷ XV, khái niệm đó là một nguyên tắc đã được xác lập trong số các nhà địa lý học và các học giả nói chung. Vậy thì bằng cách giả thiết rằng quả đất tròn, Colombo không làm gì hơn là liên kết mình với tư tưởng chiếm ưu thế đó.
Sau này, chúng ta sẽ thấy rằng Colombo tự đặt mình một cách dũng cảm chống lại những quan niệm địa lý học của Tolemeo và Trung cổ trong niềm tin của ông cho rằng vùng đất đối chân (1) là có thể ở được và có thể tới được, ở đây tôi sẽ chỉ đơn thuần nhấn mạnh ba nguyên tắc chính của địa lý học cổ điển: trái đất là một khối tròn, nam bán cầu là không thể ở được, và những điểm đối chân cũng như vậy.
Những người Fenici (Phê-ni-si), người Hy Lạp, người La Mã và người Công giáo chỉ biết rằng một biển cát mênh mông nằm ở phương nam. Những bờ biển về phía Đại dương là cát - khi chúng không phải là mũi đá hoặc không có một tí cây cở nào.
Ở phía nam của Mauritania (Mao-ri-ta-ni): Cát. Phía nam của Namidia: cát. Phía nam của Libia: cát. Phía nam Ai cập: Nubia, tất cả là cát, ở cả hai bên dài hẹp dọc theo sông Nin. Từ thời Cổ đại cho đến năm 1400 sau Công nguyên, miền đất duy nhất ở miền nam sa mạc Nubia được biết có cây cỏ và cuộc sống là Ethiopia, một vùng đất được coi gần như huyền thoại. Trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XV, chưa ai biết gì về Ghinê. Sa mạc mênh mông đã làm cho những thế giới thuộc nền văn minh Hy Lạp - La mã - Công giáo và châu Phi đều không biết nhau.
Bằng đường bộ, Marco Polo đã tới được Trung Quốc và Nhật Bản. Bằng đường bộ và đường biển, người Hy Lạp đã tới Ấn Độ. Bằng đường bộ, những nhà truyền đạo Gia tô đã tới Vòng Bắc cực và những đồng cỏ xa hơn nữa của nước Nga. Bằng đường biển, những hải tặc bán đảo Scandinave đã tới Greenland và những bờ biển băng giá Bắc Mỹ. Bằng cách đi ngược dòng sông Nin và vượt qua Hồng Hải, những nhà truyền đạo Thiên chúa giáo đã truyền đạo tại Ethiopia. Nhưng không một ai đã đến những vùng đất phì nhiêu ở miền trung và miền tây Phi và những con sông lớn ở miền Nam Sahara.
Những sông lớn ở châu Á và châu Âu thì nhiều, nhưng người ta chỉ biết một con sông duy nhất, sông Nin được biết ở châu Phi. Vì có vẻ kỳ lạ là một lục địa mà chỉ có một con sông, và logic hơn là lục địa đó không có con sông nào, nên đã xuất hiện lòng tin cho rằng Ai Cập là một phần của Châu Á. Châu Phi được coi là bắt đầu từ miền tây của đồng bằng sông Nin phì nhiêu, với sa mạc Libi, nơi bắt đầu của Sahara mênh mông.
Địa Trung Hải, Hồng Hải, vịnh Ba Tư, eo biển nước Anh, Bắc Hải, biển Ban Tích và chính Bắc Đại Tây Dương, những vùng nước này là những con kênh thông tin liên lạc mở cho các chủng tộc và các nền văn minh. Trong khi biển có thể đi lại được bằng tàu biển, còn biển cát và sa mạc thì không. Giả thiết nếu những nhà buôn Carthage thế kỷ thứ V trước Công nguyên, những nhà truyền đạo Công giáo đương thời với Thánh Augustino, những hiệp sĩ Á rập của những vua Hồi giáo, hoặc những người thừa kế của nhà Tiên tri đã tìm thấy biển ở miền nam Mauritania, Numidia, hoặc Libia, tất cả sẽ khác. Biển sẽ không cản trở họ như sa mạc.
Và như vậy sự hiểu biết của những thế giới Công giáo và Á rập đã không đi quá những vùng có nước trên sa mạc ở miền bắc. Những vùng đất sa mạc hoang vu cằn cỗi, hoang vu hơn ở về phía nam và sự thiếu cây cỏ đã thuyết phục những nhà triết học Hy Lạp rằng toàn bộ vùng đất khô nóng là không thể ở được. Aristote và nhà địa lý học vĩ đại Tolomeo nói như vậy. Những người Á rập, là những tín đồ trung thành của Aristote, và thậm chí cả Alberto Magno (An-béc-tô Ma-nhô), đã chấp nhận những tin tưởng của các nhà triết học ấy, trong thế kỷ thứ XIII, Alberto Magno vẫn nghi ngờ cuộc sống liệu có thể tồn tại trên những bờ biển và đảo của vùng đất khô nóng hay không.
Hậu quả là khi những nhà hàng hải Bồ Đào Nha tới cửa sông Sénégal, đó là một phát hiện lớn đối với họ. Việc đó còn cho một sự tương phản rõ ràng, một trong những tương phản sắc bén nhất trong thiên nhiên. Hãy tưởng tượng điều gì phải xảy ra đối với những nhà phát hiện đầu tiên khi trông thấy cây cỏ xanh tốt tại những cửa sông Sénégal và Gambia sau những núi đá ở Marocco và cát ở Sahara mà họ đã cho là vô tận. Họ có cảm giác giống những người man di từ trên núi Alpes xuống hay không? Không, vì những người man di đã biết rằng tại nước Ý, họ sẽ thấy một vùng đất có mặt trời và những bầu trời xanh. Họ có cảm giác giống như những con người đầu tiên trên mặt trăng hay không? Không, vì những nhà du hành vũ trụ đã có một ý nghĩ tốt về những gì họ sẽ tìm thấy ở đó.
Tương phản lại, những người Cổ đại và Trung cổ tin rằng về phương nam, trái đất đã kết thúc bằng vùng khô nóng. Lòng tin đó vẫn vững vàng trong số những thủy thủ của Thế giới Công giáo cho đến thời điểm lớn năm 1444, khi Dinis Dias, một ông tổ của họ Bartolomeo, được nhiều người biết đến, đã đến cửa sông Sénégal ở Cape Verde. Chiếc thuyền buồm của ông là một vật kỳ diệu đối với những người châu Phi. Bốn trong số những người dũng cảm nhất đã đến gần con quái vật đi được trên mặt nước; họ không hiểu đó là một con cá, một con chim, hay một con ma, và khi họ trông thấy người trên thuyền họ quay lại và chạy trốn một cách cấp tấp đến nỗi những người Bồ Đào Nha không thể nào đuổi bắt được họ.
Những người châu Âu đã đến trên đất của những người da đen, nhưng tầm quan trọng của cuộc phát hiện phần chính là à cây cỏ nhiệt đới mọc xanh tốt mà người ta không ngờ và cho đến lúc đó không ai tưởng tượng được đã tồn tại ở châu Phi. Chỉ cách đường xích đạo mười lăm độ,- trong vùng khô nóng, cây cỏ phong phú đã nuôi dưỡng nhiều động vật lớn và những con người khỏe đẹp. Gặp phải thực tế ở Cape Verde (ngày nay là Dakar), những học thuyết của Aristote và Tolomeo liệu còn có giá trị gì? Như Ruge, nhà địa lý học vĩ đại người Đức thế kỷ XIX, đã bình luận một cách ngắn gọn và đầy ý nghĩa, những học thuyết đó đã tan vỡ trên núi đá của Cape Verde. Không những địa lý học Trung cổ, mà cả giáo điều cổ điển Hy lạp cho rằng Nam bán cầu là không thể ở được đã bị chôn vùi dưới bóng những cây cỏ đó.
Những phát hiện của Henry, nhà Hàng hải, và trực giác của Colombo gặp nhau ở đây: với hành trang của thời Cổ đại bị chôn vùi, một chân trời mới đã mở ra cho sự phát triển của địa lý học khoa học. Con người đã bắt đầu tin vào chính mắt mình hơn, hơn là những lý thuyết của người Cổ đại.
Chú thích:
[1] Vùng đất đối chân: Dịch chữ antipodi, điểm đối xứng tương ứng ở mặt bên kia của trái đất (vì trái đất là một khối tròn)