← Quay lại trang sách

Chương 21 HUYỀN THOẠI VỀ VÀNG- -

Một số người đã nói không đúng là Colombo bị lừa về chuyện vàng trong chuyến đi thứ nhất. Đúng, Colombo đã không tìm thấy những mái nhà và những chiếc cầu bằng vàng, đồ sứ có khảm vàng, như Marco Polo miêu tả, hay những mỏ vàng. Nhưng ông cũng đã tìm thấy vàng ngay từ đầu. Dân cư thuộc quần đảo Bahamas và đảo Cuba có vàng, nhưng phải nhận là số lượng ít. Họ chất phác, gần như nguyên thủy trong cách ăn mặc. Colombo nhấn mạnh việc họ trần truồng làm một lý do. Hình như Colombo đã nghĩ rằng những người dân ở đây trần truồng và nghèo khổ, tự trang điểm cho mình bằng những miếng vàng nhỏ; ai biết chúng ta sẽ tìm thấy bao nhiều vàng tại một nơi mà nền văn minh và cách ăn mặc tương xứng với những miêu tả của Marco Polo? Thực tế có vẻ hỗ trợ cho lòng tin này. Trên đảo Haiti, đất đai được trồng trọt khắp nơi, những người Anh-diêng đẹp hơn, được ăn uống tốt hơn và là những người buôn bán sắc sảo hơn. Ở đấy trình độ văn minh tỏ ra cao hơn và nông thôn giống châu Âu, cuối cùng những người Genova đã tìm thấy vàng.

Ngày 12 tháng 12, thủy thủ đã bắt người phụ nữ đẹp nhất cuộc hành trình rồi thả người này ra; người phụ nữ này có một miếng vàng nhỏ trong mũi, ‘‘chứng cứ rõ rằng là có vàng trên đảo’’. Ngày 17 tháng 12 Nhật ký nêu một sự kiện đã được kể lại trước đó về một tù trưởng đổi chác một lá vàng cắt thành từng miếng nhỏ. Cùng ngày, những người Anh-diêng nói trên đảo Tortuga có vàng; đảo nhỏ này ở ngoài khơi phía Tây-bắc đảo Haiti sau này trở thành căn cứ nổi tiếng của bọn cướp biển. Ngày 18 tháng 12 một tù trưởng cho viên Đô đốc một thắt lưng có hai miếng vàng chạm trổ. Ngày 21 tháng 12 một thôn trưởng người Anh-diêng đã tiếp những đại diện của Đô đốc tại làng ông ta và ‘‘biếu họ một số mảnh vàng’’. Ngày 22 tháng 12 Nhật ký ghi lại rằng những người Anh-diêng đã đổi một số miếng vàng lấy sáu hột cườm bằng thủy tinh, và một tù trưởng đã cho những người Tây Ban Nha ‘‘ba con ngỗng rất béo và một số mảnh vàng’’. Ngày 23 tháng 12 viên Đô đốc cử hai người Anh-diêng đến những làng ở gần các tàu, khi trở về họ nói rằng ở những làng đó có nhiều vàng.

Những sự kiện tương tự xảy ra hàng ngày. Đặc biệt có ý nghĩa là món quà tù trưởng Guacanagari tặng Colombo ngày 22 tháng 12. Món quà ấy được gia công khéo léo tuyệt vời chưa từng thấy. Một dây đai bằng bông có dính những xương cá màu trắng và đỏ, dây đai dệt như một áo lễ Castiglia thêu bằng những chỉ vang. Dây đai rộng bốn ngón tay và dệt chặt đến nổi một phát súng hỏa mai cũng không chọc thủng được. Ở giữa dây đai là một mặt nạ có tai, lưỡi, và mũi bằng vàng đặc.

Colomho bắt đầu tin rằng cuối cùng ông đã tìm đến vùng đất ở đó vàng được khai thác từ các mỏ. Những cư dân vùng bờ biển bây giờ không chỉ ra các đảo nữa mà chỉ một vùng ở ngay trong đất liền mà họ cho nó một cái tên Cibao. Một lần nữa sự tình cờ lại lừa dối. Người Genova này cũng có phần trách nhiệm vì lúc nào cũng sẵn sàng tìm ngay điều ông đang mong ước. Những người Anh-diêng nói Cibao và ông dịch là "Cipango". Đó là ngày 28 tháng 12. Rôi tàu của ông bị hỏng (về sự kiện này tôi sẽ nói ở dưới). Người tù trưởng biết Colombo muốn nhiều vàng, cho nên ngày 26 tháng 12, để làm cho ông vui lòng người tù trưởng đã ra hiệu chỉ rõ địa phương có nhiều vàng không cách xa lắm và chắc Colombo hài lòng vì ông sẽ toại nguyện muốn có bao nhiêu vàng cũng được.

Nhật ký ngày 26 tháng 12 ghi rằng viên Đô đốc đã nhận "một mặt nạ lớn có những cục vàng lớn ở tai, mắt và những chỗ khác nữa; người tù trưởng cho ông cái mặt nạ cùng với những đồ trang sức bằng vàng mà ông ta đeo trên đầu và chung quanh cổ; ông ta còn cho những người Công giáo khác nhiều châu báu. Như thế viên Đô đốc hài lòng và được an ủi. Hai ngày sau, viên Đô đốc nhận được một "đĩa lớn bằng vàng".

Ngày 29 tháng 12, một người cháu trai của viên tù trưởng nói rằng một cuộc hành trình bốn ngay về phía đông sẻ dẫn đến một hòn đảo gọi là Guarione, và có những đảo khác trên đó người ta thấy vô số vàng …có rất nhiều và tại nhiều nơi, trên đảo Hispaniola này. Viên Đô đốc viết: "đến nỗi đó là một kỳ quan". Ngày 30 tháng 12 "hai tù trưởng đến Guacanagari vào buổi sáng và đến viên Đô đốc, mỗi tù trưởng biếu viên Đô đốc một cái đĩa lớn bằng vàng". Như vậy, Haïti có vàng, với số lượng đáng kể.

Vấn đề vàng có một vị tri đặc biệt và khác thường trong kinh nghiệm của Colombo, bắt đầu từ cuộc hành trình thứ nhất. Người ta có thể thảo luận dài dòng, và không bao giờ đi đến một câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi điều gì chiếm hàng đầu trong tâm trí ông: tham vọng hay tự hào, tính hiếu kỳ khoa học hay tinh thần mạo hiểm, một sự say mê với điều chưa biết hay cảm giác thần bí cho là mình được chọn cho một sứ mệnh thiêng liêng. Ở những thời gian khác nhau, một trong những động cơ này chiếm ưu thế, hoặc có lẽ tất cả những động cơ ấy cùng hiện diện đồng thời. Một điều chắc chắn là việc tìm vàng tự nó không phải là một mục tiêu. Là một người Genova thực sự Colombo biết cách theo những lợi ích riêng của bản thân; ông mong ước chiếm lĩnh của cải cho bản thân và cho con cháu. Điều đó không thể phủ nhận, nhưng không phải là mối quan tâm đầu tiên của ông. Đó không phải là động lực duy nhất mà là một trong những động lực, và cũng không phải là động lực quan trọng nhất. Những động lực quan trọng nhất- chúng ta phải nhắc lại những động lực ấy - là tham vọng, lòng tự hào, tính hiếu kỳ khoa học, tinh thần mạo hiểm, sự say mê với điều chưa biết và cảm giác thần bí rằng mình được chọn cho một sứ mệnh thiêng liêng. Động lực cuối cùng này là một phần của thế giới quan bắt nguồn từ Gioachino da Fiore, mà Colombo cũng như nhiều người thuộc dòng tu Francesco cùng thời với ông đã chịu ảnh hưởng một cách có ý thức.

Chắc chắn Colombo tìm vàng, một sự ám ảnh thần bí chiếm lĩnh tâm hồn ông. Điều đó có nghĩa là vàng đối với ông không có nghĩa là một nguồn của cải, một sự tiến triển kinh tế, mà trước hết một công cụ quyền lực đối với Thiên chúa giáo, một phương tiện giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc chinh phục lại Mộ Chúa; thậm chí - tại sao không - đó là phương tiện cần thiết để mở ra thời đại Gioachino thứ ba, thời đại phúc lợi và hoàn thiện chung. Và như vậy người ta có thể coi việc tìm kiếm những vùng đất Ấn Độ là sự tái sinh phục hưng việc tìm kiếm hòn đá triết gia (chế tạo vàng) thời sơ kỳ trung cổ.

Không may thay, trong cuộc hành trình lần thứ hai vàng trở thành một sự ám ảnh độc hại đối với viên Đô đốc, một nguồn bất công bóc lột nô lệ, tàn phá và chết chóc. Trong chuyến du hành thứ nhất, không xảy ra một điều nào trong những điều này, nhưng trong Nhật ký về cuộc hành trình thứ nhất, Colombo nêu vàng 134 lần, trong khi ông chỉ nói có 36 lần về hương liệu, bằng những lời lẽ chung chung hay cụ thể. Như vậy bắt đầu với cuộc du hành thứ nhất, động lực hàng đầu là tìm một tuyến đường mới tới những vùng đất Ấn Độ đã thay đổi và chuyển một cách quyết định từ hương liệu sang vàng. Công cuộc này trở nên sôi động và bồng bột trong suốt cuộc hành trình thứ hai, nhưng từ cuộc hành trình thứ nhất người ta có thể thấy rằng sự chuyển từ hương Ịiệu sang vàng là sự thay đổi cơ bản và quyết định. Từ cây nhũ hương ở Chio đến những thùng vàng; người ta có thể tóm tắt việc chuyển từ mục tiêu này sang mục tiêu khác trong tâm trí của Colombo như vậy.

Nếu chúng ta muốn thấy mặt trái tấm mề đay

của cuộc phát kiến vĩ đại này và chú tâm đến những hậu quả kinh tế của việc chuyển từ hương liệu sang vàng, chúng ta phải lưu ý rằng không phải ngẫu nhiên mà một người Genova lại là người đóng vai chính trong những sự kiện này. Trong thế kỷ XV cũng như trong những thế kỷ sau, người Genova trở nên giàu có từ việc buôn bán trên biển của họ, không có cơ hội đầu tư vào nông nghiệp - cũng như những người Venezia - vì ở Liguria hiếm đất, và như vậy họ đã đầu tư vào những lâu đài, những bức họa, và những đồ quý giá có thể góp nhặt được, nhất là vàng. Họ phủ đồ đạc của họ và trần nhà của họ bằng vàng lá; họ chứa đầy những căn buồng của họ những đồ vật bằng vàng và những két của họ bằng những đồng tiền vàng. Nhằm làm cho vàng có tác dụng đối với họ, họ cho vay, trở thành những chủ nợ và do đó họ bị căm thù (hơn là được yêu) bởi những nhà doanh nghiệp, những đại gia tộc, những vua chúa, và những người có thế lực ở gần như khắp nơi của thế giới Công giáo.