Chương 25 CHUYẾN DU HÀNH THỨ HAI- - -
Colombo mất bảy năm để thuyết phục những vị vua theo công giáo và để tổ chức chuyến du hành phát kiến đầu tiên. Colombo mất dưới bày tháng để tổ chức chuyến du hành thứ hai. Đội tàu cho cuộc khảo sát này tập trung tại Cádiz vì cảng Palos quá nhỏ. Có mười bảy chiếc tàu: ba chiếc nao, 12 chiếc tàu có trang bị buồm vuông và hai tàu buồm tam giác. Một số tàu rất nhẹ và có độ chìm nông, thích hợp khi đi ở những vùng có đá ngâm san hô và khi đi ngược dòng sông. Việc đo độ sâu của nước hồi đó cũng chưa tin cậy được. Tàu chỉ huy chiếc Santa Maria mới, biệt hiệu là Maria Galante - to hơn nhiều chiếc tàu bị hư hại tại vịnh Cáp Haïtien trong cuộc du hành đầu tiên. Có lẽ chiếc tàu mới này nặng khoảng hơn hai trăm tấn. Không biết rõ được nhưng các nhà sử học nhất trí cho rằng con số đó khoảng từ 1200 đến 1400 người, kể cả đoàn thủy thủ. Con số 1200 có lẽ đúng hơn. Có cả cha cố và thầy dòng, những người có học và những người không có học, những người sống trên biển và những người sống ở đất liền.
Tuyến đường lại theo hướng Tây-Nam tới quần đảo Canarie. Đoàn tàu mất sáu ngày đêm để tới đảo Grand Carnaria, tại đây đoàn tàu dừng lại một thời gian ngắn trong ngày 2 tháng 10 và nhổ neo vào nửa đêm. Ngày thứ bảy, 5 tháng 10, đoàn tàu đến San Sebastian thuộc Gomera. Tại dây, viên Đô đốc được đón tiếp bằng những phát súng Lombardia lửa hiệu và pháo hoa. Beatrice de Bobadilla đã không quên thần tượng năm trước, có lẽ bà muốn khoe với những nhà quý tộc đã ve vân bà và thi nhau lấy lòng bà, nên bà đã chọn người thuyền trưởng nước ngoài trong khi có ít người tin ông ta. Những nhà biên niên sứ không nói rõ trong thời gian ngắn ngủi lưu lại đây, mối quan hệ cũ có nối lại hay không. Thay vào đó họ nói về những đồ tiếp tế mà viên Đô đốc đưa lên tàu biển: hạt giống cam, chanh, thanh yên, dưa hấu và mọi loại rau. Họ mang lên tàu những con dê, cừu và tám lợn nái, mỗi con giá bảy mươi maravedis... Đây là "những hạt giống", sau này Las Casas viết: "Từ đó sinh ra tất cả những thứ ngày nay người ta thấy ở đây, gốc là từ Castiglia".
Cuộc vượt biển hết 24 ngày, từ 12 tháng 10 đến 2 tháng 11. Cuộc hành trình chi bị trắc trở bởi một trận bão kéo dài bốn giờ vào ngày 26-10; nếu không có trận bão đó, biển luôn luôn "phẳng lặng như đá cẩm thạch đánh bóng". Gió xích đạo thổi liên tục và mạnh hơn trong cuộc hành trình trước. Trong cuộc hành trình đầu tiên những con tàu giữ vị trí ở giữa 28° và 26° Bắc cho đến khi trông thấy chim bay. mới xuống 24°; lần này đoàn tàu xuống 16° ngay sau khi khởi hành, một vùng gió xích đạo mạnh hơn.
Colombo đã vận dụng kinh nghiệm chuyến du hành đầu tiên, trong đó, như tôi đã nói nhiều lần, ông đã phát kiến ra không những châu Mỹ mà cả những con đường giữa châu Âu và châu Mỹ. Không có gì ngạc nhiên, con đường hoàn thiện trong chuyến đi thứ hai được giữ nguyên qua bốn thế kỷ tiếp theo - thật ra cho đến hôm nay - con đường vẽ trên các bàn đồ hàng hải là tốt và đã chỉ rõ phương hướng cho các nhà hàng hải dùng tàu đi tới bất cứ nơi nào ở những vùng giữa Mỹ và Nam Mỹ, phía Bắc đảo Barbados. Con đường sau khi rời đảo Hierro thì không đi thẳng phía Tây mà đi về phía Tây từ phía Nam..
Những con tàu đang ở 16° Bắc khi phát hiện thấy đất liền, vào buổi bình minh ngày chủ nhật, 3-11. Michele da Cuneo viết: ‘‘Vào ngày chủ nhật chúng tôi đã trông thấy đất liền, năm đảo chưa từng biết’’. Colombo đặt tên đảo thứ nhất có những ngọn núi cao là Dominica, vì người ta trông thấy đảo ấy vào buổi bình minh ngày chủ nhật. Hòn đảo mà họ đổ bộ lên được ông đặt theo tên chiếc tàu chỉ huy Maria Galante (ngày nay tên này viết theo tiếng Pháp là Marie Galante). Ông gọi tên hòn đảo nhỏ nhất mà họ thấy ở phía đông-bắc là Deseada (Mong ước) vì là hòn đảo xa nhất về phía đông, hòn đảo ấy gần Thế giới cũ nhất và do đó các nhà hàng hải đã vượt đại dương và sẽ vượt đại dương mong ước được tới đó.
Những hòn đảo ngày nay gọi là Les Saintes đã được viên Đô đốc đặt tên là Todos los Santos, vào sáng ngày 4 tháng 11, để kỷ niệm ngày lễ các thánh đã được tổ chức ở trên tàu ba ngày trước đó khi còn chưa thấy đất liền. Hòn đảo xinh đẹp nhất ông đặt tên là Santa Maria đi Guadalupe (ngày nay là đảo Guadeloupe), làm đúng lời ông hứa vơi các thầy ở tu viện, nơi ông đã thực hiện lời thề trong cơn bão khủng khiếp ở Đại Tây Dương. Đức Mẹ Đồng trinh Guadalupe là một trong những Nhà thờ Đức Mẹ nổi tiếng linh thiêng nhất ở Tây Ban Nha. Ngày nay có nhiều tu viện trên thế giới tín phụng và nhờ sự tôn kính đó mà lan truyền tại các nước châu Mỹ: Ngay cả trước khi Tòa thánh Mê-hi-cô được xây dựng vào năm 1531, sự lan truyền đó vẫn còn nổi tiếng hơn cả ở Tây Ban Nha, Colombo, một người hết lòng tin vào sự hiển linh của Đức Mẹ Đồng trinh, đã đóng góp vào việc lan truyền đó bằng cách đặt tên cho một trong những hòn đảo đẹp nhất trên thế giới...
Colombo không tìm thấy một hải cảng nào ở bờ biển phía đông bắc của Dominica. Colombo đã cử một chiếc tàu đi tìm một hải cảng, nhưng khi chiếc tàu ấy hợp lại với đoàn tàu, thì ông đã tìm được một nơi bỏ neo bảo đảm khỏi bị những nguy hiểm của đá san hô tại một vũng tàu đậu trên bờ biển chắn gió của đảo Marie Galante. Tại đó Colombo đã lên bờ với một chiếc cờ của nhà vua, chiếm quyền sở hữu với danh nghĩa Vua và Hoàng hậu, dựng một cây thánh giá và làm lễ Mi-sa, buổi lễ đầu tiên tại châu Mỹ, kể từ buổi lễ trong thời kỳ thực dân Vi-king chiếm cứ đất tại Greenland.
Thiên nhiên trên quần đảo Tiểu Antilles đa dạng đến mức làm cho người ta sửng sốt. Đất đã góp phần vào tính đa dạng này, vì đất trên một số đảo đá vôi và trên một số đảo khác là đá núi lửa. Chế độ mua thay đổi làm cho người ta kinh ngạc cũng góp phần vào đó. Mây do gió xích dạo thổi vào từ Đại Tây Dương, bay trên những núi nham thạch, tỏa ra mát rượi. Lượng mưa từ 80 inh một năm trên những đồng bằng đến 300 inh trên những đỉnh núi cao. Lượng mưa cao tạo ra những cánh rừng có cây cối khổng lồ, những dây leo, những mùa hoa nở bất ngờ và có nhiều màu sắc khác nhau.
Dominica và khối núi lửa ở phía Tây đảo Guadeloupe hiện ra trước mắt Colombo như thế. Đối lập một cách rõ rệt là những đảo đá vôi thấp - đảo La Désirade(1), Les Saintes và nửa phía Đông đảo Guadeloupe -không có những điểm cao và vì vậy gió đưa mưa vào không bị cản, những bụi gai mọc tại những cành quan khô cằn, đôi khi là những thảo nguyên, đá trơ và những vách đá xám, hoặc nâu, rải rác đây đó trong đám xương rồng. Nhìn qua cũng có thế thấy năm sáu bảy đảo chúng tương phản nhau rõ rệt, từ rừng chưa khai phá đến sa mạc. Điều kỳ lạ là những tương phản này không chỉ xảy ra từ đảo này đến đảo khác mà trong phạm vi mấy dặm trên cùng một đảo. Thí dụ, bờ biển đậu tàu thuộc đảo Guadeloupe, dọc theo đó đoàn tàu đã đi vào, buổi sáng ngày 4 tháng 11, thì khô cằn, trong khi cách "ba dặm" trong đất liền các thủy thủ thấy "một vách núi cao, nhọn, từ đó một thác nước khổng lồ đổ xuống", "từ những tàu biển người ta có thể nghe thấy tiếng nước ào ào". Xung quanh đó là một cánh rừng mênh mông làm say mê lòng người. Đỉnh núi cao nhất là La Soufrière, một trong những kỳ quan của quần đão Tiểu Antilles.
Colombo không nói nhiều về La Soufrière; ông chỉ khen con thác đẹp. Don Fernando nói rằng ở đó người Tây Ban Nha thấy cây lô hội, cây nhũ hương, cây đàn hương, cây gừng, cây gỗ tràm, một số cây nếm vị và ngửi mùi hình như là quế và nhiều cây bông. Họ cũng trông thấy "diều hâu, chim ác là, quạ, chim bồ câu, chim gáy, gà gô, ngỗng, và chim sơn ca". Một thiên đường của người đi săn! Ngoài ngỗng, giống ngỗng của chúng ta, có nhiều vẹt, có màu khác nhau, xanh lá cây, trắng và đỏ, to như gà trống thông thường và cây bí và những quả trông giống như những quả thông màu xanh nhưng lớn hơn nhiều. Bên trong, ruột giống như dưa hấu. Quả này xuất xứ từ một giống như hoa huệ tây, hoặc cây lô hội. Đó là Don Fernando đang miêu tả quả dứa, một phát kiến khác nữa mà đảo Guadeloupe đã cho người Tây Ban Nha trong thời gian may mắn họ lưu lại đầu tháng 11 - 1493. Don Fernando báo cáo rằng người ta phát hiện cây dứa trồng sau này, có lẽ tốt hơn những cây dứa dại, nhưng ngay cả những cây dứa dại "ngửi và vị ngon hơn" những quả dưa hấu ngon nhất của vùng biển Địa Trung Hải.
Đảo Guadeloupe cũng cho người Tây Ban Nha một điều mới nữa, điều quan trọng nhất; tiếp xúc với những người Caribi, những kẻ ăn thịt người. Về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa người Công giáo và người Caribi (hay Caniba hoặc Cannibali như Colombo gọi họ ở những lần khác nhau), cần thiết phải thận trọng, vì người ta không thể tránh ấn tượng cho rằng những người đương thời với Colombo không bám sát thực tế. Hình như họ có nói quá và sáng tạo ra những chi tiết, làm cho khó tránh sự nghi ngờ rằng trí tưởng tượng đã chiếm ưu thế.
Colombo lên bờ và thăm một số ngôi nhà không có người ở. Nhiều người Caribi vắng mặt. Họ đã đi lên trên muời chiếc thuyền độc mộc do vua của họ dẫn đầu trong cuộc lùng sục để kiếm nô lệ và tích trữ lại nguồn cung cấp thịt người, theo một phụ nữ Arawak trốn lên tàu kể lại. Một số ít đàn ông và vợ họ, cùng với vợ của những người đàn ông Caribi vắng mặt, đang ẩn náu trong rừng. Trong các ngôi nhà, Colombo thấy nhiều bông, vừa bông đã xe lẫn bông nguyên liệu, ông nhận thấy những khung cửi để dệt bông khác những khung củi dùng ở châu Âu. Ông cũng nhận xét rằng những ngôi nhà ở đây tốt hơn bất cứ những ngôi nhà nào khác mà họ đã trông thấy trong chuyến du hành đầu tiên và trong nhà có tích trữ đầy đủ thức ăn, đồ đạc và vũ khí – nỏ và tên. Ông thấy trong nhà có treo những đầu lâu và những hòm chứa xương người chết. Đó cũng là tất cả những vật mà Colombo thực tế đã trông thấy. Phần còn lại là từ những lời kể lại của «những người Tây Ban Nha khác, hay từ những lời khai của những người Arawak đã trốn.
Las Casas bám sát vào chi tiết cuối cùng này - những đầu lâu,và những hòm đựng xương - luôn luôn sốt sắng bênh vực người bản xứ. Ông khẳng định rằng đó là những di vật của tổ tiên giữ lại vì lý do tôn giáo, không phải là những thứ còn lại của các bữa tiệc. Điều này có thể đúng với đầu người. Tuy nhiên Pietro Martire lại cho chúng ta một chi tiết khó hòa hợp với một giả thuyết ngoan đạo như thế: "Họ cũng thấy đầu lâu của một thanh niên mới bị giết treo trên một sàn nhà và vẫn còn đẫm máu", một thanh niên rõ ràng không thể là tổ tiên. Dù sao chăng nữa, bất cứ ở đâu có tục ăn thịt người thì việc đó ít nhiều đều có liên hệ đến những nghi lễ ma thuật hay tôn giáo, như vậy giải thích của Las Casas ít nhất cũng đúng sự thật một phần về những đầu người. Nhưng còn những hòm đựng xương; giải thích của Pietro Martire có vẻ đúng sự thực hơn: "Họ rất cẩn thận giữ lại xương cẳng chân và xương cẳng tay để làm đầu mũi tên. Quả thật họ làm những đầu mũi tên bằng xương, vì họ không có sắt".
Sau khi giải quyết vấn đề về đầu người và xương, chúng ta phải xem xét vấn đề quan trọng nhất: Những người Caribi có ăn thịt người hay không? Câu trả lời là có, họ ăn thịt người, và không phải chỉ thình thoảng mới ăn, hoặc coi như một phần của một nghi lễ. Họ ăn để dinh dưỡng. Những bản tường thuật của Bác sĩ Chanca, nhà phẩu thuật của đoàn tàu và Michele da Cuneo là những chứng cớ đầy đủ. Cần kể thêm những chứng cớ hổ trợ của những nhà khảo sát đi theo họ ở quần đảo Tiểu Antilles và trên bờ biển đối diện thuộc đại lục Nam Mỹ.
Sau khi kéo dài việc lưu lại trên đảo Guadeloupe, Colombo nhổ neo đi về phía tây-bắc. Miền bắc đảo Guadeloupe không phải là một vùng biển mở. Sau khi qua hành lang Guadeloupe; người ta đến một hòn đảo, cũng là nham thạch và do đó có cây cỏ bao phủ. Colombo đặt tên cho đảo đó là Santa Maria de Montserrat, theo tên một tu viện gần Barcellona, nổi tiếng hồi đó cũng như hiện nay không những của Tây Ban Nha mà trong khắp thế giới Công giáo. Tên này thích họp, vì hòn đảo nổi lên từ biển cả như một ngọn núi cao. Ngày nay đó là một trong những viên đá quý của quần đảo Tiểu Antilles. Thế kỷ XVII, người Anh đã biến đảo này thành thuộc địa, dân trên đảo da màu đen và biết trồng trọt; rừng vẫn còn nguyên vẹn. Cái tên mà Colombo đặt cho đảo vẫn còn, nhưng rút ngắn lại thành Montserrat.
Từ đảo Montserrat đến Puerto Rico, một dãy đảo trải ra, tất cả xinh đẹp và rất khác nhau về độ lớn và hình dáng. Những tên mà Colombo đặt cho các đảo này đã thay đổi nhưng vẻ đẹp mê hồn của chúng thì không thay đổi: Redonda, Antigua, Nevis, St.Kristopher, St. Eustatius, Saba, St.Barthelemy, St. Martin, Anguilla, Dog Island,St Croix và cuối cùng là những đảo Virgini tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Colombo không dừng lại ở tất cả những đảo đó, ông nóng lòng đi đến đảo La Návidad. Colombo dừng lại một ngày và một đêm trên đảo Puerto Rico, đảo lớn nhất và đẹp nhất trong số những đảo này. Ông không thể cho phép mình bị lôi cuốn bởi những bãi biển, những cánh rừng, những vịnh và những đảo nhỏ của Puerto Rico, hàng nghìn sự quyến rũ làm say mê những nhà du lịch hiện đại.
Đế quốc Tây Ban Nha đầu tiên ở Địa Trung Hải của châu Mỹ có bốn trụ cột lớn: Hispaniola, hay Haïti, Cuba, Giamaica và Puerto Rico. Trong bốn đảo Iớn này, Puerto Rico, đảo gần châu Âu nhất, là đảo nhỏ nhất, nhưng chắc chắn không phải là có ít vẻ đẹp thiên nhiên nhất và ít tài nguyên kinh tế nông nghiệp nhất.
Đó là đảo duy nhất Colombo đã bỏ qua. Tuy vậy, dân cư Puerto Rico không phải là những người Caribi độc ác mà là kẻ thù của những người Caribi, do đó họ là bạn của những người Tây Ban Nha. Đảo của họ không đáng bị Colombo bỏ qua - điều đó là do một trong những trò đùa của ngẫu nhiên thường gặp trong lịch sử. Ngẫu nhiên Colombo đã tìm thấy Puerto Rico vào lúc mà tiếng gọi của La Navidad và hy vọng đi đến mục tiêu ông hằng mong ước là Cataio và Ấn Độ đang thôi thúc ông mạnh mẽ.
Chỉ mất một ngày (19 tháng 11) là đủ để chạy theo bờ biển phía Bắc đảo Puerto Rico. Chiều tối hôm đó Colornbo đi tìm một cái vịnh và đã tìm thấy ở bờ biển phía Tây, vào khoảng giữa Rincón và Rio Grande de Anasco. Đó là một con sông tốt để lấy nước và đủ rộng để thả neo, lại kín gió xích đạo và gió từ hướng Bắc. Đoàn tàu được cung cấp lại nước ngọt và thực phẩm - cá và vật săn bắn - và đã rời Puerto Rico buổi sáng sớm ngày 22 tháng 11 và khi màn đêm buông xuống, đoàn tàu đã thấy đầu phía đông đảo Haïti?
Colombo, Michele da Cuneo, bác sĩ Chanca, Pietro Martire, Don Pernando, La Casas, cũng như Nicolò Scillacio đều không nêu ý nghĩa của các đảo, từ Dominica đến Puerto Rico, trong toàn bộ bức tranh của cuộc phát kiến vĩ đại được phát hiện từ 3 đến 20 tháng 11 năm 1493.
Quần đảo Tiểu Antilles không phải là những đảo sản hô và không bằng phẳng như quần đảo Bahamas. Những đảo đó là phún thạch và thường có núi, một số ngọn núi rất cao. Tất cả các đảo đều có người ở và thường được trồng trọt. Quần đảo Tiểu Antilles khẳng định cho Colombo một thực tế không mấy thú vị là những vùng Đất Mới có những người "xấu", ngoài những người Taino ''tốt" trong cuộc hành trình thứ nhất. Colombo đã lường trước điều đó nhưng chỉ qua những báo cáo. Bây giờ điều đó đã được chứng minh.
Quần đảo Tiểu Antilles đã cho các thủy thủ của mười bảy chiếc tàu chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên có một không hai. Nhưng một trăm hòn đảo của quần đảo Tiểu Antilles đã nói gì với Colombo về mặt địa lý? Đặc biệt những đảo ấy nói gì với ông về địa lý biển, mà về môn này ông là người có giác quan thứ sáu? Nếu cộng một trăm đảo lớn và nhỏ của quần đảo Virgini với những đảo khác mà họ đã đi dọc theo bờ, hoặc trông thấy, từ Dominica đến Puerto Rico, thì có tới 130 hay 140 đảo. Quần đảo này rất khác những quần đảo đã biết trước tại Đại Tây Dương, quần đảo Azzorre, Canarie và Capo Verde. Giờ đây, Colombo nhận ra rằng xung quanh những vùng đất lớn phát hiện trong cuộc hành trình đầu tiên, Cuba và Hispaniola, có một vòng tròn các đảo từ Nam tới Đông-bắc: quần đảo Bahamas từ Bắc đến Đông nam, và quần đảo Tiểu Antilles ở miền Nam.
Một dãy đảo như thế phải là một-dấu hiệu, một tiền đồn của một lục địa gần đấy và Colombo tiếp tục tiếp nhận những dấu hiệu của vùng đất liền và những gợi ý mơ hồ được nhiều người bản xứ mà ông đã đưa lên tàu liên tục nhắc đi nhắc lại. Và những người Caribi hung dữ đã từ đâu đến, nếu không phải từ lục địa? Như vậy, chính cuộc phát kiến nhỏ nhưng quan trọng về quần đảo Tiểu Antilles và Puerto Rico đã giúp khẳng định sai lầm Iớn của Colombo. Ông nghĩ rằng ông đã đến châu Á, rằng ông đi qua vòng tròn các đảo mà ông đã được đọc trong sách của Marco Polo và thế giới công giáo đã biết, là tiền đồn phía Đông của lục địa châu Á.
Chú thích:
(1). Tên tiếng Pháp hiện đại của Deseada. (TG)