Chương 36 CHIRIQUÍ: GIẤC MỘNG TAN VỠ
Khi tới Laguna di Chiriquí, Colombo cảm thấy cuối cùng ông ta đã tìm ra eo biển. Vịnh Cerabora chưa phải là biển cả dẫn đến một phần khác của đại lục và cũng chưa phải là vịnh Bengal. Nhưng có những dấu hiệu rõ ràng là có eo biển xuất phát từ đó; và người Anh-diêng đã nói rõ và ra hiệu qua hai người phiên dịch, rằng ở phía Tây có biển. Colombo cảm thấy vui hơn là hy vọng, ông có thể nếm được thắng lợi của mình sau tất cả sự lường trước đầy lo lắng.
Sự phát triển trên đảo Cerabora (ngày nay là Isla de Colón) có vàng, vàng nguyên chất, mười tám ka-ra hay cao hơn, đã làm cho những ngày mệt nhọc đó thêm vui mừng và thắng lợi. Không phải họ chỉ tìm thấy vàng. Don Fernando và Las Casas nói rằng: "Trong kênh họ bắt được rất nhiều cá, và trên bờ rất nhiều động vật", cũng như thu lượm một số lớn "những thứ ăn được", trong đó có những con kỳ nhông, ngô và hoa quả.
Những con tàu của Colombo ra đi ngày 8 tháng 10 để tìm eo biển dẫn đến dại dương khác. Họ đã tìm thấy eo biển đó, có lẽ nhờ những chỉ dẫn của người bản xứ. Thực ra họ đã tìm thấy hai eo biển.
Sunwood và Split Hill. Eo biển thứ nhất dài, hẹp và sâu nhưng bị tắc nghẽn vì những cây đước - hay ít nhất ngày nay mới như thế; Split Hill rộng và thoáng đãng hơn. Don Pernando nói rằng: "Tàu đi giữa những đảo nhỏ, tựa như chúng đang đi dọc các phố. Eo biển hẹp đến nỗi lá cây quệt vào thừng chằng cột buồm và buồm của tàu. "Những tên Anh là do người da đen ở Giamaica, hoặc những tên cướp biển thế kỷ thứ XVII đặt cho. Hiện nay Vịnh Cerabora gọi là Bahía de Almirante với những đảo nằm chằng chịt dày đặc và trở thành nơi ẩn náu lý tưởng cho những tên cướp biển.
Theo ngư dân địa phương, eo biển Split Hill sâu từ mười đến bốn mươi thước Anh. Từ Bahía de Almirante eo biển này chạy theo hướng Bắc-tây-nam, có một số bờ cát không nguy hiểm vì người ta có thể trông thấy chúng ở bên phải, hoặc trên đất liền. Eo biển sâu, tàu có thể qua được ở bên trái, hoặc chạy sát đảo. Bờ bên này cao và dốc hơn, có cây cao dày đặc bao phủ. Việc nghiên cứu nhiều tài liệu đã cho tôi có những cảm giác mà cách đây năm thế kỷ chắc Colombo thể nào cùng phải có, vì nó chỉ thay đổi chút ít. Một số lùm cây đước có lẽ đổi khác đi, nước có lẽ sâu hơn hay nông hơn ở nhiều chỗ. Theo hoa tiêu của tôi, cách đây mấy năm, eo biển Split Hill không rộng như bây giờ ở đầu Tây-nam. Nơi ngày nay là một bờ cát thì trước đây là một mũi đất có những cây đước bao phù. Vùng xung quanh cũng như thế. Thời gian và nền văn minh đã không làm thay đổi hai phá nước mặn và những vùng xung quanh đẹp đẽ này. Những thứ mới duy nhất là những cây dừa và những cây muỗm, nhưng chúng bị che khuất trong đám cây dày đặc, chằng chịt, tất cả vẩy gọi như với ma thuật của vùng biến Ca-ri-bê.
Tàu đi giữa những đảo nhỏ và những cây đước dọc theo rìa phía Nam của Bahía de Almirante và cuối cùng đi vào eo Split Hill. Ta có ấn tượng như đã rời biển cả và đi vào một vùng chưa bao giờ biết. Nhưng bỗng nhiên ở bên kia, ngọn đồi như tách ra, ở phía ngoài những cây cao và những cây đước thấp, xuất hiện một phá nước mặn rộng lớn khác. Ngày nay phá đó gọi là Laguna de Chiriquí. Nó rộng khoảng mười lăm dặm và dài khoảng ba mươi dặm; nước màu xanh da trời, hơi xanh lá cây và mặn như nước đại dương. Những ngọn núi màu xanh lá cây thẫm bao quanh phá nước, màu xanh lá cây thẫm của những đỉnh rừng nhiệt đới. Những ngọn núi thuộc dẫy Cordiglera Central, đỉnh cao nhất 11.400 thước Anh. Người ta rất khó trông thấy những đỉnh núi vì mây dày đặc. Tháng 10, Colombo đang ở đó, thời tiết thường tốt hơn những tháng khác trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm trong thời kỳ 1920-1980 là 100 inh. Lượng mưa đó đã có lúc cao tới 146 inh (năm 1950) và 155 inh (năm 1970). Tháng ẩm ướt nhất là tháng 12 (trung bình 13 inh), tháng khô nhất là tháng 9 (trung bình 4 inh), nếu người ta có thể gọi đó là tháng khô nhất vì độ ẩm luôn luôn rất cao.
Ta có thể nói rằng Colombo đã may mắn đến đó trong thời tiết tốt. Nhưng ngay cả trong khi trời hoàn toàn trong Colombo vẫn không nhận thấy rằng đó chỉ là một phá nước mặn. Ngày nay chúng ta biết đó là phá nước mặn, mở về phía Đông và đóng kín về phía Tây, nhưng Colombo không thể không bị lừa bởi vì trong khi nước Bahía de Almirante yên tỉnh, thì nước ở Laguna de Chiriquí sóng động và mặn như đại dương. Khi thủy triều xuống, những đợt sóng chuyển động từ Tây sang Đông, làm ta có ấn tượng là phá quan hệ với biển cả không những về phía Đông mà cả về phía Tây. Trong một vài ngày - hay một vài giờ - Colombo hy vọng rằng ông ta đã tìm thấy đường sang Ấn Độ. Đó là ngày 8 tháng 10 năm 1502. Gần tới ngày mười năm về trước Colombo đã trông thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên về đất liền ở bên kia Đại Tây Dương.
Colombo để ít nhất hai ngày, có lẽ ba ngày, để khảo sát những bờ cát của phá nước mặn bằng thuyền, đi tìm một eo biển giữa những ngọn núi trông thấy về phía Tây và phía Nam. Colombo, một thủy thủ lão luyện đáng lẽ phải nhận thấy ngay rằng phá nước mặn không phải là Ấn Độ Dương. Nhưng không có một con đường thông giữa những ngọn núi đó với Ấn Độ Dương hay sao? Colombo đã có kinh nghiệm với những con đường khác gần như không thể qua được: tại Địa Trung Hải, eo biển Messina, những eo biển giữa các đảo của biển Egeo, và eo biển giữa Chio và đất liền; trong vùng biển Caribê, những eo biển giữa các đảo Vergini, hai bờ rất gần nhau, vùng nước dễ làm người đi biển mắc lừa giữa Trinidad và Venezuela, eo biển Boca vừa vượt qua cách đây hai ngày và eo biển Split Hill mà ông mới đi qua. Chưa đầy hai mươi năm sau, Magellan đã tới qua một lối đi vào rộng, mà ngày nay gọi là vịnh Punta Arenas ("Điểm Cát"); ông đã tìm thấy eo biển nổi tiếng nhất thế giới giữa hai vách núi.
Năm cửa sông đổ vào phá nước mặn - Uyama, Róbalo, Guarumo, Guariviara và Cricamola - đã được khảo sát từng cửa một. Chỉ một hoặc hai ngày sau, vào ngày 10 hay 11 tháng 10, niềm hy vọng đã bị dập tắt. Không có cách lựa chọn nào khác ngoài việc quay trở lại biển cả, băng qua phá nước mặn lớn có hai lối ra phẳng lặng. Sự thất vọng là, sâu sắc, chua cay và hoàn toàn. Colombo đã bỏ mục tiêu chính của chuyến đi biển thứ tư.
Đây là một thời kỳ quyết định, thời kỳ thay đổi đột ngột trong kế hoạch chiến lược của ông. Thời kỳ này kéo dài mười ngày, từ 6 đến 16 tháng 10 - 1502. Trước đây không một học giả nào về Colombo có thể xác định một cách chính xác thời gian của bước ngoặt quan trọng này trong suy nghĩ của Colombo, đơn giản vì việc đó không thể thực hiện được, nếu không đích thân khảo sát những nơi xẩy ra những sự kiện này. Chỉ bằng nghiên cứu trực tiếp tới mới có thể hiểu những gì đã xẩy ra từ 5 đến 16 tháng 10 - 1502, và những gì đã tiếp diễn trong những ngày quyết định này trong tâm trí của Colombo và những hoa tiêu của bốn chiếc tàu.
Eo biển mà Colombo có thể đi qua để vào vịnh Bengal và từ đó tới Ấn Độ, không ở đó, hoặc ít nhất ông đã không thể tìm thấy eo biển ấy. Do đó, mục tiêu chính của cuộc đi biển đã biến mất. Từ 16 tháng 10 đến 6 tháng 1 - 1503 họ đã để nhiều ngày, nhiều tuần lễ và nhiều tháng đi lại mệt nhọc dọc theo bờ biển Đại Tây Dương thuộc Panama. Vì lúc này Colombo chỉ nghĩ đến vàng; ông muốn thành lập một thuộc địa tại phần giàu nhất của những vùng Đất Mới, càng gần những mỏ vàng bao nhiêu càng tốt. Từ 20 đến 25 tháng 10 ông đã tìm thấy rất nhiều vàng ở gần Veragua. Từ đó ông sẽ trở về. Tại sao ông đã không dừng ở đó vào cuối tháng 10?