Chương 37 VERAGUA:- VÀNG VÀ CÔCA.
Veragua là một trong những sự kiện quan trọng nhất - và ít được biết đến nhất - trong sự nghiệp vĩ đại của Colombo. Veragua là một vùng của Panama nhìn ra vịnh Mosquitos ("Vịnh Muỗi"). Nhiều sông lớn đổ vào vịnh này từ dãy Cordiglera hoang vu và không thể thâm nhập được (ngọn Cerro Santiago cao 9.272 thước Anh). Nước Cộng hòa Panama đã thay đổi khu vực hành chính của họ: Veragua không chỉ ở bờ biển Đại Tây Dương như trong thời Colombo, mà đã vượt quá dãy núi Cordiglera tới Thái Bình Dương. Khi tôi nói về Veragua, tôi chỉ đề cập đến vùng Colombo đã biết bằng cái tên đó. Năm 1536, Bà Maria de Colón y Toledo, thay mặt con trai ià Luis Calón, cháu trai của Colombo, đã từ bỏ những chức tước và đặc quyền mà Colombo luôn luôn tự hào đã có tại "những đảo giữa Bắc và Nam Mỹ của Tây Ban Nha". Để đáp lại Hoàng đế Charles V đã ban cho Don Luis chức quận công Veragua và cho ông lãnh thổ.
Veragua quan trọng vì một lý do duy nhất và không thể chối cãi: Có nhiều vàng. Trong mười ngày cuối tháng 10 - 1502, những người Tây Ban Nha đã tìm thấy nhiều vàng ở đó hơn ở Cibao tại Hispaniola: mười chín "khoảnh" tại Guaiga và mười chín "khoảnh" nữa tại Cateva (gần Santa Catalina ngày nay). Ngoài ra năm làng xung quanh Cobrava, gần cửa sông Rio Veraguas, tất cả đều buôn bán vàng. Lúc đầu những người Tây Ban Nha tìm thấy nhiều vàng ở khắp mọi nơi, rồi sau không còn gì nữa. Không có ở Puerto Gordo ("Cảng béo"), ở Portobelo ("Cảng đẹp"), Puerto de los Escribanos ("Cảng của những Công chứng viên") cũng vậy. Thông tin của một phiên dịch viên người Anh- diêng bắt tại Cariai là chính xác: vùng đất có vàng nằm trong khoảng từ Vịnh Chiriquí đến Rio Belén, Colombo đặt tên như vậy vì ông đã tới vùng này vào ngày 6 tháng 1, ngày Lễ Hiện xuống, sau những cuộc đi lang thang và khó khăn dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Panama: Betlém, (tức Betlemmme), sau này được tỉnh lược thành Belén, và đến nay vẫn được gọi như vậy. Cách Belén khoảng bốn dặm phía Tây, sông Rio Veraguas đổ vào biển. Vàng - nhiều vàng - giải thích tại sao Colombo đã chọn Belén làm nơi lập thuộc địa, một thuộc địa mới để vượt thuộc địa trên đảo Hispaniola mà ông đã bị tước mất. Sự lựa chọn này bị các nhà sử học đánh giá một cách thương hại. Morison gọi đó là "một nơi không thuận lợi". Bradford đồng ý: "Không bao giờ có một nơi định cư thành công cho người Âu ở vùng này... Colombo là một người hoang tưởng. "Thật vậy Colombo không còn là con người trong cuộc đi biển lần thứ nhất. Ông ốm yếu và mệt mỏi, nói năng không mạch lạc và mâu thuẫn. Tuy nhiên ông không điên, và chắc chắn không điên trong việc chọn Veragua. Trước hết, có vàng, nhiều vàng. Ông viết: Một điều tôi dám nói và tôi có nhiều nhân chứng; Tôi đã nhìn thấy nhiều chứng cớ về vàng trong hai ngày đầu tiên ở Veragua hơn là ở Hispaniola trong bốn năm". Và Belén cũng không khó chịu như những nhà sử học chưa từng ở đó mô tả; khi thời tiết tốt Belén là một nơi đáng yêu của vùng biển Ca-ri-bê. Những làn sóng từ Đại Tây Dương gầm thét liên tục trên vỉa đá san hô chỉ để lại một khoảng trống trước bãi cát. Đây là gờ đá chắn sông, cũng có tên là Benlén, cách cửa sông khoảng hai trăm yard (đơn vị đo chiều dài gần bằng một mét - ND), một phá nước mặn, kín gió và được che cả hai phía bằng những quả đồi có thể bảo vệ dễ dàng.
Tại trung tâm phá có độ sâu khoảng ba mươi thước Anh, hơn hai mươi tàu biển bằng cỡ những chiếc tàu của Colombo có thể bỏ neo dễ dàng ở đó. Cá mập từ ngoài biển cũng có vào và gây nguy hiểm, nhưng thịt cá đó ngon. Tôm hùm cũng ở trong phá nước mặn. Từ phá nước mặn tôi đã đi ngược sông bảy dặm rưỡi, với vô số những chổ gấp khúc, rừng nhiệt đới xanh tốt, nhờ nụ hôn nóng bỏng hầu như hàng ngày, của mặt trời và nhờ mưa lớn. Có ít chim nhưng nhiều hoa và nhiều loại cây - cao, trung bình và nhỏ - với rất nhiều loại quả mùi thơm. Ta có thể đi xa hơn bảy dặm rưỡi trong chiếc thuyền độc mộc, tới những ghềnh thác trong dãy núi Cordiglera.
Mật độ dân số trong thời Colombo chứng tỏ rằng đất lúc đó không phải là khó chịu, cũng như bây giờ nó không khó chịu. Dân số hầu như biến đi, trước hết vì cạnh Tây Bắc của nước Panama bị tách biệt với những luồng buôn bán lớn, cách xa những điểm tiếp xúc giữa những vùng khai mỏ và những vùng nông nghiệp của Thế Giới Mới và Thế Giới Cũ. Vùng này không có những dân tộc từ xa đến để hấp thụ nền văn minh của họ. Vùng đó vẫn bị tách rời ngay cả sau khi độc lập, vì đó là vùng ở ngoài nhất và khó tới nhất của nước Cộng hòa Colombia, sau này là nước Cộng hòa Panama.
Mưa to và liên tục đã bảo vệ Belén và Veragua khỏi sự xâm lăng của người da trắng; thậm chí họ cũng không di dân những người da đen ra đó nữa. Ngược lại, họ bắt nhiều người Anh-diêng quen nghề trồng trọt đất đai và chuyển họ đi nơi khác. Vào giữa thế kỷ này, làng Belén giảm xuống còn 50 người dân, thung lũng chính và những thung lũng của những chi lưu không còn người ở. Với việc sử dụng máy bay và việc hoàn thành những Dự án đặc biệt Đại Tây Dương do Tổng thống Torrijos của Panama đề xương, ngày nay làng Belén đã có 120 cư dân. Từ làng này ngược lên đồi một chút là làng Ciudad de Romero, với khoảng 400 người tị nạn Xan-va-đo. Những học giả về Colombo đánh giá tiêu cực về Belén không phải vì mưa mà vì họ chưa trông thấy làng đó.
Ngày 7 tháng 1, Colombo đã cử Diego Méndez đi xuồng đến cửa sông Rio Veraguas, cách Belén khoảng 6-7 cây số. Méndez đã đo chiều sâu của nước và thấy không đủ nước cho các tàu. Méndez đã chèo xuồng vào bên trong, buôn bán với những người Anh-diêng và mang về cho Colombo hai mươi gương vàng. Tiếng tăm về của cải vô tận của những mỏ ở Veragua là điều có thực. Vì người ta đã đo chiều sâu của con sông Rio Belén, hai tàu đã đi vào sông này ngày 9 tháng 1. Ngày hôm sau hai chiếc tàu khác đi vào lúc thủy triều lên cao và thả neo ở trong phá nước rộng lớn. Người cai trị vùng có mỏ vàng này là một tù trưởng có thế lực, Quibian. Colombo quyết định thỏa hiệp với ông ta và đã cử anh ông là Bartolomeo, đến thăm Quibian. Khi tiếp Bartolomeo, Quibian đội một chiếc vương miện, đeo một tấm thẻ lớn trên cổ, và những vòng ở chân tay, tất cả đều bằng vàng đặc.
Cuộc tiếp đón rất tốt và việc mua bán có lợi. Ngày tiếp theo Quibian "đến những tàu biển đế thăm Colombo và họ nói chuyện hơn một giờ. Colombo cho Quibian một ít quà biếu và những thủy thủ đổi một vài cái chuông để lấy rất nhiều vàng. Không còn nghi lể gì nữa, Quibian trở về bằng con đường mà ông ta đã đến". Don Fernando cho biết như vậy, nhưng Diego Méndez nói rằng có lúc trong cuộc đàm thoại, người tù trưởng chau mày, nhìn xung quanh một cách nghi ngờ, xin lỗi và trở về làng ông; những tàu lạ và vũ khí đã làm ông mất tự tin và e ngại.
Trong khi đó biển lại trở nên xấu hơn. Colombo nghĩ rằng ông ta an toàn ở bên trong gò đá chắn. Ngày 24 tháng 1, một trận bão đổ một trận mưa lớn vào dãy núi Cordigliera với hàng nghìn con suối đưa nước vào sông. Trước khi các thủy thủ nhận ra điều gì đang xẩy ra, Belén đã bị lụt, làm tuột một chiếc tàu ra khỏi neo và đập vào một chiếc tàu khác. Chiếc tàu thứ nhất bị hư hỏng nặng, và một cột buồm bị gãy. Những chiếc tàu khác bị kéo đi dữ dội, đập vào hết bờ này đến bờ kia, có nguy cơ bị vỡ tan. Bằng những cố gắng, thủy thủ đã bảo đảm được an toàn cho tàu và neo chúng lại. Trong mấy ngày tiếp theo, nước rút đi, nhưng cát do sông và sóng biển mang đến, tạo thành cồn cát chặn cửa sông, làm đội tàu bị mắc kẹt bên trong.
Khi thời tiết tốt trở lại Colombo đã cử Bartolomeo đi xuồng với khoảng bảy mươi người khảo sát bên trong và thấy nhiều mỏ vàng. Quibian bị làm rầy rà và đã dùng thủ đoạn. Ông cho một số người hướng dẫn Bartolomeo nhưng bí mật bảo họ đưa vào lãnh thổ của tù trưởng Urira, kẻ thù của ông. Những người hướng dẫn làm theo lệnh, đưa những người Tây Ban Nha đi chặng đường quanh co, trong đó họ đã lội đi lội lại tới bốn mươi lần cùng một con sông. Cuối cùng họ tới một nơi những mạch vàng xuất hiện trên đất, trong đá và rêu. Những người Tây Ban Nha, vui mừng không thể kiềm chế được, họ đã thu lượm vàng theo hết khả năng.
Hình như trong dịp này Bartolomeo đã tới một đỉnh cao hay một đèo thuộc dãy núi Cordiglera. Đỉnh núi cao này có thể là ngọn Cerro Negro (1.518 m), trên sườn phía Đông là những con suối của dòng sông Rio Veraguas. Dù sao chăng nữa những cuộc khảo sát mà tôi đã thực hiện ở đó cho thấy không có một đèo, hay đỉnh núi cao nào ở phần này của eo đất, để từ đó người ta có thể trông thấy cả hai đại dương, ngay cả trong ngày quang mây. Như vậy không phải những mưu kế của những người dân thường đã cản trở không cho người anh của Colombo làm người châu Âu đầu tiên trông thấy Thái Bình Dương từ đất Mỹ. Marco Polo và những người khảo sát khác đã nhìn thấy Thái Bình Dương từ châu Á. Những người dẫn đường đã chỉ cho Bartolomeo không phải đi về phía Nam mà về phía Tây. Ở đó, sau chuyến đi hai mươi ngày, vượt quá chân trời phía Tây, Bartolomeo đã tìm thấy nhiều mỏ vàng. Bartolomeo rất thích thú với việc này, cộng với số vàng chính mắt ông đã trông thấy và do những người của ông thu lượm. Tuy nhiên Bartolomeo biết rằng những người dẫn đường đã dùng mưu kế đưa ông đi xa khỏi lãnh thổ của tù trưởng của họ; vì thế ông muốn sục sạo lãnh thổ của Quibian trước khi trở về các tàu biển. Ông đã thấy nhiều vàng hơn. Không một nơi nào giàu hơn vùng Veragua.
Bartolomeo đã khảo sát từ ngày thứ hai, 6 tháng 2 đến ngày thứ bảy, 11 tháng 2, hay ngày chủ nhật, 12 tháng 2. Vào ngày thứ năm, 16 tháng 2 ông chỉ huy một đoàn khảo sát mới. Theo Dori Fernando:
"Bartolomeo đi vào vùng quê với năm mươi chín người; một thuyền đi biển chở thêm mười bốn người nữa. Sáng 17 tháng 2 họ đến Rio Urira, cách Belén bảy hải lý nữa, người tù trưởng với hai mươi người tùy tùng đã tiếp ông. Người tù trưởng cho nhiều thức ăn và họ bán một số gương vàng. Người tù trưởng và những quan chức của ông liên tục đưa một cây có khô vào miệng và nhai; đôi khi họ bôi bên người một ít bột mà họ mang cùng với cỏ. Có vẻ một thứ rất ghê tởm... Khi ăn họ luôn luôn nhai một thứ cỏ, chúng tôi nghĩ lý do vì họ bị sâu răng và ruỗng nát.
Cỏ này là cô-ca. Các học giả đồng ý cô-ca có nguồn gốc ở Nam Mỹ; họ chỉ không nhất trí về nguồn gốc chính xác của nó. Một số người cho rằng nguồn gốc của cô-ca là những vùng giáp ranh biển Ca-ri-bê, một số khác cho rằng cô-ca xuất phát từ Amazon và được đưa vào dãy núi Andes dọc theo các dòng sông. Cô-ca có nghĩa là "cây" trong tiếng Aymara. Một điều kỳ lạ là cỏ dược gọi là cây, cỏ ưu việt. Ngày nay người Aymara sống ở rặng núi Andes thuộc Bolivia và Peru, như họ đã sống trong thời đại Colombo. Việc nhai cô-ca và đồ đựng với cô-ca được miêu tả trong nghệ thuật đặc sắc và phổ biến trước thời Colombo. Tuy nhiên người ta chỉ tìm thấy những đồ tạo tác này ở miền Trung Colombo, Ecuador, Peru và Bolivia; còn ở eo đất Panama thì không có. Nhưng vùng tiếp xúc giữa Trung Mỹ và Nam Mỹ có rất nhiều. Hơn nữa khảo cổ học Trung Mỹ đã đưa ra ánh sáng một số đồ dụng nhỏ mà nhà khảo cổ Đan Mạch Olaf Holm muốn xác minh là cái "eliptas", một từ Quechua để chỉ những bình vôi cô-ca.
Vậy thì cô-ca, hay một loại thuốc rất gần gũi với cô-ca, là thứ cỏ mà người Anh-diêng ở Veragua nhai trong miệng; Bartolomeo đã gặp họ ngày 17 tháng 2 năm 1503. Chàng thanh niên Don Fernando cảm thấy cô-ca là một "thứ rất ghê tởm". Hình như đó là một linh cảm, những lá và bột đó sẽ trở thành tai họa cho nhân loại. Không giống người cháu trai của ông, Bartolomeo không bận tâm với cây cỏ mà những người bản xứ nhai với bột. Theo Las Casas, ngày thứ năm, 24 tháng 2, Bartolomeo trở về cửa sông ở Belén trên thuyền chở đầy vàng. Las Casas nói rằng đất đai phì nhiêu, hoa quả phong phú, có những cánh đồng ngô rộng mênh mông và đi tới đâu cũng thấy vàng, người Anh-diêng đeo rất nhiều vòng tay và vòng cổ.
Không có lý do gì để do dự, Colombo quyết định thành lập một thuộc địa mới, Santa María de Belén và giao cho Bartolomeo cai trị. Don Fernando nói rằng thuộc địa đó "ở trên bờ sông, cách cửa sông một quả đồi, ở phía bên kia một cái hào nằm về bên phải khi người ta đi từ sông vào". Ngày nay nơi này có thể xác minh được một cách rõ ràng vì không có gì thay đổi. Quả đồi có rừng rậm bao phủ nằm ở bên trái, phía Tây cửa sông. Giữa quả đồi và gò đất vốn là một phần của rặng núi trong đất liền, một thung lũng hẹp vẫn còn đi vào bờ phía Tây con sông, ở cuối phá nuớc mặn. Hẻm núi mang một dòng suối nước ngọt trong suốt. Dọc theo hẻm núi là một con đường bộ, thỉnh thoảng lại có những bậc cắt vào trong đá; những thủy thủ của Colombo có thể đã cát những bậc ấy bằng những cuốc chim của họ.
Trên dốc ở bên trên hẻm núi, những người Tây Ban Nha xây dựng tám ngôi nhà gỗ lợp bằng lá gồi. Trong mỗi ngôi nhà có mười người ở. Một ngôi nhà khác to hơn chứa đồ tiếp tế của người Âu: dầu, rau, pho mát, dấm, tỏi v.v... Vì có nhiều cá ở biển, thuộc địa sẽ được nuôi dưỡng tốt. Colombo để lại một chiếc tàu cho người anh và chuẩn bị ra đi bằng ba chiếc tàu khác, ông đợi mưa để có thể vượt qua bờ cát. Colombo hy vọng tới Tây Ban Nha nhanh chóng và gửi cho thuộc địa thêm người và đồ tiếp tế.
Lúc này Quibian nhận thấy rằng những người nước ngoài có ý định chiếm đóng vĩnh viễn lãnh thổ của ông nên quyết tâm giết họ và đốt những ngôi nhà và tàu của họ. Nhưng biết lực lượng của Tây Ban Nha mạnh hơn, ông tiếp tục giả vờ tình hữu nghị, chấp nhận những quà biếu của Colombo với sự hài lòng rõ rệt. Trong khi đó lấy cớ chiến tranh với một tù trưởng gần đấy đã làm ông bị thương ở cánh tay, ông tập hợp lực lượng. Hơn một nghìn quân nhân dựng lán trại với ông gần thuộc địa. Đó là chiến tranh, cuộc chiến tranh thứ hai tại châu Mỹ giữa người Tây Ban Nha và người Anh- diêng đầu thời đại Colombo. Cuộc chiến tranh thứ nhất đã xẩy ra trên đảo Haïti.
Colombo lập tức chăm lo việc vũ trang các tàu và tăng cường phòng thủ thuộc địa. Nhưng Diego Méndez và Bartolomeo thuyết phục ông, không để cho kẻ thù có thời gian, làm cho chúng bất ngờ bằng một động tác mạnh dạn, bắt cóc Quibian. Bartolomeo và Méndez, với tám mươi người trang bị đầy đủ, đi xuồng tới Veragua. Họ bắt Quibian cùng với khoảng 50 người thân quyến và đầy tớ, xiềng họ lại và đưa họ lên các xuồng. Trong khi dòng nước đưa thuyền xuôi dòng, Quibian bắt đầu rên la. Người gác ông ta xúc động trước lời than vãn của người tù trưởng, nới lỏng dây trói, nhưng vẫn giữ một đầu dây. Khi người Tây Ban Nha nhìn đi nơi khác, Quibian nhảy xuống nước và biến đi. Người gác không dám giữ dây thừng vì sợ bị kéo theo nên phải bỏ tay ra.
Mọi ngươi nghĩ Quibian bị chết, nhưng mặc dù tay và chân bị trói, ông đã bơi tới bờ. Quibian về tới làng và đợi ngày trả thù. Cơ hội đã đến khi nước sông dâng lên và Colombo quyết định ra đi với ba tàu, để lại tám mươi người, một tàu với Bartolomeo và Méndez như dự kiến. Ba tàu vượt qua bờ cát và đợi gió thuận chiều ở bên kia vỉa san hô. Colombo cử Diego Tristano chỉ huy mười một người, lấy thuyền của tàu Bermuda lên bờ đi kiếm nước ngọt. Đồng thời sáu mươi người từ pháo đài nhỏ rời thuộc địa trên những chiếc xuồng để từ biệt bạn bè. Chỉ còn hai mươi người với Bartolomeo và Méndez ở lại gác những ngôi nhà. Ngày 6 tháng 4 năm 1503, Quibian và bốn trăm người trang bị bằng tên, giáo và gậy ra khỏi rừng rậm và bất ngờ bao vây làng Tây Ban Nha.
Trận đánh này và những trận tiếp theo là những trận đẫm máu nhất trong suốt thời kỳ những cuộc đi của Colombo. Với loạt tên đầu tiên bảy người Tây Ban Nha bị thương, một người bị thương nặng rồi chết. Ném cung sang một bên, những người Anh-diêng tấn công bằng gậy và giáo; những người Tây Ban Nha mặc áo giáp và mang kiếm, đợi họ. Mười chín người Anh-diêng ngã xuống, bị thương vì kiếm và lao; số còn lại rút lui vào rừng, tại đây họ bắn ra hàng loạt tên. Bartolomeo bị thương bởi lao ở ngực và được một nhóm người cùng đi hỗ trợ, đã chiến đấu lại bằng nỏ. Cuộc giao chiến thứ nhất kéo dài ba giờ. Rồi chiếc thuyền của tàu Bermuda do Colombo cử đi tìm nước ngọt đã về. Từ trên bờ, Diego Méndez ra hiệu cho Tristano quay trở lại, nhưng Tristano làm ngơ lời cảnh cáo, vượt qua phá nước mặn, ngược sông, tới một con suối trong chảy vào sông. Ở hai bên bờ, người Anh-diêng núp trong rừng rậm và đi theo. Đến suối, họ bao vây chiếc xuồng và ập vào những người Tây Ban Nha. Bị thương và chảy máu, Tristano cố rút lui khi một chiếc lao lao trúng mắt phải ông, và ông ngã chết trong đáy thuyền. Tất cả những người khác đều bị giết, trừ một người thoát chết vì ngã xuống sông khi bị thương. Bơi dưới nước, người này tới được trại của người Tây Ban Nha và nói với họ về thảm họa.
Chiều tối hôm đó, sáu mươi người đã đi từ biệt đội tàu, trở lại làng. Họ thấy kết quả thê thảm của trận đánh và trông thấy xác chết của đồng đội bị chặt chân tay một cách kinh khủng, trôi trên sông, quạ và chim ưng ăn thịt họ. Vì ít người và một số bị thương, những người Tây Ban Nha đã quyết định lên những chiếc thuyền Colombo để lại và cùng đi với đoàn tàu, nhưng bờ cát lại một lần nữa bịt kín cửa sông; không một chiếc xuồng nào có thể vượt tới biển cả.
Thời tiết xấu kéo dài mười ngày, và khi Tristano không trở lại, Colombo lo ngại về ông ta. Colombo hy vọng người Anh-diêng không tấn công thuộc địa vì có năm mươi con tin ông đang giữ trên tàu. Mỗi buổi chiều tối ông cho nhốt họ dưới hầm tàu và đặt một xích lớn trên của hầm; một số thủy thủ ngủ ngay trên đó. Một đêm người Tây Ban Nha quên xích và đã trải nệm rơm lên trên cửa hầm như thường. Những tù nhân xếp một đống đá dàn lên, rồi đứng lên vai nhau, nâng cửa hầm tàu, lật những người ngủ. Một số tù nhân nhảy xuống biển. Số khác bị bắt lại và khóa lại xuống hầm bằng xích. Trong đêm những tù nhân còn lại, trong đó có những phụ nữ, đã thu lượm những dây thừng trong hầm và treo cổ từ những đầm boong tàu. Họ phải gập đầu gối lại để treo cổ vì không có đủ chỗ để treo cổ tự do.
Những xác chết đã làm cho Colombo hoảng. Trong mười ngày thời tiết xấu, ông không biết tin gì về thuộc địa, ông hy vọng những người trên bờ được an toàn vì ông đã giữ những con tin; hy vọng tan vỡ, vì bây giờ ông không còn một con tin nào. Colombo bắt đầu không biết việc gì đã xẩy ra. Pedro de Ledesma tình nguyện bơi lên bờ, một chiếc thuyền chở ông tới được vách san hô. Ông cởi quần áo, nhảy xuống và bơi, tránh những san hô và tới những đồn nhỏ Bartolomeo đã xây trên bãi biển. Ông được chào mừng bằng những tiếng hô lớn, hoan hô cũng như phản đối: những người đàn ông sẵn sàng đương đầu với biến động trên chiếc tàu tả tơi đã được để lại cho họ, còn hơn là ở lại vùng đất Veragua không thuận lợi này. Như thế, cố gắng thành lập một thuộc địa ở đây đã thất bại một cách thảm hại. Tuy nhiên, nhà sử học không thể quên sự kiện ở Veragua, đáng nhớ vì nó tiêu biểu một trong những thời kỳ có ý nghĩa nhất của cuộc phát kiến vĩ đại.
Từ đảo Guanaja đến Honduras, Nicaragua, Costa Rica và cuối cùng tới Panama: đổi hướng liên tục từ Tây sang Đông và từ Đông sang Tây, Colombo đã phát hiện ra tất cả Trung Mỹ trong chuyến đi thứ tư của ông. Bỏ qua, hoặc đơn thuần đánh giá thấp tầm quan trọng của chyến đi này sẽ là một sai lầm nghiêm trọng về viết sử. Veragua không những chỉ tượng trưng cho vàng và cô-ca mà còn tiêu biểu cho eo đất giữa Bắc và Nam Mỹ. Chín năm sau khi Balboa vượt qua eo đất này và nói với Thế Giới Công Giáo về một đại dương mới, ông chỉ đơn thuần gặt hái kết quả của sự kiên cường và quyết tâm của Colombo trong sự kiện quan trọng cuối cùng của một phát kiến vĩ đại. Thường bị những nhà sử học lãng quên, cái tên Veragua vẫn khắc thành những chữ không thể phai mờ qua nhiều thế kỷ: những con cháu trực tiếp của Colombo vẫn mang danh tước quận công Veragua.